Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC CỦA TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.31 KB, 4 trang )

NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC CỦA TRUYỆN KIỀU
BÚT NHƯ MUỐN MÚA VÀ MỰC NHƯ MUỐN BAY
nguyenvanquy
Đó là nghệ thuật đã được thăng hoa của Truyện Kiều. Nghệ thuật ấy trước nhất được
thể hiện qua bút pháp tả cảnh ngụ tình, và việc sử dụng từ láy hết sức thuần thục, nhuần
nhuyễn, điêu luyện của Nguyễn Du.
Cảnh vật đìu hiu, buồn bã, hoang sơ, các từ láy đầy tâm trạng trong đoạn thơ nói về
Kiều gặp mả Đạm Tiên sau đây, đã lột tả được tâm trạng của Kiều trong ngày đầu tiên
bước vào đời rất chi là trĩu nặng bất an, bồn chồn, lo lắng:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước lần theo ngọn tiểu khê
Nhìn theo phong cảnh bốn bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Có cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
Đoạn thơ như là lời dự báo cho Kiều và cho độc giả rằng: tương lai của Kiều sẽ chìm
nổi lênh đênh. Cũng qua đoạn thơ này ta thấy Nguyễn Du bị ám ảnh rất nặng bởi “Tài
mệnh tương đố”, và hay vận vào mình. Thì nàng Kiều của Đại thi hào cũng vậy thôi, lúc
nào cũng bồn chồn lo lắng, bất an, kể cả khi vui nhất, hạnh phúc nhất: “Bây giờ rõ mặt đôi
ta, biết đâu rồi nữa lại là chiêm bao”; “Rồi đây bèo dạt mây tan, biết đâu hạc nội mây ngàn
là đâu”; “ Đến bây giờ mới thấy đây, mà lòng đã chắc những ngày một hai”.
Cảnh vật và các từ láy trong đoạn thơ nói về Mã Giám Sinh rước Kiều rồi đẩy Kiều
vào Lầu xanh, và việc Vương ông tiễn đưa con sau đây cũng nói lên được tâm trạng của
Kiều. Kiều buồn, buồn lắm, ê chề lắm! Buồn đến nỗi cỏ cũng phải “rầu rầu” buồn theo,
và sương cũng phải “đầm đầm” lệ sa cơ mà: “Trời hôm mây gió tối rầm, rầu rầu ngọn
cỏ đầm đầm cành sương”! Cuộc đời Kiều vì thế mà cũng “khấp khểnh” như vó câu, “gập
ghềnh” như bánh xe vậy: “Đoạn trường thay lúc phân kì, vó câu khấp khểnh bánh xe gập
ghềnh” ! Gió cũng phải “đùng đùng” nổi giận vì thói tráo trở của Mã Giám Sinh cơ mà!
Thì mới ngon ngọt hứa với Vương ông như vầy mà đã nuốt lời trốn chạy rồi: “Mai sau dù


có thế nào, kìa gương nhựt nguyệt nọ dao quỷ thần; dùng đùng gió giục mây vần, một xe
trong cõi hồng trần như bay”. Và từ “thăm thẳm”, từ“đăm đăm” trong câu sau đây, đã nói
lên được sự xa cách mõi mòn thường trực chờ đợi,nhớ về gia đình trong lòng Kiều sau này.
Và đó cũng là tâm trạng dự báo của Vương ông trong buổi tiễn đưa con.
Thủ pháp điệp từ ngữ của Đại thi hào cũng rất điêu luyện . Điệp từ ngữ trong đoạn
thơ sau đây đã lột tả được nỗi lòng nôn nóng tìm Kiều của KimTrọng: “Hỏi ông ông mắc
tụng đình, hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha; hỏi nhà nhà đã dời xa; hỏi Vương Quan
với Vương bà Thuý Vân,đều là sa sút khó khăn, may thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi”. Hỏi,
hỏi, hỏi, liên tục, dồn dập, chứng tỏ Kim Trọng đang nóng lòng, sốt ruột đi tìm nà Kiều
lắm! Thì đây: “Bao nhiêu của bấy nhiêu đàng, còn tôi tôi quyết tìm nàng mới thôi”;”Rắp
mong treo ấn từ quan, mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua; dấn mình trong áng can qua,
vào sinh ra tử lọ là thấy nhau”. Cũng do sức mạnh của điệp từ ngữ mà cơn ghen của Hoạn
nương được đẩy lên đến tột cùng, hậm hực, “ càng dập càng nồng”, và rất dữ dội: “Làm
cho nhìn chẳng được nhau, làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên; làm cho trông thấy nhỡn
tiền, cho người thăm ván bán thuyền biết tay; làm cho cho mệt cho mê, làm cho đau đớn ê
chề cho coi; bắt khoan bắt nhặt đến lời, mắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay”!
Thủ pháp tu từ thậm xưng, cường điệu cũng được Nguyễn Du khai thác, huy động
triệt để. Vui mừng thì thật là tột đỉnh vui mừng trong hợp hoan thế này: “Xắn tay mở
khoá động rào, rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai; mặt nhìn mặt càng thêm tươi, bên lời vạn
phúc bên lời hàn huyên”( Kiều qua nhà Kim); “Một nhà sum họp trúc mai, càng sâu nghĩa
biển càng dài tình sông; hương càng đượm lửa càng nồng, càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu
sen”(Thúc Sinh đón Kiều về làm thiếp); “Huệ lan sực nức một nhà, từng cay đắng lại mặn
mà hơn xưa”(quan kết duyên cho Thúc và Kiều); “Cùng nhau trông mặt cả cười, dan tay về
chốn trướng mai tự tình; vinh hoa bõ lúc phong trần, tình xuân càng lại thêm xuân một
ngày”(Khi Từ Hải đã tìm được công danh rồi về với Kiều); “Nỗi mừng biết lấy gì cân, lời
tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu”(Kiều gặp lại gia đình); “Lời tan hợp nỗi hàn huyên, chữ
tình càng mặn chữ duyên càng nồng”(Thúc Sinh về với Hoạn nương). Cái buồn và ê chề thì
cũng thật là buồn và ê chề tận đáy thâm sâu thế này: “Thẫn thờ gió trúc mưa mai, ngẩn ngơ
trăm nỗi dùi mài một thân; ôm lòng đòi đoạn xa gần, chẳng vò mà rối chẳng
dần mà đau; Thiếp như con én lạc đàn, phải cung rày đã sợ làn cây cong; cùng đường dù

tính chữ tòng, biết người biết mặt biết lòng làm sao” . Và cái khóc của Kim Trọng cũng thật
là ghê gớm quá thế này: “vật mình vẫy gió tuôn mưa, dầm dề giọt ngọc thẫ thờ hồn mai”.
Biện pháp thậm xưng, cường điệu có tác dụng gây ấn tượng mạnh, làm tăng sức gợi tình
gợi cảm chính là vì vậy !
Cánh xây dựng nhân vật của Đại thi hào rất toàn điện, nên hình dung và đánh giá về
nhân vật cũng rất toàn diện, khách quan. Ông xây dựng nhân vật Kiều qua việc tả: chân
dung, nội tâm, lời nói, việc làm, và qua đánh giá của tác giả, cũng như qua đánh giá của các
nhân vật khác. Bởi vậy, con người của Kiều rất toàn diện như vầy: “Những người hiếu
nghĩa xưa nay, trời làm chi đến lâu ngày càng thương; người sao hiếu nghĩa đủ đàng, kiếp
sao chọn những đoạn tràng thế thôi”(nhận xét của Vãi Giác Duyên); ‘Thuý kiều sắc sảo
khôn ngoan, vô duyên là phận hồng nhan đã đành; lại mang lấy một chữ tình, khư khư mình
buộc lấy mình vào trong; xét trong duyên nghiệp Thuý Kiều, mắc điều tình ái khỏi điều tà
dâm; lấy tình thâm trả nghĩa thâm, bán mình đã động hiếu tâm đến trời” (nhận xét của Sư
Tam Hợp); “Chị sao phận mỏng đức dày, kiếp xưa đã vậy đời này dễ ai; tâm thành đã
thấu đến trời, bán mình là hiếu cứu người là nhân; một niềm vì nước vì dân, âm công cất
một đồng cân đã già”(đánh giá của Đạm Tiên); “Thuý Kiều tài sắc ai bì, có nghề đàn lại giỏi
nghề văn thơ; kiên trinh chẳng phải gan vừa, liều mình thế ấy phải lừa thế kia; thoắt buôn về
thoắt bán đi, mây trôi bèo nỗi thiếu gì là nơi”(nhận xét của lại già họ Đô); “Thương vì hạnh
trọng vì tài, Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba”(Thúc ông thấy về Kiều); “Liền tay trao lại
Thúc Sinh, rằng tài nên trọng và tình nên thương; ví chăng có số giàu sang, tài này dẫu cất
nhà vàng cũng nên”(Hoạn Thư thấy về Kiều); “Như nàng lấy hiếu làm trinh, bụi nào
cho đục được mình ấy vay”(Kim Trọng nhận xét về Kiều); "Quản gia có một mụ nào, thấy
người thấy nết ra vào mà thương”(Mụ quản gia thấy Kiều). . .
Thủ pháp đối lập cũng được Nguyễn Du khai thác và sử dụng thành công khi xây dựng
các nhân vật Mã Giám Sin, Sở Khanh và Bạc Hạnh như vầy:
Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh. . .
Than ôi sắc nước hương trời

Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây
Giá đành trong nguyệt trên mây
Sao hoa hoa khéo đoạ đày bấy hoa
Tức gan riêng giận trời già
Lòng này ai thấu cho ta hỡi lòng
Thuyền quyên ví biết anh hùng
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi. . .
Rằng ta có ngựa truy phong
Có người dưới trướng vốn dòng kiện nhi. .
Dầu khi gió kép mưa đơn
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì. . .
Thế nhưng:
Tiếng gà xao xác gáy mau
Phía sau đã thấy người đâu dậy dàng
Nàng càng thổn thức gan vàng
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào. . .
Còn đang suy trước nghĩ sau
Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào
Sở Khanh lên tiếng rêu rao
Nghe đồn rằng có con nào ở đây
Phao cho quyến gió rủ mây
Hãy làm cho biết mặt này là ai. . .
**************************
Hỏi tên rằng Mã Giám Sinh
Hỏi quê rằng huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. . .
Mai sau dầu có thế nào
Kìa gương nhựt nguyệt nọ dao quỷ thần. . .
Thế nhưng:

Ghế trên ngồi tót sổ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra. . .
Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau
Hẳn ba trăm lạng kém đâu
Trước là vừa vốn về sau thì lời
Miếng ngon kế đến tận nơi
Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham. . .
***************************
Này chàng Bạc Hạnh cháu bà
Người trong thân thích ruột rà chẳng ai
Cửa nhà buôn bán Châu Thai
Thật thà có một đơn sai chẳng hề. . . .
Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng
Quá lời nguyện hết Thành Hoàng Thổ Công
Thế nhưng:
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi
Bạc Sinh lên trước tìm nơi mọi ngày
Và nữa, ở Truyện Kiều Nguyễn Du tiếp thu, kế thừa, vận dụng tục ngữ-ca dao-dân ca
và tinh hoa của thơ Đường rất hợp đạt: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi, nửa in gối chiếc nửa soi
dặm trường”(ca dao có câu như vầy:”Vầng trăng ai xẻ làm đôi, đường trần ai vẽ ngược
xuôi hỡi chàng); “Sinh rằng từ thuở tương tri, lòng riêng riêng những nặng vì nước non;
trăm năm tính cuộc vuông tròn, phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”(Trong ca dao có câu
như thế này: “Làm người phải đắn phải đo, phải cân nặng nhẹ phải dò nông sâu); “Hạt
mưa sá nghĩ phận hèn, liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”(Trong ca dao và trong
thơ Đường có những câu như vầy:”Xuân tàn đáo tử ti phương hận”; “Con tằm đến thác tơ
còn vướng, ngọn nến chưa tàn lệ vẫn sa”)
Bút pháp điển cố, ước lệ-tượng trưng cũng rất dào dạt trong Truyện Kiều. Nhưng nó
không phải là nghệ thuật đặc sắc của Truyện Kiều, vì xu thế chung về nghệ thuật của thơ
văn Trung dại là thế! Điển cố thì làm cho thơ văn hàm súc, cô đọng hơn, chẳng hạn như:

“Tình cờ chẳng hẹn mà nên, mạt cua mướp đắng hai bên một phường”(nói về tích lừa đảo
gặp lừa đảo, bịp bợm gặp bịp bợm); “Sinh rằng. . ., mà lòng lại nhớ đến Bình Nguyên
Quân”(nhớ đến tích con người có lòng hào hiệp); “Dâng thư nđã thẹn nàng Oanh, lại thua ả
Lý bán mình hay sao”(nhớ đến tích nàng Thôi Oanh Oanh và nàng Lý có đức trung hiếu
vẹn toàn); “Sinh rằng nổi tiếng cầm đài, nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”(nhớ đến
tích bạn tri âm giữa Chung Tử Kỳ và Bá Nha)
Đại diện cho cái đẹp, cho giá trị, phẩm chất theo ước lệ-tượng trưng trong thơ văn
Trung đại và trong Truyện Kiều thường là:tùng, cúc, trúc, mai, cọp gió, rồng, mây, xuân,
huyên, . . .: “Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân, tuyết sương che chở cho thân cát đằng;Sen tàn
cúc lại nở hoa, sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân;Mượn điều trúc viện thừa lương, dem
về hãy dấu tạm nàng một nơi; Vật mình vẫy gió tuôn mưa, dầm dề giọt ngọc thẩn thờ hồn
mai; Trai anh hùng gái thuyền quyên, phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng; Xót
thay xuân cỗi huyên già, tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi”; . Và đại diện cho cái ác,
cái xấu thường là:đứa, gã, bọn, hùm sói,. . .: “Nào ngờ gã Mã Giám Sinh, vốn là một đứa
phong tình đã quen; Còn đang suy trước nghĩ sau, mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào;Sở
Khanh lên tiếng rêu rao, nghe đồn rằng có con nào ở đây;Gữa vòng gươm dựng giáo trần,
kề lưng hùm sói làm thân tôi đòi; . ”
Hoà quyện hài hoà với thể thơ Lục bát, Truyện Kiều cứ nghe êm êm, ngân nga ngân
nga, du dương du dương, lắng sâu lắng sâu trong lòng mãi mãi, và như thấy bút đang muốn
múa và mực đang muốn bay chính là vì vậy!

×