Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

HUWE-1 trong điều trị ung thư não ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.88 KB, 5 trang )


HUWE-1 trong điều trị ung thư não





Gần đây truyền thông quốc tế đề cập việc khám phá protein HUWE-1
có liên quan đến ung thư não và có người xem đây là một chìa khóa quan
trọng trong việc điều trị bệnh ung thư não. Khám phá này có thể là một tiến
bộ mới của y học cơ bản, nhưng việc ứng dụng kết quả nghiên cứu để chẩn
đoán và điều trị ung thư não thì sao?
Trong nhiều nguyên nhân gây ung thư não, yếu tố di truyền gần đây
được chú ý nhiều, bởi vì hiểu được cơ chế của gen có thể dẫn đến việc điều
trị và tiên lượng bệnh tốt hơn. Gần đây, một nhóm nghiên cứu thuộc Đại học
Columbia (Hoa Kỳ) tuyên bố đã phát hiện một protein có tên là HUWE-1 có
khả năng kích thích các tế bào gốc của não sản sinh các neuron mới, nhưng
chức năng này bị vô hiệu hóa trong những năm cuối đời người và dẫn đến
ung thư. Khi chuột bị làm cho mất protein HUWE-1 thì dễ bị ung thư.
Ngược lại, khi tiêm protein HUWE-1 vào chuột thì làm giảm nguy cơ ung
thư não. Kết quả này cho thấy HUWE-1 có thể là một mục tiêu quan trọng
để điều trị ung thư não.
Tuy trên lý thuyết việc biết được cơ chế vận hành của protein HUWE-
1 có thể là một khám phá quan trọng, nhưng việc sử dụng protein này cho
điều trị ung thư não ở người có lẽ chỉ là một triển vọng chứ chưa thể kỳ
vọng gì nhiều từ nghiên cứu này.
Ung thư não là một bệnh có liên quan đến rất nhiều yếu tố nguy cơ, kể
cả gen. Gen thường tương tác với các gen khác hay tương tác với môi trường
làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa biết
HUWE-1 tương tác với gen nào hay môi trường gì và cơ chế tương tác ra
sao. Đây là một câu hỏi lớn vẫn chưa có câu trả lời.


Ung thư não có lẽ là một trong những bệnh ung thư đáng sợ nhất, vì
nguy cơ tử vong của bệnh nhân rất cao. Phần lớn bệnh nhân tử vong trong
vòng hai năm sau chẩn đoán. Dù ung thư não có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi
nào nhưng nhiều nghiên cứu ở các sắc dân Âu Mỹ cho thấy bệnh nhân
thường ở hai nhóm tuổi: 3-12 tuổi và 40-70 tuổi. Thượng nghị sĩ Edward
Kennedy là một bệnh nhân ung thư não.
Tuy nhiên, một điều “an ủi” là bệnh khá hiếm trong cộng đồng, với tỉ
lệ mắc bệnh chỉ 0,01% (hay 1/17.000 người) ở Hoa Kỳ. Ở châu Á tuy chưa
có số liệu chính thức nhưng tỉ lệ còn thấp hơn con số trên.

Ung thư não do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó yếu tố môi trường
có lẽ đóng vai trò quan trọng hơn yếu tố gen. Chẳng hạn như phơi nhiễm
chất vinyl chloride (chất dùng để sản xuất các sản phẩm nhựa như ống nước,
dây điện, đồ gia dụng) là một yếu tố nguy cơ chính có liên quan đến ung thư
não. Người mắc các bệnh như ung thư da, ung thư phổi, ung thư vú và thận
cũng có nguy cơ cao bị ung thư não.
Trở lại kết quả của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Columbia, tuy
phần lớn tiến bộ trong y học hiện đại dựa vào những quan sát và nghiên cứu
trên chuột nhưng chỉ có dưới 1% những kết quả nghiên cứu trên chuột có thể
ứng dụng cho người. Thậm chí, trong số kết quả được ứng dụng trên người
thì tỉ lệ thành công cũng thấp, có khi gây thảm họa cho bệnh nhân. Do đó
còn quá sớm để chúng ta kỳ vọng vào protein HUWE-1 có thể làm thay đổi
vấn đề chẩn đoán và điều trị ung thư não.
Với những bệnh phức tạp như ung thư và tiểu đường, đã có nhiều
nghiên cứu cho thấy cho dù chúng ta biết được 100 gen đi nữa thì việc tiên
lượng bệnh vẫn không chính xác gì hơn so với các yếu tố lâm sàng mà
chúng ta đang sử dụng! Thật vậy, đã có nhiều nhà nghiên cứu chất vấn tiềm
năng tiên lượng bệnh dựa vào gen, vì giá trị tiên đoán của gen còn quá hạn
chế. Đối với những bệnh hiếm thấy trong cộng đồng như ung thư não thì
việc tiên lượng bệnh bằng gen lại càng khó khăn hơn, do tín hiệu từ gen còn

quá thấp để có thể ứng dụng vào thực hành lâm sàng.
Nói tóm lại, việc phát hiện protein HUWE-1 có thể xem là một tiến bộ
trong y học, thể hiện bước đầu trên con đường dài để hiểu biết về bệnh ung
thư não, nhưng việc ứng dụng kết quả này vào việc điều trị hay tiên lượng
bệnh ung thư não chưa thể xảy ra nay mai. Do đó, chúng ta không nên đặt
quá nhiều kỳ vọng vào những nghiên cứu cơ bản như trên.

×