Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Kiến thức lớp 12 “Chiếc thuyền ngoài xa” –Nguyễn Minh Châu-phần10 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.85 KB, 27 trang )

Kiến thức lớp 12
“Chiếc thuyền ngoài xa” –Nguyễn
Minh Châu-phần10

ĐẶC ĐIỂM LỜI NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
(Xét từ góc độ phong cách học)



A/Mở đầu:

Trong thời kì văn học sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu (1930-
1989) không phải là nhà văn đổi mới đầu tiên nhưng lại là một
trong “những nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất”.
Hướng đổi mới trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thể hiện
rõ rệt trên tất cả các phương diện. Về nội dung, Nguyễn Minh
Châu trong tác phẩm của mình đã nới rộng phạm vi hiện thực, bổ
sung vào hiện thực quen biết những mảng còn chưa được nói
đến hoặc còn né tránh trong văn học thời kì trước đó. Chẳng hạn
như tính chất bi kịch và mặt trái của chiến tranh đối với số phận
con người, phát hiện về cuộc sống với biết bao nghịch lí, biết bao
ngẫu nhiên bất ngờ, những phức tạp, bí ẩn của con người trong
cuộc sống thường nhật… Về nghệ thuật, tính đơn giọng, độc
thoại đã bị phá vỡ, thay vào đó là tính đa thanh, đối thoại. Lời
người kể chuyện dù khách quan hay chủ quan đều không phải là
cái nhìn thuần nhất. Tính trữ tình- triết luận của lời kể gắn với
kiểu nhân vật tự ý thức…

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của
Nguyễn Minh Châu, thể hiện rõ nét những đổi mới của văn học


Việt Nam sau 1975 nói chung và của Nguyễn Minh Châu nói
riêng. Tác phẩm là những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về
nghệ thuật và con người. Góp phần đưa thông điệp của nhà văn
đến với độc giả một cách tự nhiên, bên cạnh việc tạo dựng tình
huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời
sống thì đặc điểm lời người kể chuyện được quy định bởi ngôi
kể, điểm nhìn cũng có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, việc tìm hiểu
đặc điểm lời người kể chuyện trong tác phẩm này ở các tài liệu
tham khảo cho việc giảng dạy ở trường THPT còn sơ lược. Vì
vậy, chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn có thể vận dụng
vào công việc giảng dạy của bản thân sau này.

B/Nội dung:

I/Những vấn đề lí thuyết về lời nói nghệ thuật

1.Phong cách học và phong cách học lời nói

Phong cách trong phạm vi ngôn ngữ học theo nghĩa phổ biến
nhất chính là đặc trưng của sự lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ
trong giao tiếp. Như vậy, khái niệm phong cách bao hàm trong nó
cả phong cách ngôn ngữ và phong cách lời nói. Khái niệm “phong
cách” của phong cách học cũng không hoàn toàn biệt với khái
niệm phong cách của nghiên cứu văn học mà có mối liên quan
nhất định. Nó bao hàm vấn đề đặc trưng của sự lựa chọn, tổ
chức hình thức ngôn từ của văn bản nghệ thuật

“Phong cách học là khoa học nghiên cứu đặc trưng phong cách
của hệ thống các phương tiện ngôn từ và giá trị của các kiểu lựa
chọn, kết hợp những phương tiện này trong các hoàn cảnh giao

tiếp nhất định” (4, 401)

Phong cách học lời nói là một phạm trù quan trọng của phong
cách học. Theo PGS. TS Nguyễn Thái Hòa, “phong cách lời nói là
phong cách học lấy lời nói làm đối tượng nghiên cứu của mình,
trong đó kể cả các văn bản và văn bản nghệ thuật” (2, 184). Là
một bộ phận của phong cách học, phong cách học lời nói không
chỉ nghiên cứu lời nói- ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp hàng
ngày mà còn nghiên cứu ngôn ngữ viết trong văn bản nói chung,
văn bản nghệ thuật nói riêng trong tính đối thoại của nó.

2.Lời nói nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật

Theo TS Nguyễn Thị Ngân Hoa trong cuốn Nhập môn ngôn ngữ
học thì: “Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ trong tác phẩm văn
chương . Trong một tác phẩm văn học cụ thể, ngôn ngữ nghệ
thuật được tổ chức theo mục đích thẩm mĩ của chủ thể, xuất hiện
trong những hình thức cấu trúc riêng biệt, cụ thể. Ngôn ngữ được
vận dụng trong tác phẩm có tính cá thể hóa cao độ, bao gồm
nhiều thành phần, kiểu, dạng phụ thuộc vào các nhân tố: chủ thể,
người kể, nhân vật, điểm nhìn, giọng điệu….Vì vậy, khi đề cập
đến các thành phần trong cấu trúc ngôn ngữ của một văn bản cụ
thể, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, thi pháp học sử dụng
khái niệm “lời nói”: lời người kể, lời nhân vật, lời đối thoại, lời độc
thoại, lời trực tiếp, lời gián tiếp, lời nửa trực tiếp…” (4, 406-407).

3.Các thành phần của lời nói nghệ thuật trong văn xuôi tự
sự; đặc điểm lời người kể chuyện:

3.1.Các kiểu và các dạng thức của lời nói nghệ thuật được phân

loại chủ yếu theo hai tiêu chí: kết cấu và chức năng. Theo tiêu chí
chức năng, lời nói nghệ thuật trong văn xuôi tự sự bao gồm: lời
người kể chuyện, lời nhân vật và các kiểu lời trung gian

3.2.Lời người kể chuyện, xét về chức năng tổ chức cốt truyện “là
nhân tố cơ bản có chức năng liên kết toàn bộ các kiểu lời nói, các
cấu trúc lời nói khác nhau trong tác phẩm” (1, 192), tạo nên quá
trình hình thành và phát triển của cốt truyện, đảm bảo cho các
biến cố trong tác phẩm diễn ra. Qua đó bộc lộ quan điểm, cách
đánh giá của nhà văn về con người và hiện thực được nói tới. Do
đó lời kể luôn xuất phát từ những điểm nhìn nhất định, gắn với
vấn đề vai kể, giọng kể… Trong văn xuôi tự sự điểm nhìn có khi
được di chuyển, vai kể, giọng kể cũng không thuần nhất.

Xét về chức năng xây dựng hình tượng, có thể phân loại lời
người kể thành lời kể/ lời trần thuật, lời miêu tả, lời trữ tình (lời
bình luận trực tiếp).

Lời người kể chuyện nếu không nhất trí với khuynh hướng yêu
ghét của tác phẩm, tạo thành người tràn thuật không đáng tin
cậy. Ngược lại, nếu lời của người trần thuật nhất trí với nhân vật,
với tác giả hàm ẩn trong tác phẩm thì người trân thật là đáng tin
cậy.

4.Mối quan hệ giữa các thành phần của lời nói nghệ thuật
với điểm nhìn, giọng điệu trong văn xuôi tự sự:

Các thành phần của lời nói nghệ thuật lien quan mật thiết đến
điểm nhìn, giọng điệu, là cơ sở để nhận diện điểm nhìn, giọng
điêu. Ngược lại, chính cách lựa chon điểm nhìn và ý đồ thể hiện

giọng điệu đã quy định cấu trúc lời nói nghệ thuật trong tác phẩm.

II/Đặc điểm lời người kể chuyện trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa.

1.Người kể, vai kể

Trong Chiếc thuyền ngoài xa người kể chuyện thuộc ngôi thứ
nhất-xưng tôi, đồng thời là nhân vật chính của truyện. Người kể
chuyện xuất hiện với tư cách một nghệ sĩ nhiếp ảnh, ngoài ra còn
với tư cách “một người lính giải phóng từng mười năm cầm
súng”.

Với tư cách người nghệ si nhiếp ảnh, người kể chuyện đã kể lại
câu chuyện về chuyến đi công tác của mình: Được trưởng phòng
giao nhiệm vụ chụp ảnh bổ sung vào bộ lịch một cảnh biển buổi
sáng có sương, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong
cảnh thật là thơ mộng, còn sương mù vào tháng bảy. Tại đây,
sau nhiều ngày phục kích, anh ngẫu nhiên gặp được một cảnh
trời cho: “ …trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh
họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu
sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh
mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng
phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào
bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm
lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt
cánh của một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh
sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn
bích”. Trước vẻ đẹp ấy người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái
tim như có cái gì bóp thắt vào”. Trong khoảnh khắc đó, anh

“tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn
thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
Nhưng ngay sau cái “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn,
do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại” anh đã chứng kiến
một cảnh hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của chiếc thuyền khi còn ở
ngoài xa. Bước ra từ chính chiếc thuyền ấy là hai người, một đàn
ông và một đàn bà. Sau khi đi đến chiếc xe rà phá mìn trên bãi
cát, người đàn ông “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng
chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa thở
hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống,
lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: Chúng mày chết
đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.Còn người
đàn bà nhẫn nhục cam chịu, không hề kêu một tiếng, cũng không
tìm cách trốn chạy. Tất cả mọi việc khiến “tôi kinh ngạc đến mức
trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Tiếp sau
đó là cảnh đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh bố. Lão đàn ông
‘dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo
ngã xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về
thuyền. Người đàn bà sau khi có những cử chỉ như van xin đứa
con cũng đuổi theo gã đàn ông, trở lại thuyền. Phía sau họ, “tôi
và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng hỏng” với ánh mắt ngơ
ngác. “Như trong câu chuyện cổ tích đầy quái đản, chiếc thuyền
lưới vó đã biến mất”.

Lần thứ hai chứng kiến cảnh gã chồng vũ phu hành hạ người đàn
bà, dường như bản chất người lính từng chiến đấu vì chính nghĩa
đã khiến anh không thể làm ngơ, không thể đứng ngoài với thái
độ bàng quan trước những hành động phi nhân tính, người kể
chuyện đã xông vào can thiệp: “tôi nện hắn (…) bằng bàn tay rắn
chắc của người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng”.


Khi ở tòa án, người kể chuyện tiếp tục bị bất ngờ bởi những
nghịch lí: người đàn bà chấp nhận chịu đựng những trận đòn
man rợ chứ nhất định không chiu bỏ gã chồng vũ phu: “Quý tòa
bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ
nó…”. Câu nói của người đàn bà khiến người kể chuyện “cảm
thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút
hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”.Có lẽ với cái nhìn vốn chỉ
quen nhìn thấy những nét thơ mộng của cuộc sống, người nghệ
sĩ đã không thể hiểu và không thể chấp nhận được cách xử sự kì
lạ của người đàn bà. Sự đơn giản trong cái nhìn của “tôi” còn thể
hiện qua việc anh hỏi người đàn bà: “Lão ta hồi trước bảy nhăm
có đi lính ngụy không?” để tìm nguyên do của những hành động
dã man của gã chồng vũ phu.

Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà do chính chị ta kể ở tòa án
mà người kể chuyện vừa là người chứng kiến (và kể lại) vừa là
người trực tiếp tham gia vào cuộc đối thoại với chị ta đã dần dần
cho anh câu trả lời về những điều nghịch lí mà anh đã chứng
kiến. Lão chồng vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành
lắm” nhưng đã trở nên độc ác là vì khổ quá. Còn người đàn bà
lạy van những người đại diện công lí “đừng bắt con bỏ nó” là vì:
“…đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người
đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nôi nấng
đặng một sắp con nhà nào cũng trên dười chục đứa. Đàn bà trên
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như trên đất được”.Câu nói giản di, chân chất của người đàn bà
đã có tác động sâu xa tới nhận thức của chánh án Đẩu và cũng là
nhận thức của người kể chuyện: “một cái gì vừa vỡ ra trong đầu
vị bao công của cái phố huyện vùng biển” thật ra cũng là “một cái

gì vừa vỡ ra trong đầu” người nghệ sĩ. Trước đó người kể
chuyện “tin là nếu chiếc Prati-ca trung thành với tôi thì phen này
tôi có thể đánh ngã bất kì một bức ảnh mô tả phong cảnh biển
nên thơ nào từ trước”- tức là hoàn toàn tin vào sự cảm nhận của
mình về vẻ đẹp của cuộc sống. Nhưng sau khi chứng kiến tất cả
những gì liên quan đến chiếc thuyền ngoài xa ấy, sau khi nghe
xong câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, anh không
còn giữ cái nhìn ban đầu. Hôm đó anh đã xách máy ảnh đi lang
thang trên bãi biển đến khuya và sau này, mỗi khi nhìn lại bức
ảnh, anh luôn có cảm giác: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng
mỗi lần ngắm kĩ, tôi vần thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu
nhìn lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra
khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với những
đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa
thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt
đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất
chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”

Như vậy, trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, vai kể chính
là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Người kể không chỉ kể lại
những điều mắt thấy tai nghe mà còn bày tỏ những cảm xúc chủ
quan, những suy nghiệm về nghệ thuật, về con người và cuộc
sống con người, về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật.
Trong truyện, vai kể có khi được chuyển sang nhân vật khác
(người đàn bà) và đi cùng với nó là sự thay đổi điểm nhìn. Tất
nhiên vai trò chính vẫn thuộc về người kể chuyện xưng tôi nói
trên vì lời kể của nhân vật người đàn bà nằm trong lời kể của
người kể chuyện. Sự lựa chon vai kể, điểm nhìn như trên nằm
trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn.


2.Đặc điểm, tính chất lời người kể chuyện

2.1.Tính chủ quan- chân thực

Việc chọn vai kể ngôi thứ nhất, người kể tự kể lại câu chuyện của
mình trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã mang lại tính
chủ quan- chân thực cho lời kể.

Tính chủ quan- chân thực trước hết bộc lộ trong việc tả thiên
nhiên. Là nghệ sĩ cho nên người kể chuyện có khả năng phát
hiện, cảm nhận những phương diện nên thơ của cảnh vật thiên
nhiên. Đây là vẻ đẹp của vùng phá nước: “Vùng phá nước có một
cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu
đang ấp vào tâm hồn anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sang,
bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa
xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại;
giữa trời và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình
làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá- chiếc thuyền đứng
im như làm bằng các tông dán vào cảnh vật êm ả”. Và đây là vẻ
đẹp của chiếc thuyền ngoài xa: “ trước mặt tôi là một bức tranh
mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ
lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu
hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ
con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum,
đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những
cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới
một hình thù y hệt cánh của một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ
đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực
đơn giản và toàn bích”.


Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh để miêu tả cũng thể hiện sự tinh
tế, nhạy cảm của một nghệ sĩ.

Tính chủ quan- chân thực thể hiện rõ nhất trong việc miêu tả tâm
lí. Cũng như các nhân vật nghệ sĩ trong những tác phẩm khác
của Nguyễn Minh Châu, người kể chuyện- nghệ sĩ Phùng tỏ ra là
người có đời sống nội tâm phong phú Những trạng thái tâm lí của
người kể chuyện hết sức đa dạng. Trước hết đó là sự rung động
trước vẻ đẹp của thiên nhiên được bộc lộ trực tiếp ngay khi miêu
tả đối tượng: “Vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng
lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn
anh. Tôi trở nên ngây ngất vào buổi sang, bầu trời không xanh
biếc, cao thăm thẳm mà được một sắc giữa xanh và xám, bầu
trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại” hoặc khi kể lại
những khoảnh khắc đứng trước vẻ thơ mộng của ngoại cảnh:

“Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một
cảnh đắt trời cho như vậy (…) đứng trước nó tôi trở nên bối rối,
trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”

Có khi là nỗi xót xa trước cuộc sống của những người dân chài
thấm đẫm trong giọng kể: “Thường thường mỗi thuyền là một gia
đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi lại. Cuộc sống
cứ lênh đênh kắp cả một vùng phá nước mênh mông. Cưới xin,
sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc
thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây
số trời nước chứ không cố kết ở vào một khoảng đất nào”

Khi kể lại những việc được chứng kiến, người kể chuyện luôn

bộc lộ thái độ, cảm xúc của mình một cách chân thành và thường
bộc lộ trực tiếp bằng những từ ngữ chỉ trạng thái tâm lí: “tôi kinh
ngạc đến mức trong mấy phút cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “tôi
cảm thấy (…) ngột ngạt quá”.

Tính chủ quan- chân thực còn được thể hiện qua tính hướng nội
của lời kể: Trong lời kể thường có những từ ngữ miêu tả trực tiếp
các hành vi bên trong, các ý nghĩ, cảm xúc, cảm giác của nhân
vật: tôi trở nên bối rối…, tôi tưởng chính mình vừa khám phá
thấy…, tôi chắc mẩm…, tôi kinh ngạc…, tôi cảm thấy…, tôi mới
sực nghĩ ra…,v.v…

Còn khi diễn tả những gì không thể trực tiếp quan sát được
người kể chuyện thường dùng những từ ngữ có tính chất phỏng
đoán:

“khuôn mặt (…) dường như đang buồn ngủ”, “có vẻ như những
điều phải nói với nhau họ đã nói hết”, “người đàn bà dường như
lúc này mới thấy đau đớn”, “hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ
rệt ra bề ngoài”.v.v…

Có thể thấy tính chủ quan- chân thực của là một đặc điểm nổi bật
của truyện ngắn này. Bởi các sự kiện trong truyện được kể lại từ
chính điểm nhìn chủ quan của người kể, những cảm xúc, suy tư
trước cảnh vật thiên nhiên, cuộc sống con người được chính
người kể bộc lộ.

2.2.Tính khách quan- đáng tin

Trong Chiếc thuyền ngoài xa, vai kể ngôi thứ nhất đem lại tính

chủ quan- chân thực cho lời kể như đã nói ở trên. Song điều đó
có thể làm cho câu chuyện thiếu tính khách quan, và vì vậy sức
thuyết phục của những thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm có
thể bị giảm sút. Những hạn chế trên đã được khắc phục bằng
một số thủ pháp:

Thứ nhất là chuyển vai kể và điểm nhìn nhưng vẫn không làm
mất đi vai trò của vai kể chính. Việc chuyển vai kể làm tăng tính
khách quan cho câu chuyện: Cách ứng xử kì lạ của người đàn bà
khiến người kể chuyện từ kinh ngạc đến phẫn nộ và không hiểu
nổi. Nguyên do đã được lí giải bằng chính lời kể của người đàn
bà về cuộc đời mình. Lời kể của nhân vật này không chỉ giải thích
cho cách ứng xử kì lạ của chị ta mà còn giúp người nghe hiểu
được phần nào nguyên nhân của thói vũ phu ở người đàn ông
đó. Lời kể ấy giúp cho Phùng, Đẩu và cả chúng ta nhận ra cuộc
đời người đàn bà này không hề đơn giản, suy nghĩ của chị ta
không phải là “cái sự lạc hậu” như chị ta nói mà là của một người
“thấu hiểu các lẽ đời”. Lời kể ấy còn khiến ta cảm động trước
lòng vị tha, đức hi sinh của người đàn bà khốn khổ. Điều quan
trọng hơn nữa là nó mang lại ấn tượng về tính khách quan cho
câu chuyện, bởi đây là lời của nhân vật tự kể về cuộc đời mình,
tự nói lên những suy nghĩ của mình.

Thứ hai là đưa vào lời người kể chuyện những đánh giá, những
cách nhìn nhận khác nhau về cùng một vấn đề. Chẳng hạn, về
hành động của người đàn ông, người kể chuyện cho đó là hành
động tàn nhẫn, anh đã nghĩ có thể lão ta độc ác là do đi lính
ngụy. Thằng bé Phác cũng căm phẫn hành động của cha và nó
đã bảo vệ mẹ bằng cách đánh chính người cha của mình. Cô y tá
ở trạm xá thì “kể lể bằng tất cả giọng phẫn nộ thói tàn nhẫn của

dân đàn ông đánh các trong vùng này- do phong tục để lại”. Còn
người đàn bà thường xuyên bị chồng đánh đập lại cho rằng
chồng mình trở nên độc ác như vậy là vì hoàn cảnh. Chị xác
nhận: “ Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng
hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Qua những cách nhìn
khác nhau ấy về người đàn ông, người đọc nhận thấy không thể
nhìn nhận, đánh giá một con người một cách đơn giản, một chiều
mà cần phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa đẫn đến những
hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán
xét họ. Người đàn ông ấy vừa đáng bị lên án bởi tính vũ phu, tính
ích kỉ nhưng anh ta cũng có chỗ đáng được cảm thông, chia sẻ,
bởi xét đến cùng, anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh
sống quá khắc nghiệt.

Thật ra tất cả những cái nhìn khác nhau của các nhân vật đều là
sự khúc xạ cái nhìn của tác giả. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà
Nguyễn Minh Châu lại chọn người kể chuyện là một nghệ sĩ đã
từng là người lính. Từ điểm nhìn của một người lính đã từng
chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, lời kể gợi ra một cuộc chiến đấu
mới không kém phần gay go, gian khổ so với cuộc chiến đấu
chống kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính,
vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc sống hòa bình.

Đưa vào trong lời kể chuyện những cách nhìn khác nhau, cái
nhìn chủ quan của vai kể đã được khách quan hóa, tạo ra tính đối
thoại, thể hiện khuynh hướng dân chủ hóa của văn học. Nhà văn
không áp đặt thông điệp của mình cho người đọc mà bằng cách
để cho vấn đề hiện lên một cách đa chiều, phức tạp buộc người
đọc phải vào cuộc để cùng tìm câu trả lời với tác giả.


2.3.Tính trữ tình- triết luận

Lời kể hay tả trong lời người kể chuyện đều thấm đượm chất trữ
tình.

Chất trữ tình thể hiện rất rõ trong lời tả thiên nhiên. Những đoạn
văn miêu tả vẻ đẹp của vùng phá nước, của chiếc thuyền ngoài
xa là sự phát hiện chất thơ trong những cái tưởng như bình
thường, quen thuộc, khơi dậy ở con người “những khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn”.

Lời kể tái hiện sự việc, con người song việc tái hiện ấy nhằm
hướng tới những tâm trạng, cảm xúc, chiêm nghiệm: những phát
hiện về cuộc sống với bao nghịch lí dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ,
cách nhìn về cuộc sống của Phùng.

Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung, trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng chất trữ tình gắn với
tính triết luận.

Tính triết luận có khi thể hiện qua những suy ngẫm có tính chất
triết lí được rút ra sau một sự việc nào đó. Chẳng hạn, sau khi
buộc phải đi cảnh biển có sương theo yêu cầu của trưởng phòng,
Phùng suy nghĩ về vai trò của hoàn cảnh: “Ở đời cái gì cũng thế,
con gnười bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho
mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm
được một cái gì”. Sau khi ngẫu nhiên chụp được một cảnh đắt
trời cho, Phùng “nghĩ rằng với những tay nhiếp ảnh nghệ thuật
nếu không thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài
ba bao nhiêu, anh cũng chỉ thu được những tấm ảnh …vô hồn”.

Suy nghĩ ấy chứa đựng triết lí về mối quan hệ giữa tài năng và
ngẫu nhiên. Anh còn suy ngẫm về bản chất của cái đẹp: “Chẳng
biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo
đức?”. Rõ ràng lời kể thuật lại những suy ngẫm có tính cá nhân
nhưng những suy ngẫm ấy đã vượt qua giới hạn của những hiện
tượng cá biệt, vươn tới tầm khái quát.

Tính triết luận còn thể hiện qua những hình ảnh mang tính biểu
tuợng: “Chiếc thuyền ngoài xa” với vẻ đẹp thực đơn giản và toàn
bích” không chỉ là một hình ảnh cụ thể mà còn là biểu tượng cho
vẻ đẹp của cuộc sống khi người nghệ sĩ tiếp cận nó ở cự li,
khoảng cách “xa”- xa ở đây không đơn thuần về mặt không gian,
địa lí. Tất cả những nghịch lí mà Phùng chứng kiến đều có liên
quan đến chiếc thuyền ngoài xa ấy là một trong muôn vàn những
cảnh ngộ éo le có thể gặp trong cuộc sống đời thường. Nhưng nó
còn là biểu tượng cho những phương diện khuất lấp, phức tạp
của cuộc sống mà với cái nhìn hời hợt, đơn giản, người nghệ sĩ
khó có thể phát hiện ra. Hình ảnh cuối truyện: “…tuy là ảnh đen
trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng
hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng
hỏng, và nếu nhìn lâu hơn bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy
đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao
lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có
miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì
kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân
dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” là ấn
tượng chủ quan của người kể chuyện. Ấn tượng ấy là sự khúc xạ

×