Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC HỆ THỐNG THỂ CHẾ VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG Ở VIỆT NAM ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.81 KB, 8 trang )


HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC
HỆ THỐNG THỂ CHẾ VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG
Ở VIỆT NAM

ThS. NGUYỄN THỊ THANH HOA
Bộ môn Quy hoạch & Quản lý GTVT
Viện Quy hoạch & Quản lý GTVT
Trường Đại học Giao thông Vận tải


Tóm tắt: Bài báo đề cập tới hiện trạng về thể chế an toàn giao thông đường bộ tại Việt
Nam cũng như vai trò của Ủy ban
An toàn Giao thông Quốc gia (UBATGTQG) và Ban An
toàn
Giao thông (BATGT) tại các cấp, từ đó đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng
nhằm nâng cao hơn nữa năng lực quản lý của nhà nước trong lĩnh vực an toàn giao thông.

Summary: This paper presents the current situation of road traffic safety in Vietnam as
well as the role of National Traffic Safety Committee (NTSC) and the Traffic Safety Board at
the lower administrative levels. From there, the author proposes some oriented measures in to
improve the capacity of State management in traffic safety field.

I. GIỚI THIỆU
những thành tự về phát triển kinh tếTrong hai thập kỷ đổi mới, cùng với là sự gia tăng về
thu nhập và
CT 2
mức độ sở hữu và sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đặc biệt là xe máy và xe
ô tô con cũng như hệ thống hạ tầng giao thông vận tải. Tuy nhiên trình độ quản lý và trình độ
tham gia giao thông của người dân lại chưa phát triển tương xứng
là nguyên nhân cơ bản khiến


cho số lượng và mức độ nghiêm trọng của tai nạn giao thông tăng nhanh. Ngày nay, tai nạn giao
thông đã trở thành một vấn đề xã hội nghiêm trọng gây tổn thất lớn về sinh mạng và tài sản của
người dân và tổ chức. Theo số liệu thống kê chính thức, mỗi năm có hàng ngàn người chết và
hàng chục ngàn người bị thương do tai nạn giao thông gây nên (hình 1).
Những thiệt hại do TNGT gây nên đã thực sự trở thành vấn đề nhức nhối hàng ngày của
người dân, các tổ chức và chính quyền các cấp. Chính sách đảm bảo an toàn giao thông đã và
đang dần trở thành trọng tâm của quá trình quản lý và phát triển hệ thống giao thông vận tải
nước ta. Đến nay, chính phủ trung ương và chính quyền các cấp đã có rất nhiều chính sách và
giải pháp khác nhau nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông. Trong đó, việc hình thành nên hệ
thống thể chế về đảm bảo ATGT được xem là một trong những giải pháp xương sống nhằm
hình thành nên bộ máy chuyên trách và hành lang pháp lý cần thiết làm nhiệm vụ tham mưu về
chính sách đồng thời trực tiếp triển khai công tác đảm bảo ATGT. Kể từ thời điểm thành lập
UBATGT quốc gia, theo quyết định số 917/1997/QĐ - TTg ngày 29/10/1997 của Thủ tướng
Chính phủ, hệ thống cơ quan chuyên trách về ATGT đã được hình thành ở 3 cấp, từ trung ương,
cấp tỉnh/thành phố, đến cấp huyện. Đồng thời, vai trò, trách nhiệm và ngân sách dành cho hoạt



CT 2












0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Năm
Tai nạn
T.vong Bị thương
Số lượng
Hình 1. TNGT đường bộ ở Việt Nam (1990-2006)

Nguồn: Uỷ ban ATGT quốc gia (NTSC)
Bên cạnh đó, có một thực trạng là mặc dù UBATGT Quốc gia và Ban ATGT các cấp đã
hình thành nhưng về chức năng, cơ cấu tổ chức, nhân sự cũng như cơ chế ra quyết định, các
chính sách và thủ tục để đảm bảo cho các cơ quan này hoạt động một cách có hiệu quả còn chưa
thực sự đầy đủ và đồng bộ. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiện tượng ngân sách dành
cho ATGT thì rất lớn nhưng chi tiêu thực sự để cải thiện an toàn giao thông lại rất hạn chế. Có
nhiều tỉnh, hàng năm chỉ giải ngân được từ 20 đến 25% ngân sách dành cho ATGT. Điều này
cũng xảy ra ngay cả đối với UBATGT Quốc gia. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống thể chế về ATGT
từ cấp trung ương đến cấp địa phương chính là một vấn đề bức xúc đói với chính phủ và chính
quyền địa phương. Đồng thời, đây cũng chính là một câu hỏi nghiên cứu đòi hỏi những nỗ lực
nghiêm túc để có thể trả lời một cách thấu đáo. Trong khuôn khổ bài báo này, tác giả muốn trình
bày những nỗ lực ban đầu nhằm khởi động một quá trình nghiên cứu về nâng cao năng lực hệ
thống thể chế về ATGT.
II
. KHUNG THỂ CHẾ AN TOÀN GIAO THÔNG TẠI VIỆT NAM
.1. Cơ cấu tổ chức về ATGT 2
.1.1. Khung cơ cấu thể chế và phân công nhiệm vụ
2
Trên cơ sở quyết định số 917/1997/QĐ - TTg ngày 29/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ


Về phân công
trách nhiệm trong hệ thống thể chế về an toàn giao thông có thể mô tả khái quát như sau:
[1]. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về công tác đảm bảo ATGT trên toàn lãnh
thổ Việt Nam và trong các hoạt động GTVT quốc tế có phương tiện của nước CHXH Việt Nam
tham gia.
[2]. Bộ GTVT: chức năng và nhiệm vụ của Bộ GTVT là lập chiến lược và chính sách và
qua các cơ quan chức năng của mình đảm bảo các hoạt động và các chức năng, nhiệm vụ quy
định được thực hiện.










CT 2























Chủ tịch (Bộ trưởng Bộ GTVT)
Phó chủ tịch (Thứ trưởng Bộ Công an)
UB ANGTQG
Ủy viên Ủy ban An toàn giao thông quốc gia
Bộ
trưởng
Bộ
GTVT
Thứ
trưởng
Bộ
Công
an
Thứ
trưởng
Bộ
GTVT
Thứ
trưởng
Bộ
quốc
phòng
Thứ
trưởng
Bộ tài
chính
Thứ
trưởng
Bộ Tư

pháp
Thứ
trưởng
Bộ GD
ĐT
Thứ
trưởng
Bộ Y
tế
Phó
Tổng
cục
trưởng
TCCS
Chánh
VPTT
UBAT
GTQG
UV
UBTƯ
MT
TQVN
Thứ
trưởng
Bộ
VHTT
Bí thư
TW
Đoàn
TNCS

HCM
Cục
trưởng
Cục
CSGT
ĐB-ĐS
Ủy viên ban Thường trực UBATGTQG
Cục
trưởng
cục
CSGT
ĐB-ĐS
Phó
cục
trưởng
cục
CSGT
Đ.thủy
Cục
trưởng
cục
ĐKVN

Phó
cục
trưởng
cục
Đ.Sông
VN
Cục

trưởng
cục
Đ.Sắt
VN
Phó
Cục
trưởng
cục
HHVN
Trưởng
ban
ATHK
cục
HKVN
Cuc
trưởng
cục
QLX
M Bộ
QP
Cục
trưởng
cục CS
QLHC
về
TTXH
Cục
trưởng
cục
CS

tham
mưu
Phó
trưởng
ban
phong
trào
UBTƯ
MTTQ
Phó VT
Vụ
Công
tác SV
Bộ GD-
ĐT
Phó
cục
trưởng
Cục
ĐBVN
Vụ
trưởng
vụ vận
tải Bộ
GTVT
Chánh
VPTT
UB
ATGT
QG

Phó
Tổng
cục
trưởng
TCCS
Báo Bạn đường (~30-35 người)

Văn phòng thường trực (~09-10 người) Ban QLDA ATGT (~35-40 người)
Ban An toàn giao thông 64 tỉnh, Thành phố trực thuộc TW

Trưởng ban: Chủ tịch UBND Tỉnh, Thành phố trực thuộc TW
Phó ban thường trực, phó ban: Lãnh đạo Sở GTVT/GTCC/Sở Công an tỉnh, Thành phố
Thành viên: Lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành có liên quan
Cơ quan thường trực: Văn phòng thường trực
Ban An toàn giao thông Quận huyện
Ban ATGT Đại
phương
Ban An toàn giao thông phường xã

Thủ tướng
Hình 2. Khung cơ cấu các tổ chức liên quan đến ATGT tại Việt Nam


[3]. Bộ Công an (Tổng cục Cảnh sát)
a. Cơ quan cảnh sát giao thông sắt bộ: chịu trách nhiệm về quản lý, theo dõi tai nạn giao
thông đường sắt đường bộ, và cưỡng chế thi hành các quy định, quy tắc giao thông đường sắt
đường bộ.
b. Cơ quan cảnh sát quản lý hành chính và trật tự xã hội: chịu trách nhiệm về quản lý ngăn
chặn tình trạng lấn chiếm vỉa hè, xây dựng trái phép, ngăn chặn đua xe trái phép.
c. Cơ quan cảnh sát điều tra chịu trách nhiệm về điều tra các vụ tai nạn giao thông nghiêm

trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
[4]. Uỷ ban ATGTQG chịu trách nhiệm phối hợp công tác an toàn giao thông và báo cáo
Chính phủ tình hình an toàn giao thông trên toàn quốc.
[5]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: chịu trách nhiệm giáo dục và phổ biến luật và các quy định
về an toàn giao thông tại các trường học và đại học.
[6]. Bộ Y tế: chịu trách nhiệm cấp cứu, chữa trị những người bị thương do tai nạn giao
thông.
[7]. Bộ Kế hoạch - Đầu tư: chịu trách nhiệm về lập kế hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
bao gồm cả cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và phương tiện vận tải.
[8]. Tổng cục Thống kê: chịu trách nhiệm thu thập, quản lý, theo dõi toàn bộ số liệu thống
kê.
CT 2
[9]. Bộ Tài chính: chịu trách nhiệm về việc cấp vốn, quản lý nguồn thu từ thuế, phí, phụ
phí, tiền phạt (bao gồm cả các khoản từ ngành GTVT).
[10]. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: chịu trách nhiệm phối hợp với các tổ chức khác trong
việc tuyên truyền, phổ biến những quy định pháp luật về an toàn giao thông tới mọi tầng lớp
nhân dân để mọi người biết và thực hiện.
[11]. Đoàn Thanh niên CS HCM: chịu trách nhiệm huy động lực lượng thanh niên tham
gia phong trào trật tự an toàn giao thông.
[12]. Bộ Tư pháp: là cơ quan quản lý nhà nước về pháp luật
[13]. Bộ Quốc phòng: chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn phương tiện giao thông do Quân
đội quản lý.
[14]. Uỷ ban ND các TP lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng: chịu trách nhiệm về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực GTVT và trật tự ATGT trên địa bàn.
[15]. Ban ATGT các tỉnh thành phố chịu trách nhiệm tham mưu cho lãnh đạo tỉnh/thành
phố về vấn đề an toàn giao thông tại địa phương.
[16]. Sở GTCC/GTVT: chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về các vấn đề cơ sở hạ tầng


[17]. Cảnh sát giao thông địa phương chịu trách nhiệm cưỡng chế thi hành các quy định,

quy tắc giao thông, giải quyết các vụ tai nạn giao thông, thu thập các số liệu về tai nạn giao
thông tại địa phương và lập báo cáo.
Một số cơ quan có liên quan khác có trách nhiệm cụ thể liên quan tới an toàn giao thông.
.1.2. Vai trò của Ủy ban ATGT và Ban ATGT cấp tỉnh
2
Để đảm bảo việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của các cơ quan, ban, ngành khác nhau
về đảm bảo ATGT, UBATGT Quốc gia và Ban ATGT cấp tỉnh được hình thành như một cơ
quan thường trực về ATGT. Căn cứ vào quyết định số 917/1997/QĐ - TTg ngày 29/10/1997 của
Thủ tướng Chính phủ, UBATGT có chức năng và nhiệm vụ cơ bản như sau:
[1]. Tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về chủ trương, chính sách, các văn bản quy phạm
pháp luật về lĩnh vực bảo đảm trật tự an toàn giao thông do các Bộ, ngành, địa phương trình
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ.
[2]. Đề xuất với Thủ tướng Chính phủ các biện pháp liên ngành nhằm bảo đảm trật tự an
toàn giao thông và tổ chức phối hợp các ngành, các địa phương thực hiện các biện pháp được
duyệt.
[3]. Tổ chức sự phối hợp giữa các cơ quan Trung ương, các tổ chức có liên quan, Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa và
hàng không (gọi tắt là trật tự an toàn giao thông).
CT 2
[4]. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tuyên truyền và phổ biến rộng rãi trong
mọi tầng lớp nhân dân những quy định của pháp luật về trật tự an toàn giao thông và giáo dục ý
thức chấp hành nghiêm chỉnh các quy định đó.
[5]. Tổ chức phối hợp với các cơ quan Nhà nước có liên quan, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương kiểm tra việc thực hiện các quy định về trật tự an toàn giao thông.
[6]. Đôn đốc các ngành, địa phương thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn giao thông ở
những địa bàn giao thông phức tạp.
[7]. Tổ chức việc phối hợp các ngành, các cấp khắc phục khẩnn cấp hậu quả những vụ tai
nạn giao thông nghiêm trọng.
[8]. Tổ chức sự phối hợp hoạt động giữa Thanh tra giao thông các cấp (ở Trung ương và

các địa phương) với các lực lượng Cảnh sát nhân dân trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong phạm vi cả nước.
[9]. Tổng hợp tình hình trật tự an toàn giao thông trong cả nước và thường xuyên báo cáo
Thủ tướng Chính phủ.


[10]. Được phép thiết lập quan hệ và hợp tác với nước ngoài và các tổ chức quốc tế nhằm
trao đổi kinh nghiệm và hợp tác về khoa học - kỹ thuật trong lĩnh vực bảo đảm trật tự an toàn
giao thông.
Chức năng, nhiệm vụ của Ban ATGT cấp tỉnh cũng tương tự như của UBATGT Quốc gia
nhưng chỉ giới hạn trong khuôn khổ địa giới hành chính của tỉnh. Bên cạnh đó, Ban ATGT cấp
tỉnh không có chức năng quan hệ quốc tế.
2.2. Luật lệ và chính sách
Ngoài những quy định về chức năng, nhiệm vụ trong quyết định thành lập UBATGT Quốc
gia và Ban ATGT cấp tỉnh, trong các Luật và văn bản dưới luật về Giao thông Vận tải hiện hành
không đưa ra một quy định nào mang tính pháp lý về chức năng, nhiệm vụ cũng như quyền hạn
của UBATGT quốc gia và Ban ATGT cấp tỉnh. Điều này cho thấy, trong hệ thống hành chính
Việt Nam, UBATGT quốc gia chỉ giữ vai trò của một cơ quan điều phối và trao đổi thông tin.
Vai trò tư vấn (tham mưu) cho Chính phủ (chính quyền các cấp) của các cơ quan này không
được quy định bởi văn bản luật cũng như không có hướng dẫn bởi bất kỳ văn bản dưới luật nào.
Điều này dẫn tới hiện tượng là mặc dù có tổ chức và ngân sách nhưng không có cơ chế nào cho
phép UBATGT quốc gia và Ban ATGT các cấp có được lực lượng chuyên trách về chuyên môn
đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Hiện nay, tại một số nước trên thế giới như Nhật Bản hay Trung Quốc đã có những phân
tách riêng biệt về luật giao thông đường bộ và luật an toàn giao thông. Luật giao thông đường
bộ được hiểu như là những quy định nguyên tắc cơ bản hướng dẫn việc tham gia giao thông còn
Luật về an toàn giao thông là những quy định đảm bảo cho vấn đề an toàn giao thông như bắt
buộc đội mũ bảo hiểm, không sử dụng điện thoại khi đang tham gia giao thông, thắt dây lưng an
toàn khi sử dụng ôtô Việc xây dựng riêng chính sách về Luật an toàn giao thông một cách đầy
đủ và phù hợp sẽ nâng tầm cao về nhận thức cho người dân về ý thức an toàn giao thông và

mang tính cưỡng chế cao hơn. Đồng thời, với việc có được những Bộ luật riêng về ATGT,
UBATGT quốc gia và cấp thấp hơn ở các nước này có cơ sở pháp lý cao nhất để hình thành nên
một cơ cấu tổ chức và bộ máy hoàn chỉnh cũng như các cơ chế, quy trình thủ tục cần thiết để
thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an toàn giao thông vận tải.
CT 2
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay còn nhiều vấn đề hoàn thiện về luật lệ và hệ thống pháp
lý do vậy với chính sách bổ sung và điều chỉnh trong giai đoạn tiếp theo một cách kịp thời sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với vấn đề an toàn giao thông
2.3. Đánh giá tổng quan về khung thể chế an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam
2.3.1. Ưu điểm
Khung thể chế an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam hoạt động theo cơ chế hệ thống
đồng bộ. Cơ chế hoạt động này có ưu điểm đáng kể như: việc thực hiện các chương trình/hành
động an toàn giao thông mang tính đồng bộ, thống nhất, liên thông, kết hợp nhiều sự tham gia


2.3.2 Hạn chế
Tuy nhiên, với cơ chế trên, tính hiệu quả từ việc liên thông, đồng bộ sẽ bị ảnh hưởng nếu
chỉ cần một mắt xích trong cơ cấu tổ chức hoạt động yếu kém. Trong thực tế, hệ thống thể chế
về ATGT ở nước ta còn đang có những hạn chế cơ bản như sau:
[1]. Thiếu cơ sở pháp lý đủ mạnh đảm bảo khả năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan ATGT (UBATGT quốc gia, Ban ATGT cấp tỉnh, Huyện),
[2]. Nguồn nhân lực an toàn giao thông còn hạn chế về số lượng và năng lực
[3]. Xét theo chức năng ban hành đối với Ủy ban ATGT và Ban ATGT tại địa phương cho
thấy Ủy ban ATGTQG chủ yếu đứng trên cương vị là cơ quan phối hợp chứ chưa đóng vai trò
chủ đạo quản lý nhà nước về an toàn giao thông. Cho tới nay chưa có một cơ quan duy nhất nào
chịu trách nhiệm về công tác quản lý này mà bao gồm một số cơ quan. Với đặc điểm như vậy,
sẽ dẫn đến tình trạng không quy kết được trách nhiệm cuối cùng về cơ quan nào, không bảo
đảm được tính hiệu quả triệt để trong khâu thực hiện triển khai các hoạt động chương trình an
toàn giao thông
[4]. Các tổ chức ATGT tại cấp tỉnh khác ngoài các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí

Minh, Đà Nẵng vẫn chưa được chú trọng và xây dựng phù hợp đáp ứng tình hình thực tế: về
cơ cấu tổ chức, hầu hết các thành viên của Ban ATGT là lãnh đạo của Sở GTVT/Sở GTCC,
Công an tỉnh, Sở GD&ĐT, Sở Y tế v.v… Nhưng trong thực tế, hầu hết lực luợng nhân sự về an
toàn giao thông là rất yếu, thậm chí ở các tỉnh còn chưa có những cán bộ trong biên chế làm cố
định thời gian trong Ban.
CT 2
[5]. Chưa có cơ chế huy động sự tham gia tư vấn và hợp tác của lĩnh vực tư nhân/cộng
đồng trong thể chế an toàn giao thông
III. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO NĂNG LỰC HỆ THỐNG THỂ CHẾ Ở VN
Đối với tình hình thực tế về an toàn giao thông tại Việt Nam hiện nay thì khung cơ cấu tổ
chức an toàn giao thông như hiện nay là tương đối mỏng về lượng và cần nâng cao về chất. Cần
có sự chú trọng hơn nữa đến các cấp địa phương khác tránh tình trạng tập trung chủ yếu cho các
thành phố lớn để rồi tái diễn tình trạng tương tự đối với các tình thành khác tương tự các thành
phố lớn như hiện tại trong tương lai.
Do vậy, để đảm bảo tính bền vững của việc phát triển an toàn giao thông đường bộ ở Việt
Nam nên nhanh chóng đưa ra một số
định hướng cơ bản như sau sau:
[1]. Hình thành các Luật và văn bản dưới luật dành riêng cho công tác đảm bảo an toàn
giao thông vận tải.
[2]. Điều chỉnh vai trò, chức năng của UBATGT Quốc gia và Ban ATGT cấp tỉnh như một


[3]. Đầu tư thích đáng để phát triển cơ sở vật chất và nguồn nhân lực cho UBATGT Quốc
gia và Ban ATGT cấp tỉnh nhằm đảm bảo khả năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
[4]. Hình thành cơ chế huy động sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức phi chính phủ,
các cá nhân trong quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách về ATGT.
III. KẾT LUẬN
Việc hoàn thiện hệ thống thể chế về ATGT từ cấp trung ương đến cấp địa phương chính là
một vấn đề bức xúc đ
ối với chính phủ và chính quyền địa phương. Đồng thời, đây cũng chính là

một câu hỏi nghiên cứu đòi hỏi những nỗ lực nghiêm túc để có thể trả lời một cách thấu đáo.
Trong khuôn khổ bài báo này, tác giả muốn trình bày những nỗ lực ban đầu nhằm khởi động
một quá trình nghiên cứu về nâng cao năng lực hệ thống thể chế về ATGT. Trước tiên là một
phân tích về hiện trạng khung thể chế an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam sau đó là một
vài gợi ý ban đầu về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống này. Ở đây,
tác giả muốn nhấn mạnh rằng những giải pháp trình bày ở đây mới chỉ dừng lại ở mức độ những
định hướng chung nhất thông qua các công cụ đánh giá định tính. Những nội dung cụ thể về quá
trình áp dụng, những kết quả đánh giá định lượng sẽ còn chờ đợi những nỗ lực nghiên cứu tiếp
theo và sẽ được công bố trong những lần sau.
CT 2

Tài liệu tham khảo

[1]. Quyết định số 917/1997/QĐ - TTg ngày 29/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
UBAT GT quốc gia.
[2]. Báo cáo Nghiên cứu Quy hoạch an toàn giao thông đường bộ Việt Nam (JICA - UBATGTQG, 2008).
[3]. Lệnh của Chủ tịch nước số 07/2001/L - CTN ngày 12/7/2001 về việc công bố luật Luật giao thông
đường bộ Việt Nam, Luật số 26/2001/QH10.
[4]. Luật của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam số 23/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về Giao
thông Đường thủy nội địa.
[5]. Bộ Luật Hàng Hải của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam số 40/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm
2005.
[6]. Luật Đường Sắt của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam số 35/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm
2005.
[7]. Luật Hàng Không Dân dụng của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam số 66/2006/QH11 ngày 29
tháng 6 năm 2006.
[8]. Các quyết định của UBND tỉnh Hà Nam, Gia Lai, Quảng Trị về việc kiện toàn Ban ATGT cấp tỉnh
theo chỉ đạo của công văn số 160/UBATGTQG ngày 22/7/1998, số 251/UBATGTQG ngày 27/12/2002
của Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia♦


×