Kiến thức lớp 11
Hình tượng người nông dân trong văn tế
nghĩa sĩ cần giuộc –Nguyễn Đình Chiểu-
phần 5
Đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Học văn tế để thấy người
sống tốt
Trong câu chuyện của những người bạn tôi, mỗi khi đối diện
trước một vấn đề gì khó khăn, anh em thường buột miệng nói
rằng: “phải xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có” chứ. Nhớ
hồi còn đi học, có anh cán bộ Đoàn khởi xướng một thái độ trong
tình yêu là “phải… liều mình như chẳng có”, làm bạn bè nhớ mãi.
Thế hệ chúng tôi cảm được kiểu nói chuyện giữa bạn bè với
nhau như vậy. Và không ai không biết cụm từ “liều mình như
chẳng có” kia là của cụ Đồ Chiểu, trong bài Văn Tế Nghĩa sĩ Cần
Giuộc học thuở cấp ba.
Nhắc chuyện vận dụng câu cú của cụ Đồ Chiểu trong ngôn ngữ
bè bạn đời thường, là thấy được sự đồng cảm của cuộc sống
hôm nay với ngôn ngữ văn cổ ngày xưa, thấy dường như quanh
mình, chuyện “vận dụng lời của Đồ Chiểu” là hết sức bình
thường.
Ấy là sự sống tự nhiên của văn chương trong đời sống người
dân, được thực chứng qua nhiều thế hệ vẫn còn tồn tại. Nhưng
để có được điều đó, tức có được một sự đồng cảm, một mảnh
đất sống của Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc trong ngôn ngữ đời
thường thuộc lớp thế hệ sau cụ Đồ ngót một thế kỷ, nhìn theo
góc độ hàn lâm, ắt có nhiều điều đặc biệt.
Ngay cả những nhà phê bình già dặn, sự thận trọng vẫn đòi hỏi
họ lấy môi trường cuộc sống và thời gian trên mỗi tác phẩm để
nhìn nhận một phần giá trị không chối cãi được của tác phẩm đó.
Nói thế để thấy cuộc sống làm nên văn chương. Cuộc sống ở đây
được hiểu là môi trường sống cùng thời và đời sống nội tâm, tư
duy của nhà văn trong hoạt động sáng tạo của mình.
Vì thế, chất sống trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chính
là sự thật cuộc sống xảy ra vào thời của cụ Nguyễn Đình Chiểu.
Trang văn của cụ đã nói lên những gì cụ muốn gửi gắm lại thế hệ
mai sau. Do đó, đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trước hết, là để
cảm nhận văn chương của Nguyễn Đình Chiểu, và sau đó thì nội
dung cuộc sống trong văn chương của cụ có được cảm nhận hay
không, cảm nhận như thế nào, tùy vào khả năng của những
người thời nay đọc văn cụ.
"Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con
mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì
càng thấy sáng" và "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình
Chiểu làm chúng ta nhớ bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
Hai bài văn: hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Hịch
của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công
oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ
nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca của người
anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang
PHẠM VĂN ĐỒNG
Văn tế dùng cho những người đáng kính trọng. Người viết văn tế
luôn tự coi mình thấp hơn nhân vật trong bài văn. Cách hiểu này
đã xem sự ra đời bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là phá cách: Cụ
đồ viết văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - một loại nhân vật bấy lâu vẫn
được xếp sau tầng lớp trí thức, sĩ phu trong thứ hạng tứ dân (sĩ –
nông – công - thương).
Quy định của bài văn tế là phải thể hiện được lý do đáng kính
trọng của cái chết (có như thế mới được tế). Và nhân vật chính
trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một lý rất đặc biệt: sự bột
phát của người nông dân nổi dậy chống Pháp, hy sinh bởi một
trận đánh được cụ Đồ gọi là “trận nghĩa”:
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một
trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Cụ Đồ Chiểu so sánh mười năm vỡ ruộng với một trận đánh Tây
hẳn là còn khập khiễng. Nhưng đó là điều mà tác giả muốn đặt ra
để thấy sự khác biệt giữa cái nhóm nghĩa sĩ Cần Giuộc này với
những nhà nông lúc ấy: Trong khi tất cả nông dân khác đang vỡ
ruộng, thì đây là cái chết của một nhóm người dám đứng dậy
đánh Tây. Đặt sự so sánh giữa vỡ ruộng và đánh Tây hợp với
phép đối trong văn biền ngẫu cũng là nhằm đánh dấu sự chuyển
biến về tư tưởng của người nông dân.
Thực ra, hành động của người nghĩa quân Cần Giuộc bột phát
bởi lý do bị dồn nén trong tâm trạng người dân mất nước. Sống
cùng thời, cụ Đồ Chiểu cảm được cái tâm lý: Bữa thấy bòng bong
che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì,
muốn ra cắn cổ. Cái nhìn của người bản xứ đối với ngoại xâm hết
sức bình thường như thế đó, mà lại rất có quan điểm của con dân
yêu nước: Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; Bát
cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Nhưng nếu vì tức giận ngoại xâm mà bột phát đứng lên chống
giặc, hẳn những nghĩa quân Cần Giuộc chưa đánh động mãnh
liệt đến niềm cảm kích của Nguyễn Đình Chiểu. Điều quan trọng
hơn là hành động của những nghĩa quân. Họ vốn là nông dân, là
những người bình dị, nhưng nghĩa khí trong từng con người đã
khiến cho cụ Đồ Chiểu phải đặt bút viết rằng:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm
trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ, hay Mười tám
ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ
bày bố…
Trong khi có những người vì hèn nhát mà trốn lính, thì nghĩa
quân Cần Giuộc đáng kính trọng chứ. Trong khi binh mã triều
đình khiếp nhược trước ngoại xâm, những người “tay ngang” ở
miệt Cần Giuộc dám đứng lên dùng dao phay, con cúi, hỏa mai
để đánh Tây. Hành động ấy, nhân cách ấy đáng trọng lắm chứ.
Bởi thế, cụ Đồ Chiểu mới làm văn tế. Bởi thế, bài văn tế mới
được cụ dồn tâm lực trau chuốt công phu, để cho người đời sau
đọc lên còn thấy hay, còn thuộc.
Nhưng không ai khen kẻ bột phát làm càn, lịch sử và lòng người
trân trọng những hành động quyết liệt mà hiệu quả:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai
nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới,
coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to,
xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn
kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ba cặp câu văn biền ngẫu trên, cụ Đồ Chiểu rất kiệm lời mà tái
hiện được quang cảnh chiến trận của nghĩa quân, kết quả, sự hy
sinh, tác động nhất định của trận khởi nghĩa bột phát này đối với
lực lượng ngoại xâm hùng mạnh lúc đó. Đâu phải dễ dàng làm
cho “mã tà, ma ní hồn kinh”. Cũng đâu phải chỉ với vũ khí thô sơ
kia (vốn là công cụ nhà nông) mà chém quan hai, xem thường
tàu thiếc tàu đồng.
Khí phách của nghĩa quân, tinh thần chiến đấu của nghĩa quân
phải quyết liệt lắm, dũng cảm lắm mới lập nên kỳ tích như vậy.
Trong khi triều đình lánh mặt, trông tin quan như trời hạn trông
mưa, thì nhân dân vùng lên bột phát, không có chỉ huy, không
quen trận mạc nên chắc chắn sẽ thất bại, nhưng hành động ấy
lẫm liệt, chiến công ấy đáng kể, và những người nông dân “không
chịu vỡ ruộng” ấy đáng được viết văn tế, ghi lại công trạng và
niềm tiếc thương kính phục cho muôn đời sau.
Tôi cứ nghĩ chắc bởi tại thể loại văn tế buộc phải có một đoạn tả
về những người đang sống tiếc thương người đã khuất, nên cụ
Đồ Chiểu mới phải nói ra cái đoạn sầu bi sau trận chiến: Đau đớn
bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não
nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước
ngõ.
Tại sao người nông dân lại không cam tâm làm nghề “vỡ ruộng”,
mà bột phát làm gì cho đau khổ người thân như vậy, có thể hỏi
thế được chăng? Có thể đem chuyện Tôn Thọ Tường lúc bấy giờ
ra cộng sự với Pháp để vinh thân phì gia làm tấm gương được
chăng?
Tôi vẫn nghĩ rằng: dòng máu bao thế hệ người Việt vẫn là dòng
máu trung kiên, không chấp nhận thói phản trắc, ăn ở hai lòng.
Cho nên, dẫu triều đình lúc ấy cam tâm “đổi đất lấy yên thân”
bằng cách cắt cho Pháp cả vùng Nam kỳ lục tỉnh, thì người dân
vẫn còn đó dòng máu trung kiên, chính trực.
Dòng máu đó biết sôi lên đúng lúc, nó khiến cho những người
nông dân không còn là những thân phận “mười năm vỡ ruộng”
nữa, họ đã thoát xác, hóa thân thành những anh hùng dân tộc,
bằng những hành động không thể dùng kiến thức, kinh nghiệm
trận mạc, hay một thứ lập ngôn chủ nghĩa nào đo được.
Bởi thế, nên cụ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng thiên kiến chủ quan
của mình để nhận định:
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui
đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc,
thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm
bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn
còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Có những cái chết vinh, cũng có những sự chọn lựa sống nhục.
Thái độ sống ấy bao giờ cũng thời sự, và cũng không phải lúc
nào, với ai, cũng chọn lựa được một thái độ sống vinh nhục rõ
ràng. Bởi thế mà nghĩa quân Cần Giuộc được mọi người nhớ
mãi. Cụ Đồ Chiểu nói lên tiếng nói thương kính người nghĩa sĩ,
nhưng cũng là thể hiện thái độ của mình. Có khi, vào những thời
điểm, một tiếng nói đúng đắn của mình cũng lưu danh muôn
thuở.
Văn chương yêu nước mỗi thời kỳ có những tầng ý nghĩa riêng
và sự sâu sắc tùy thuộc vào tác giả. Nguyễn Đình Chiểu viết Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nhưng tâm sự đâu chỉ gói gọn trong một
bài văn. Thái độ sống và lòng nghĩa khí, nung đúc dòng máu
trung kiên hay chấp nhận thói sống đớn hèn là những lựa chọn
vượt thời gian, luôn cần thiết cho mọi con người có ý thức rằng
mình sẽ sống tốt.