Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Kiến thức lớp 10 Ca dao Việt Nam –nét mộc mạc và tinh tế trong ca dao pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.32 KB, 8 trang )

Kiến thức lớp 10
Ca dao Việt Nam –phần3
Nét mộc mạc và tinh tế trong ca
dao Nam bộ
Bài này hay quá mà chẳng biết bỏ vào BOX nào cho ổn. Để
tạm vào đây, sau này Quản trị nào hiểu thì đưa về đúng nơi
đúng chỗ của nó !

So với các vùng miền khác, ca dao Nam bộ có cách dùng từ
mộc mạc gần như “bê nguyên xi” từ cuộc sống chứ ít dụng
công gọt giũa cho bóng bẩy, êm ái, nhưng vẫn không mất đi
sự tinh tế.

Người Nam bộ chuộng cách nói thẳng, nói thật nên đã mang vào
trong ca dao lời ăn tiếng nói hằng ngày của mình. Nhiều câu vì
thế đọc lên cảm thấy rất trúc trắc, “thô ráp” nhưng có sự ý vị, ngọt
ngào ẩn chứa bên trong. Chẳng hạn, khi nói về nỗi niềm đơn
chiếc, trống vắng, người dân Nam bộ mượn hình ảnh con cá, con
tôm có cặp, có đôi, đối lập với hoàn cảnh của mình: “Ví dầu cá
bống hai mang/Cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu/Anh về bên ấy
đã lâu/Để em vò võ canh thâu một mình”. Quả là hay về ý, đẹp về
vần. Không cần những từ ngữ bóng bẩy, những lời hoa mỹ đẩy
đưa cũng nói lên tâm trạng của người con gái chờ đợi nhớ
thương người yêu. Một chàng trai buồn vì mẹ mình đã mượn
những khẩu ngữ hằng ngày của người Nam bộ để tâm sự: “Gió
đưa bụi chuối tùm lum/Mẹ dữ như hùm ai dám làm dâu”.

“Tùm lum”, “tà la” là những từ rặt Nam bộ không lẫn vào đâu
được, là từ láy rất đặc trưng cho miền đất này, cũng như "te rẹt,
tét lét, tèm lem" Tất cả những từ này rất khó tạo vần để thành
thơ, thế mà dân gian Nam bộ đã không chỉ làm được mà còn làm


hay. Chẳng hạn, để chỉ hình ảnh trai gái chọc ghẹo nhau, dân
gian sẵn sàng dùng những từ rất ư là bình dân: “Con chi rột rẹt
sau hè/Hay là rắn mối tới ve chuột chù?”. Nếu nói về sự vụng
trộm của các đấng ông chồng khi cuộc sống đã có phần ổn định
thì: “Đói cơm lạt mắm tèm hem/No cơm ấm áo lại thèm nọ kia”.
Từ “tèm hem” ở đây được dùng rất đắc địa. Cái phép dụng vần
cho thơ không phải cốt để đọc nghe trơn tru mà cao hơn, nó phải
tham gia thể hiện chiều sâu của ý, phải góp phần tạo hình tượng
cho thơ.



Người Nam Bộ mang vào ca dao lời ăn tiếng nói hằng ngày của
mình.


Hay như từ “thắt thẻo” được dùng trong câu ca dao này làm cho
người đọc cảm thấy buồn đến đứt ruột, đứt gan: “Gió mùa đông
trăng lồng lạnh lẽo/Năm canh chày thắt thẻo ruột gan”. Đâu chỉ là
sự gieo vần thuần túy, sự góp mặt của từ này đem đến cho ta nỗi
cô quạnh, lạnh lẽo, tê buốt trong lòng. Chỉ một từ thôi mà câu thơ
như sắp òa khóc, như ướt đẫm nước mắt đêm trường. Lối gieo
vần trong ca dao Nam bộ quả là biến hóa linh hoạt, nhưng rất gần
gũi với đời thường.

Người Nam bộ cũng sử dụng những từ ngữ vay mượn từ các
dân tộc sống trên địa bàn để vào ca dao. Đặc biệt, sự ghép đôi
giữa một từ tiếng Việt với một từ tiếng Hoa làm cho nhiều câu ca
dao trở nên độc đáo và hay đến lạ thường: “Gió đưa chú tửng
từng tưng/Gặp chị bán gừng na nả nị ơi”. Câu đầu được hiểu là

ngọn gió khởi lên sự vui vẻ từ lòng người chú Tiều (Từng Náng)
khi gặp gỡ cô gái. “Nị” là đại từ ngôi thứ hai theo âm Quảng
Đông, “na” là từ chỉ phụ nữ, "nả" được dùng tương tự như từ
"đấy, nhé" ở cuối câu tường thuật của tiếng Việt.

Chờ đợi là một nghệ thuật kỳ diệu. Câu ca dao có khi là cách tỏ
tình, giãi bày nỗi niềm của người thiếu nữ khắc khoải trong đêm,
chờ đợi người tình. Cánh đồng thì mênh mông, trại ấp thì thưa
thớt, người của đất Ngồ Ố, Láng Dài nói lên sự xa cách của đôi
lứa: “Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài/A hia xùa bố a mùi ùm chai”
(Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài/Anh cưới vợ rồi em chẳng được
hay!). Cho nên đã yêu là phải chủ động, là phải “tam tứ núi cũng
trèo".

Có những câu ca dao Nam bộ cải biên từ một câu của người
Việt, thay một từ tiếng Hoa, rất ngộ nghĩnh và độc đáo: “Ta về ta
“xực” cơm ta/Dầu hơi quá lửa cơm nhà vẫn hơn”.“Xực”, tiếng
Quảng Đông có nghĩa là ăn. Như vậy câu ca dao thuần Việt là:
“Ta về ta ăn cơm ta/
Dầu hơi quá lửa cơm nhà vẫn hơn”.

Ca dao Nam bộ cũng sử dụng một lượng lớn các từ Hán Việt,
làm cho nên những vần thanh thoát, mượt mà và vô cùng sang
trọng. Chẳng hạn, gặp nhau, chàng trai hỏi cô gái: “Anh gặp em
vừa mừng vừa hỏi/Phụ mẫu ở nhà có mạnh giỏi hay không?”. Cô
gái đáp lại: “Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an/Em xin
hỏi lại phụ mẫu của bạn lang thế nào?”.

Từ Hán Việt xuất hiện nhiều cũng khiến ca dao Nam bộ bớt đi
phần nào “nôm na” về mặt hình thức: “Cây gie bần ngã/Bất khả

viển vông/Tới đây em nói cho anh vừa lòng/Em đây có chốn loan
phòng từ lâu”. Khi muốn thể hiện sự trách móc, giận hờn trong
tình yêu, các tác giả dân gian Nam bộ mượn từ Hán Việt để cho
lời trách móc đó trở nên ý vị hơn, không lộ liễu mà lại bộc lộ được
niềm tiếc nuối, xót xa cho sự nhầm lẫn của người yêu: “Bình tích
thủy đựng bông hoa lý/Chén chung vàng đựng nhụy bông
ngâu/Trách ai làm trai hữu nhãn vô châu/Chim oanh không bắn,
bắn con sâu đậu nhành tùng”.
Từ Hán Việt trong ca dao Nam bộ còn khá đắc dụng khi khắc họa
tâm trạng, tình cảm phức tạp của tình yêu đôi lứa:
“Mưa sa, lác đác, gió táp lạnh lùng
Thấy em lao khổ anh mủi lòng nhớ thương
Đường đi biết mấy dặm trường
Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa?”.

Và lời đáp của cô gái cũng là một lời hẹn ước:
“Ngọc trầm thủy thượng anh ơi
Bách niên giai ngẫu ở đời với em”.

Những từ Hán Việt xuất hiện khá nhiều trong ca dao Nam bộ còn
cho thấy, không chỉ có tầng lớp nhân dân lao động mà cả các ông
đồ Nho, những người đã qua “cửa Khổng sân Trình” cũng tham
gia đặt lời làm phong phú cho ca dao.

×