Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Kiến thức lớp 10 Ca dao Việt Nam –cái tình trong ca dao doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.2 KB, 24 trang )

Kiến thức lớp 10
Ca dao Việt Nam –phần4

Cái tình trong ca dao Việt Nam


Ca dao là tiếng nói trung thực,phản ảnh rõ nét nhất trong văn
chương bình dân, được miêu tả sự việc xẩy ra hằng ngày giữa
cuộc đời và trở thành những câu hò, điệu hát của nhân gian như
những bản tình ca bất diệt, đượm màu thế tục;tình yêu,tình đời
với một ẩn dụ tự nhiên làm cho người ca ngâm cũng như người
nghe có một cảm nhận gần gủi,tuyệt vời.Ca dao còn hóa giải mọi
tình huống uẩn khúc,lời ca ấy làm cho con người không còn cảm
thấy đau khổ nữa “L’homme souffre,mais en chantan sa
souffrace,il la dépasse”.

Vì vậy; nói đến văn chương bình dân chúng ta không thể quên thi
ca bình dân mà ca dao nắm một vai trò chủ lực và những thể loại
quen thuộc, không ước lệ,không qui cách,tuy nhiên lời thơ của ca
dao vẫn giữ đúng vần điệu có khi rất chuẩn về luật bằng trắc nhờ
đó mà dể đả thông tư tưởng, trực chỉ vào lòng người một cách
sâu lắng.

Ca dao là ca hát,tự nó trở thành khúc đi thẳng vào lòng và bày tỏ
được nội giới dù dưới một không gian hay thời gian nào ngoài ra
ca dao còn là gia-huấn-ca,một tâm lý đạo đức,dạy làm
người…đôi khi văn thơ phải mượn ngôn từ của ca dao để nói lên
cái tình người,tình đời một cách chính xác hơn.

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra


giáo dục con trẻ khi mới lớn:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu giao tình
hoặc một ý nghĩa thâm sâu khác:
Cá không ăn muối cá ương
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư

Những câu ca dao lục bát như thế ắt phải nằm sẳn trên môi của
mọi người một cách dể dàng và thông đạt lắm!

Đó là cái nhìn nội giới trong ca dao mà mỗi khi chúng ta phóng
vào hiện tượng; đó là bản thể của “cái tình” trong ca dao.Tuy mỗi
câu hò điệu hát có khác nhau nhưng cái nhìn của tình yêu vẫn là
một và cái gặp gỡ đó,nói chung; là cái đồng tình bất biến của con
người.Sự gặp gỡ chính nơi lòng ý thức,nơi thức tỉnh của ý thức
trước những hiện hữu đời và gia đình hay chính là nơi những gì
mà con người kêu lên thiết tha hay để bộc lộ sự thống khổ.Hình
ảnh của thi ca nói chung và của ca dao Việt Nam nói riêng là
tiếng kêu thức tỉnh của con người tạo nên, dùng để ví von của
người dân quê trước cuộc đời.Mà cuộc đời này; con người đã
gắng bó chặt chẽ trong mọi hoàn cảnh trong mọi tình huống của
đời người,từ những tình cảm của cái tình đó đã nói lên được một
cái gì âu yếm và thầm kín.

Anh đi ba bửa nhớ về
Rừng sâu nước độc chớ hề ở lâu

Hình ảnh “anh đi ba bửa”rồi”chớ hề ở lâu” nó biến ca dao thành
thi ca,từ những hiện tượng thực thể biến thành tha thể xuất phát
từ ngoại giới đi vào nội giới giữa mối liên hệ tha nhân và chủ thể

nó cặp kè,sánh vai trong hoàn cảnh đối đáp để nên vợ nên
chồng,ca dao không còn hiện diện với ca với hát mà biến dạng
thành hò,câu hò trực diện với thực tại như một sự hiến dâng!

Trai nào nỗi tiếng anh hào
Anh mà đối đặng má đào em xin trao ơ…ơ

Cái vũ trụ mộng mơ ấy hoàn toàn ở trong đôi mắt chiêm ngưỡng
của con người khi phóng cái nhìn vào tương lai giữa sự viên mãn
của tình yêu.Vũ trụ này chưa hiện thực rốt ráo nhưng đã xuất
phát một ước vọng thực hữu.Hình ảnh cuộc đời không bị tha hóa
mà bắt nguồn từ vũ trụ thực hữu;vì vũ trụ ấy có thực trong cuộc
đời này.

Trai nước Việt nỗi tiếng anh hào
Anh đà đối đặng vậy má đào xin trao dâng ơ…ơ

Hẳn nhiên; ý thức giữa trai gái rất đặc thù trong phạm vi lứa
đôi,nói trắng ra là tình yêu qua mọi lứa tuổi, đặc biệt tình yêu
nông thôn, ý thức ấy bừng lên từ cuộc sống và chiếu sáng cuộc
sống đó là lối tả chân mà cảnh đời không có hoặc chưa có nên
chi vũ trụ dự ước của con người cũng là những cảnh đời có thực
mà được phóng nhiệm lên cảnh đời có thực trong ca dao.Cho
nên ca dao phát ra giữa chốn đồng quê,giữa nơi xa phố thị tự nó
dâng tràn trong nhân gian,vì thế tìm đến một tác giả trong ca dao
đều trở nên không cần thiết và có muốn biết chăng nữa cũng
không được vì mọi người đã đi vào cảnh đời một cách tự nhiên
và tự nhiên như mình là tác giả vậy! Nó vượt thoát cả không gian
và thời gian kể cả hiện tại,quá khứ và tương lai,vượt thoát từ
những người sáng tạo ra ca dao,ca dao bỗng nhiên độc lập để

tạo cái đắm đuối,rụt rè,e lệ nhưng đầy tính lãng mạng cho dù mối
tình chân lấm tay bùn.

Ngó em chẳng dám ngó lâu
Ngó qua một chút đở sầu mà thôi!

Cái ngó ấy là cái ngó thức tỉnh,một cái ngó của kẻ tình si và cũng
là cái nhìn mơ mộng của người đồng quê đứng trước cuộc đời có
thực.Chính đó là sự sáng tạo của ca dao.Nói đến mơ mộng hình
như chúng ta đụng phải một phản ứng tâm lý.Theo tâm lý học giài
thích: khi mơ mộng thì đó không phải là một trạng thái thức
tỉnh.Tâm lý học quan niệm như thế nầy”En suivant la pente de la
reverie”Tiếp đó là cái mơ về của ý thức thức tỉnh “đở sầu” nằm
trong ý thức mơ về (rêver à/daydreaming)mà ở đây mơ không có
nghĩa là buông xả theo giòng đời và chìm dần trong mộng để rồi
mất luôn tính sáng tạo nghệ thuật vì ý thức thức tỉnh thường đối
lập với ý thức thức tỉnh nghệ thuật và làm lu mờ ý thức mơ về
cho dù trong chiêm bao chăng nữa đã cho thấy một ý thức thức
tỉnh.

Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẫn quất bên mình năm canh

Thành ra mơ chiêm bao ở đây là cái nhìn sáng tỏ của cái mơ về
giữa duyên,nợ và tình đã bừng lên trong ý thức về thân phận của
người phụ nữ.

Mơ về hay chiêm bao không còn là mối sầu buông xuôi của tâm
lý học mà trái lại mơ và chiêm để phóng thể ngôn từ”bên mình
năm canh”trong giấc mơ nữa đêm trở nên ý thức chớ không phải

chiêm bao vô thức.

Trong cái nhìn vũ trụ quan như thế đã cho ta thấy được ca dao là
một lối sáng tạo hết sức đặc biệt mà chất liệu là cảnh đời,cô đọng
trong từng câu hò điệu hát mượn từ ca dao để mơ về…

Ca dao không đòi hỏi tác giả là ai,nó đã trở thành của chung,tác
giả chung giữa cuộc đời này mà trong thi ca vốn có sự bừng tĩnh
đầy sáng tạo,ca dao đại diện cho những cuộc tình trọn vẹn hay
tan hợp,nói lên nỗi nghẹn ngào,uất nghẹn tất cả qui về sự mơ về
cõi thực để tìm thấy được chân lý của cuộc đời.Giờ đây ngôn từ
sáng tạo của ca dao đã thành thơ,những thể thơ mới như ngày
nay.

Cá lý ngư sầu tư biếng lội
Chim phượng hoàng nhớ cội biếng bay
Anh thương em đừng vội nắm tay
Miệng thế gian ngôn dực
Phụ mẫu hay sẽ rầy

Ca dao như thế đấy! mỗi khi đọc lên đã cho chúng ta cái cảm
giác tợ như ức chế,như phụ rẫy như khoa phân tâm học quan
niệm.Lối thoát bằng ức chế chỉ xẩy ra với cảnh đời,những người
bị tập quán kiềm chế mới lâm vào khát vọng của bản năng cho
nên mới tìm lối thoát bằng lối này hay hình thái khác để tránh
né.Quan điểm đó đôi khi cũng có tính võ đoán và không hoàn
toàn đúng hẳn,cho nên đừng để cái nhìn ức chế vào đây.Vì sao?
Vì “anh thương em” có nghĩa là đừng vội đánh mất cái đẹp mà
đây là tiếng nói mặn mà,bất luận ở đâu nơi chốn nào người phụ
nữ Việt Nam đoan trang trong tiếng nói ấy tức tiếng nói của ca

dao,tiếng nói soi sáng,tiếng nói của ái tình.

Em có thương anh
Em nói cho thiệt tình
Để anh lên xuống
Ơ…ơ chớ một ơ…ơ mình ơ bơ vơ

Đó là một thứ gì vô biên chân thật của tình đồng quê một bày tỏ
cao nhất trong đời nhưng biết nói làm sao khi ý thức vô biên chưa
có thì nói làm sao khi cái nhìn tuyệt đối chỉ ngưng trong hiện
tượng của đất trời cho nên họ không ngần ngại bộc bạch một
cách chân tình cho dù ngập ngừng bày tỏ “ơ ơ chớ một ơ ơ
mình ơ bơ vơ” Ca dao nông thôn nó diễn tả tích cực như thế
đó!diễn tả cái mùi vị chất phát mặn mà, đượm bạc,cái ngập
ngừng dể yêu ấy.

Đó là hướng đi lên của ngôn từ ca dao Việt Nam thoát ra từ tiếng
nói văn chương bình dân để đạt tới hiệu năng của sự bày tỏ.Cho
nên hình ảnh của ca dao;dù sao đi nữa nó vẫn có cái mới của
riêng mình,mở ra một ngôn từ sáng lạn và nó cũng đánh dấu
những bước thăng trầm của sức diễn đạt giữa người với
người,những hình ảnh của ca dao vô hình chung trở nên tư liệu
của cảnh đời:người,cảnh vật,nhân sinh và tình yêu.Chúng ta
cũng có thể nghĩ rằng nhờ ý thức chuyển vị đẹp đẻ đó của con
người cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn “the beautiful-life”nhờ đó
tình cảm con người được tỏa rạng.Cho nên khi bắt gặp một hình
tượng trong ca dao,dù có mộc mạc bao nhiêu cũng mở rộng cho
chúng ta một chân trời mới đầy ý nghĩa hơn nhất là tình yêu có
một sắc màu luôn luôn lung linh của người con gái xuân thì dưới
một cái gì lả lướt của ca dao.Ngôn ngữ ca dao rất cô đọng và

tràn đầy.

Tóc em dài em cài bông hoa lý
Miệng em cười anh để ý anh thương

Ý nghĩa của ca dao là ở cái chỗ mộc mạc đơn sơ nhưng lại là
một sự thức tỉnh nội tại,một sự khám phá của con người vừa hào
hứng vừa can đảm mà chúng ta phải đón nhận như chính chúng
ta đón nhận cuộc đời này. Đó là cái nhìn khám phá:

- Khám phá nội tâm bằng cái nhìn ngoại giới.

- Khám phá ngoại giới bằng cái nhìn nội tâm.

Chính hai cái nhìn tuy nghịch đảo nhưng bổ sung cho nhau để
nhìn thấy giấc mơ của người nghệ sĩ ca dao. Đó là một vũ trụ
hiện thực để góp phần hạnh phúc cho đời.

Cho nên cái mộc mạc của nông thôn đã làm cho họ cảm thấy
hạnh phúc,sung sướng và mỗi câu ca dao nói lên cảnh đời;dù
trong mơ vẫn trung thực với đời.Vì vậy cái nhìn của họ như bao
trùm từ ngoại giới đến nội giới đều đúc kết thành lời thơ,lời thơ
đó chúng ta gọi là ca dao.

Nàng về nàng nhớ ta chăng
Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười

Mỗi lúc cái nhìn hay cái nhớ càng phóng ra rộng rãi, càng thấy
cuộc đời đẹp và bao la diệu vợi,kể cả nụ cười nhe răng”cần cẩu”
vẫn là niềm nhớ không quên,bởi vì; chán gì những cái nhớ mà lại

đi nhớ hàm răng em cười,biết đâu trong cái nhớ đó có một chút
gì lãng mãn của ca dao(?),tầm thường thật nhưng bao la và
mênh mông vô cùng đối với ngôn từ của ca dao.

Thật ra đi vào cuộc đời, đi vào vũ trụ không dể dàng như thế mà
chính là một sự khám phá không ngừng.Trong sự khám phá
ấy,con người bắt gặp vừa mình vừa vũ trụ một lối khám phá tìm
ra được hai hiện tượng. Đối tượng của sự tìm gặp chính là khám
phá cái nội giới mà ca dao lãnh một phần trách nhiệm trong ngôn
từ(kể cả đối thoại) và ý nghĩa.Nhưng trong hai tượng ấy người ta
có thể phân biệt được;

- Bản ngã tự tại

- Vô ngã vũ trụ

Những cái vô ngã vũ trụ được hữu ngã hoá cho nên cái bản ngã
tự tại ngay phút đầu đã trở thành cái vô ngã của bản ngã. Đó là
sự cố đã khua động bản ngã của con người để sáng tạo và giúp
cho con người thực hiện câu thơ để chia xẻ với tha nhân;con
người đã nhìn cái đẹp một cách siêu thoát đó là cái vô ngã được
hữu ngã hoá nhờ cái nhìn của bản ngã từ “một thương cho tới
mười thương” là đề cao cái đẹp phong phú vừa cao đẹp vừa
thẩm mỹ học và chính cái tôi bày tỏ lại đứng sau và được hữu
ngã hoá vũ trụ để làm tan biến ngoại giới mà trở về với bản ngã
mà không có cái tôi trong đó .

Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai thao dịu dàng
Bảy thương nét ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương em ở một mình
Mười thương con mắt đưa tình với anh

Do đấy con người của ca dao là con người của cuộc đời,của vũ
trụ chớ không phải con người chỉ là con người như một ý thức bi
đát về người.Lối về của vũ trụ đã chiếm cứ hiện tượng bằng bản
ngã của mình,chính là lối đi về của tình thương,cái tình mà con
người tìm thấy;tất cả ca dao là ở chỗ ấy và có thể nói ca dao có
hai bề mặt là bản ngã và vô ngã cả hai mảng nầy dùng để xoa dịu
những xót thương hay thương mong về tình cảnh khi con người
mới dấn thân vào đời và vũ trụ.Bởi vì tâm thức và trí tưởng của ta
đủ khả năng giúp ta sáng tạo những gì mà ta nhận thức được.

Từ những vị trí đó giấc mơ về vũ trụ giúp cho con người thoát
được thời gian,không còn thấy sự lôi cuốn của thời gian.Từ bản
thể nhìn ra đó là trạng thái của tâm thức và ca dao mở rộng trước
mắt ta bằng hiện tượng của trạng thái tâm hồn.

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều

Tất cả là biểu tượng để biểu dương trạng thái mơ về(Rêve
a/daydreaming) đó là trạng thái thắc mắc về nhớ thương. Đấy là
tâm hồn hiến dâng cho vũ trụ “chiều chiều” là thời gian thuộc
khách thể,trong cái đau đớn “ruột đau”là thế giới của nội tại. Với

ca dao những ngôn từ thường chứa đựng một nội dung mới của
từ ngữ đều qui định một tâm thức trước cuộc đời và vũ trụ.

Mọi sự vật đều hướng tới với con người và đó là cơ hội để người
nghệ sĩ đưa vào ca dao những khát vọng yêu đương một khát
vọng đầy hứa hẹn,như cuộc tình hay cuộc đời mong muốn.

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn đỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi mười thu em chờ

Đó là hiện thực của sự bày tỏ về cảnh giới giữa thành thị với
nông thôn và ngôn từ của cuộc sống đã lý giải cái tâm sự tha thiết
và chân thật của người yêu,chân thật ở cái chỗ ẩn dụ đó.Người
nghệ sĩ bình dân sắp xếp ngôn từ trong thơ để có cái nhìn sự vật
và chính cái nhìn đó thoát ra một số tâm lý của con người và
chính cái tầm thường đó chẳng hạn như “râu tôm”hay”ruột bầu” ở
những nơi thôn dã đìu hiu được người nghệ sĩ cho sống lại cái
tình chân đó như một đòi hỏi cần thiết mà nghe rất bình dị của
lớp người muôn đời trong ao tù nước đọng.Ca dao bình dân nói
lên được cái khát vọng đó mà nhà thơ bình dân của chúng ta hoà
nhập một cách tài tình giữa vũ trụ đầy khát vọng tình người.

Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

Đọc lên ta cảm nhận được phần nào lẽ sống,một lẽ sống nồng
đượm của tình yêu khát khao đi từ chủ thể con người đến cuộc
đời.Ca dao diễn đạt được cái mối giây liên lạc ấy.Mối giây đó

không phải hai chiều giữa người và sự vật.Vũ trụ khát vọng của
ca dao là hình ảnh cuộc đời mà con người mơ về một cái gì tầm
thường nhưng ước sống.Ca dao tạo được cảnh giới mơ về cho
những người thành thị và những người xa tầm vóc bình
thường.Ngay cả việc mơ về của tình yêu trong cái dung dị đó nó
đã hàm chứa một tương lai,một lối đi về của cuộc đời.Mơ về ở
đây là cuộc đời có thực chính đấy là phần ý nghĩa hiện hữu của
con người.Ca dao tạo nên những giấc mơ hiện thực như vậy đó;
cho nên cuộc đời mà ca dao vốn có ý nghĩa và sống có ý nghĩa
để đưa tới cảnh đời hiện thực.

Trầu vàng ăn với cau xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời

Cho nên văn chương bình dân thường nói lên tâm trạng khát
vọng đôi khi nó pha lẫn màu sắc triết lý tiềm ẩn trong ca dao,nó
có cái gì mầu nhiệm trong cuộc đời tình ái, đầy bí ẩn trong cái
nhìn ẩn dụ(metaphorical) của con người đó là biện-chứng-tức-thì
trong mỗi tâm trạng,một tình cảm đơn thuần.Nhưng với triết học
có một sự tương quan tối thiểu giữa ta và cuộc đời như một
tương quan giữa chủ thể và tha thể; đó là tương quan giữa con
người với cuộc đời.Nên chi vượt qua cái nhìn đối tượng và cũng
nhờ cái nhìn đó mà vượt qua được giới hạn để đi tới một giá trị
trực tiếp.

Duyên,nợ,tình là khát vọng của tình cảm song hành với công việc
và sự vật đó là cái nhìn mơ về của hạnh phúc,một gắng bó thực
hữu giữa tình yêu vợ chồng một lối mơ về của ca dao,một khát
vọng trung thành phát xuất từ cảnh đời hiện thực cho nên lối mơ
về đó tạo nên một hiện hữu đồng nhất giữa người và vũ trụ.Con

người trôi chảy vào đời nhờ những hình ảnh thuần đơn mà khát
vọng đó đã tạo nên thơ;một nguồn thơ nhất thể.Thành thử vũ trụ
khát vọng của ca dao là vũ trụ bắt nguồn từ cuộc đời thực hữu để
tiến tới khát vọng.Vì thế ca dao là tiếng kêu chân thành của con
người ham sống,yêu đời,yêu người.Ca dao không yêu cầu cái ủy
mị đài các,mơ mộng viễn vông,ca dao đi gần với quần
chúng,nhất là đồng bào miền quê và hoá giải mọi uẩn khúc,vui
buồn đưa con người về với hạnh phúc.Tác giả của ca dao muốn
vậy! Đó chính là cuộc đời mà người nghệ sĩ miền quê yêu cầu.

Sớm mai gánh nước mờ mờ
Đi qua ngõ giữa tình cờ gặp anh
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu
Trầu nầy ăn thật là cay
Dù mặn dù lạt dù cay dù nồng
Dù chẳng nên vợ nên chồng
Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương
Cầm lược thì nhớ tới gương
Cầm trầu nhớ túi,nằm giường nhớ nhau.

Ca dao còn là hình ảnh, ở đây là những hiện tượng của bản
thể.Do đó hình ảnh không còn là hiện tượng đơn thuần mà hiện
tượng có nội dung cho nên mới được gọi là hình ảnh.Chính
những chất liệu trong ca dao đã tạo nên hình ảnh,hình ảnh của
vật thể,hình ảnh của vũ trụ,hình ảnh của tình yêu. Đó là những
cái nhìn khai phóng của chúng ta để tìm ra cái nội dung đó;với cái
nhìn của ca dao luôn luôn có sự ẩn dấu,tiềm ẩn, đẩy cái hình ảnh
đó như thúc dục người nghệ sĩ ca dao phải ẩn mình, đấy là cái
nhìn thuở ban đầu.Cái nhìn hai chiều song phương từ bản thể

đến hiện tượng để rồi từ hiện tượng qui về bản thể tạo nên một
nội dung hình thể như thế là cái nhìn trực tiếp của ca dao nói
riêng và thi ca nói chung do đó những sự vật cùng từ ngữ tham
dự vào cuộc đời và tạo nên hình ảnh và từ hình ảnh tạo nên ý
nghĩa của mình.Cái nhìn đồng hoá mình với sự vật như vậy là cái
nhìn trực tiếp đi vào bản thể không cần tìm đến bản thể mà thấy
hiện tượng từ bản thể và từ đó tình yêu được bừng sáng lên và
hiện hữu “Tôi đặt trái táo trên bàn,rồi tôi hoà mình vào trong trái
táo. Ôi!tuyệt vời biết là bao…”(Henri Michaux) Tuy không trực tiếp
bằng cái nhìn phối hợp của ca dao nhưng cũng tương đồng ý
nghĩa.Tâm trạng đó người ta gọi là ý thức biểu tượng.

Qua đình ghé nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói,thương mình bấy nhiêu

Cho nên cái nhìn trong ca dao dù chỉ là cái nhìn ban đầu là truyền
thừa vào biến trình diễn đạt của dân tộc,nội dung ý nghĩa vẫn còn
vang vọng nhờ những hình ảnh đó.Cái ngôn từ trong ca dao Việt
Nam trước sau vẫn vướng vít hình ảnh của tình yêu mà ca dao là
môi giới trong lãnh vực của tình yêu.

Kết.

Ca dao là mạch thở của thơ,là nguồn sáng tạo vô tận,là ngôn từ
của văn chương bình dân chứa đựng hết thảy tình người trong
đó.Ca dao càng mộc mạc bao nhiêu thì càng chan chứa bấy
nhiêu,ca dao không đỏm dáng,chải chuốt bóng bẩy mà thường
xử dụng những ngôn từ thực tế của cuộc đời,mà chúng ta
thường gắn liền với nhau:con người và cuộc đời,nó trở thành như
định lệ.Nhưng nghĩ cho cùng đó chính là sức sống,chính bản thể

thôi thúc,con người với hiện tượng tình yêu và từ hiện tượng nầy
thoát ra hiện tượng khác bằng ý thức bản thể có ý hướng của
mình.Valery có lần nói:”Le vrai poète est celui qui inspire”Giòng
thơ thực chỉ đến với người có tâm hồn bộc phát;người nghệ sĩ ca
dao thực thi đúng tinh thần ấy, đó là ca dao khua động bản thể
của con người,gợi lên sức sống để đi vào cuộc đời và hoà mình
với hiện tượng rồi từ hiện tượng ấy hoà mình với sự vật để đột
biến thành hình ảnh cho ca dao,lúc đó sự hiện diện của ca dao
sáng tỏ không còn gì gọi là ẩn tàng hay ẩn dụ nó biến thành thi
ảnh mang nội dung ý nghĩa biến động của bản thể con người.Do
đó ca dao trở nên hiện hữu như ta đã thấy trong ca dao.

Cho nên những nhà nghệ sĩ nông thôn,không phải là nhà nghệ sĩ
của văn chương bác học mà họ từ những người thợ cày,thợ
gặt,trẻ chăn trâu đều có con mắt nhìn vào thực tế, họ nhìn thấu
suốt giữa người và vật,ca dao nông thôn đầy cảm hứng thi
vị.Nghệ sĩ ca dao bình dân thể hiện được ý thức đó nghĩa là
muốn xây dựng một hình ảnh phải phóng bản thể của mình vào
hiện tượng cho bản thể sống trong hiện tượng và trở thành hiện
tượng của bản thể và cho sự vật là ta như ta trong sự vật.Vì đó;
là khi bản thể giao tiếp với cuộc đời.

Tóm lại ca dao đã du nhập những giòng thơ của văn chương
bình dân,biến hình từ câu hò điệu hát,trao đổi,hò đối đáp,cắt
xén,rút gọn,dể dàng truyền khẩu từ đó được gọi là ca dao,nó
thường mô tả tình người dưới muôn hình vạn trạng, từ nội giới tới
ngoại giới. Đấy cũng là một phần bản thể dân tộc,một văn hoá
văn minh truyền thống. Điều đặc biệt của ca dao ,ngôn từ không
ước lệ,ca dao nói những gì thực hữu giữa cuộc đời,nương theo
chiều sáng tạo của thi ca qua bao thế kỷ và chế ngự cả thơ Việt

lẫn thơ Đường bằng những câu rất đơn sơ mà đầy ý nghĩa và đi
sâu vào mọi tầng lớp trong xã hội một cách dể dàng và nhanh
chóng.Một ngôn từ thiết tha,một đường giây giữa nội tâm và
ngoại giới. Đó là nhân tố trong văn chương bình dân Việt
Nam.Một thứ triết lý của văn chương bình dân cần phải tô điểm
và nghiên cứu chiều sâu của nó ./.

×