Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

Hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia (2).DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.04 KB, 183 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------------

Chuyên đềCHUYÊN ĐỀ TIẾN SĨ KINH TẾ

Đề tài luận án:

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ CỦA CAMPUCHIA

Giáo viên hướng dẫn :

GS-TS. Tô Xuân Dân
GS-TS. Tăng Văn Bềên

Người thực hiện

:: Vuth Phan Na

Chuyên ngành

: Kinh tế đối ngoại

Mã số

: 5 02 05



HÀ NỘI - 20065

LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài luận án:
Tồn cầu hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu
thế tất yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Tồn cầu hố giúp phần
củng cố an ninh chính trị của mỗi quốc gia thông qua việc thiết lập các mối
quan hệ đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc khác nhau giữa các quốc gia.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý là cốt lõi trong chiến lược phát
triển kinh tế của mỗi nước, là nhân tố quan trọng để đảm bảo sự tăng
trưởng bền vững và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của tăng trưởng. Thực
tiễn phát triển kinh tế các nước cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế là điều
kiện tiên quyết để nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy thoái và đạt tới trình độ
phát triển cao hơn. Là một nước đang phát triển ở trình độ thấp Campuchia
đang phải đương đầu với những thách thức to lớn cả về kinh tế và xã hội.
Thực tế đó địi hỏi Campuchia phải vạch ra chiến lược chuyển dịch cơ cấu
kinh tế phù hợp.
Chính phủ Campuchia đã nhận thức được vai trị quan trọng và xu
thế khách quan của việc tham gia vào q trình tồn cầu hố nền kinh tế thế
giới và nhận thấy cần phải biết tận dụng cơ chế thương mại quốc tế để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Thời gian qua Campuchia đã tích cực và đẩy
nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 1999 Campuchia trở thành
thành viên chính thức của ASEAN. Năm 2003 Campuchia cùng với Nêpal
là những nước kém phát triển đầu tiên được kết nạp vào Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) và hiện nay đã trở thành thành viên chính thức của
WTO. Là thành viên của WTO, ASEAN, ASEM Campuchia sẽ có thêm
nhiều cơ hội phát triển do hệ thống thương mại đa phương đem lại.
Campuchia sẽ xuất khẩu được nhiều hơn và những rào cản mậu dịch sẽ
được giảm thiểu. Nền kinh tế Campuchia cũng sẽ vận hành có hiệu quả hơn
2



nhờ tăng cường thương mại, đầu tư, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy thị trường nội địa có
tính cạnh tranh cao hơn v.v.
Tuy nhiên, quá trình gia nhập kinh tế thế giới ngoài những thuận lợi
như trên chắc chắn sẽ gặp phải những vấn đề khó khăn về kinh tế - chính trị
- xã hội như: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài
sẽ gay gắt hơn, thất nghiệp tăng, sự bất bình đẳng và khoảng cãch giàu
nghèo trong nước trầm trọng hơn v.v.
Như vậy hội nhập kinh tế ngoài việc tạo ra những tiền đề thuận lợi
còn tăng áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước. Vì vậy, việc nghiên
cứu về hội nhập kinh tế quốc tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
Campuchia là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý thyết và thực tiễn.
Xuất phát từ sự cấp thiết đó, tơi chọn đề tài ”Hội nhập kinh tế quốc
tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia” làm luận án tiến sĩ.
II. Mục tiêu nghiên cứu của luận án:
Luận án dự kiến sẽ đạt tới các mục tiêu nghiên cứu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội
nhập kinh tế quốc tế và mối quan hệ của hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
- Chỉ ra những bất cập và đánh giá thực trạng kinh tế cũng như cơ
cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia. Phân tích q
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Campuchia và đánh giá tác động của nó
tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những phương
hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp nhằm đưa nền kinh
tế Campuchia đạt tới trình độ phát triển cao và bền vững phù hợp với mục
tiêu và chính sách phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của Chính phủ
Hồng gia Campuchia.


3


III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Luận án lấy quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia
làm đối tượng nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào
thời kỳ từ năm 1995 đến nay. Đây là giai đoạn nền kinh tế của Campuchia
có sự thay đổi lớn và đa dạng.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một vấn đề rộng, bao gồm cả cơ cấu
ngành và cơ cấu lãnh thổ. Tuy nhiên luận án sẽ chủ yếu giới hạn nghiên
cứu cơ cấu ngành kinh tế bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
cũng như cơ cấu trong nội bộ các ngành đó trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Luận án vận dụng các quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử và quan điểm, đường lối, chính sách của
Nhà nước Campuchia để giải quyết các vấn đề nghiên cứu.
- Ngoài ra luận án cịn phân tích tiến trình biến đổi nền kinh tế chính trị - xã hội khi Campuchia hội nhập Tổ chức thương mại thế giới và
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Do vậy, phương pháp lịch
sử có vai trị quan trọng, đồng thời phương pháp logic được sử dụng để
tổng kết, khái quát những đặc điểm cơ bản rút ra bài học kinh nghiệm.
- Ngồi ra, luận án cịn sử dụng các phương pháp như: nghiên cứu so
sánh, phân kỳ lịch sử, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác.
V. Dự kiến đóng góp của luận án:
1. Luận án làm rõ hơn những vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc
tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Campuchia: khái niệm, đặc trưng, tính
tất yếu và xu hướng của hội nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời,
luận án trình bày mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế làm cơ sở cho việc đánh giá một cách khách quan thực trạng

nền kinh tế Campuchia trong tiến trình hội nhập.

4


2. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong khu
vực và một số nước đang phát triển của Châu á, luận án rút ra bài học cho
Campuchia.
3. Phân tích, đánh giá thực trạng và những bất cập nảy sinh trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước và sau hội nhập Tổ chức thương mại
thế giới của Campuchia.
4. Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để thúc đẩy
nền kinh tế Campuchia khi tién hành hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.

5


CHƯƠNG I: MỘT SỐỐ VẤẤN ĐỀỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI CHUYỂỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ
1.1. Những vấn đề lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm và các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
Các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng kinh tế đơn thuần
mà ln gắn liền với một hệ thống chính trị là nền tảng của nó. Về mặt thực
tiễn rõ rằng ở quốc gia nào cũng vậy, người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh
tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia đó cả về kinh tế, chính trị xã hội
được đảm bảo. Với cách tiếp cận này có thể hiểu hội nhập kính tế quốc tế
khơng chỉ la quá trình tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn
được biểu hiện trong bản thân hệ thống chính sách thương mại, chính sách

phát triển kinh tế của mỗi nước. Như vậy có thể xác định hội nhập kính tế
quốc tế là việc các nước đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể
thống nhất được với nhau, kể cả dành cho nhau nhưng ưu đãi, tạo ra nhưng
điều kiện cơng bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác với nhau... nhằm
khai thác các khả năng lẫn nhau phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình.
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy
định đối với mỗi quốc gia, là tự do hố thương mại và đầu tư một cách
cơng khai, rõ ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực
nói chung đều hoạt động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
- Công bằng: các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của
mình và chung cho mọi nước (nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các công
ty các nước đối tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung); đồng thời
khơng phân biệt chính sách thương mại giữa các cơng ty: mọi chế độ chính
sách liên quan đến thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải bình đẳng

6


giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản
xuất nội địa.
- Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm cơng cụ
bảo hộ cho nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy
phép, quota, hạn ngạch xuất nhập khâu... đều không được sử dụng, các biểu
thuế này đều phải có lộ trình rõ ràng cơng khai về việc giảm dần đến tự do
hố hồn tồn.
- Làm ăn hay thương lượng với nhâu phải trên cơ sở có đi có lại: khi
nền kinh tế thịt rường của một nước thành viên bị bị hàng nhập khâu đe doạ
thái quá hoạc bị những biện pháp phận biệt đối xử gây hại, thì nước đó có
quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn
cấp cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi

cua nền kinh tế trong nước.
* Cơng khai mọi chính sách thương mại và đầu tư.
Với các điều kiện và nguyên tắc trên, nước “ đi sau” như nước ta có
nhiều thuận lợi, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các nước “đi trước”,
nhưng cũng phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức, mà quan trọng hàng
đầu là bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp Campuchia,
nhất là các doanh nghiệp mới “chân ướt chân ráo” bước vào nền kinh tế thị
trường. Đây khong chỉ đơn thuần là việc bảo hộ thuần tuý cho nền kinh tế,
cho từng doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của yêu cầu phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với q
trình tự do hố. Khơng thể có hội nhập quốc tế mà khơng có tự do hố kinh
tế, đây là một đặc điểm mới của xu thế tồn cầi hố ngày nay. Vấn đề quan
trọng trong việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình
hội nhập và tự do hố như thế nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế để có thể phát huy được các thế mạnh của đất nước, tận dụng được
những ưu thế của hợp tác quốc tế, tạo rá sự phát triển vượt bậc của nền kinh
tế quốc gia, nâng cao vị thế của mình trong phân cơng lao động quốc tế.


Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
7


• Khu vực thương mại tự do
Là một hình thức hội nhập trong đó các thành viên cùng nhau thoả
thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hố trong bn bán
về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là:
Thứ nhất, giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn
chế số lượng đối với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau.

Thứ hai, tiến tới lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ.
Thứ ba, mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong
quan hệ bn bán với các quốc gia ngồi khối, tức là mỗi thành viên có thể
có chính sách ngoại thương riêng đối với các quốc gia ngồi khối


Liên minh thuế quan

Là một hình thức hội nhập nhằm tăng cường hơn nữa mức độ hợp
tác giữa các nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia
trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu
dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu
thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh, tức là phải
thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước khơng phải là thành
viên.


Cộng đồng kinh tế

Là một hình thức hội nhập trong đó khơng chỉ qui định việc loại bỏ
hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên và thiết lập một biểu thuế
quan chung đối với các quốc gia khác, mà còn kêu gọi thực hiện di chuyển
tự do hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn trong nội bộ khối.


Liên minh kinh tế

Là một hình thức hội nhập với những đặc điểm tương đồng với cộng
đồng kinh tế về sự tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, tư bản và lực lượng
lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan

chung áp dụng cho cả các nước không phải là thành viên. Tuy nhiên, liên
minh kinh tế thể hiện mức độ hội nhập cao hơn, trong đó các nước thành
8


viên cịn thực hiện thống nhất các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ. Như
vậy, cộng đồng kinh tế là một “bước đệm”, là giai đoạn chuyển tiếp từ thị
trường chung sang liên minh kinh tế. Ví dụ, trước khi chuyển sang hình
thành Liên minh Châu Âu (European Union - EU) (năm 1994) thì khối kinh
tế này đã trải qua nhiều hình thức hội nhập, trong đó có Cộng đồng kinh tế
Châu Âu (European Economic Community - EEC) (năm 1957), Cộng đồng
Châu Âu (European Community) (năm 1967).


Liên minh tiền tệ

Là một hình thức hội nhập tiến tới phải thành lập một “quốc gia kinh
tế chung” có nhiều nước tham gia với những đặc trưng sau:
Một. xây dựng chính sách kinh tế chung trong đó có chính sách
ngoại thương chung.
Hai. hình thành đồng tiền chung thống nhất thay cho các đồng tiền
riêng của các nước thành viên.
Ba. thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ.
Bốn. xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng
trung ương của các nước thành viên.
Năm. xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với
các nước ngồi liên minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.


Quá trình hình thành hội nhập kinh tế quốc tế

Đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XXI, lịch sử đã chứng kiến cuộc khủng
hoảng, trì trệ nghiêm trọng của nền thương mại thế giới. Người ta nhận
thấy rằng, một trong những ngun nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trên
là chính sách bảo hộ thái quá của mỗi quốc gia, vì những lợi ích riêng đã cố
thi hành bất chấp ảnh hưởng đến thương mại chung. Những chính sách này
làm méo mó cạnh tranh lành mạnh trong các nền kinh tế thị trường, làm
cho buôn bán quốc tế phải tiến hành trong khơng khí kém an tồn và việc
dự đốn xu hướng phát triển cũng như dung lượng trao đổi hàng hố gặp
rất nhiều khó khăn. Điều này cản trở nghiêm trọng sự phát triển của thương
9


mại hàng hoá, tác động xấu đến nền kinh tế tồn cầu và do đó kìm hãm sự
phát triển kinh tế của từng quốc gia.
Nhằm nhanh chóng khắc phục những thiếu sót lớn của các chính
sách bảo hộ đã góp phần đẩy nền kinh tế thế giới vào cuộc suy thối trầm
trọng trong thời gian đó, năm 1944, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai
đang đi vào giai đoạn kết thúc, thì tại Bretton Woods, 44 quốc gia tư bản đã
tổ chức một hội nghị quốc tế gọi là hội nghị Bretton Woods. Tại hội nghị
này, các quốc gia đã thành lập hai tổ chức kinh tế là Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD đây là tiền thân cho
Ngân hàng thế giới sau này), đồng thời đã đi đến một quyết định là thành lập
ra một Tổ chức Thương mại quốc tế, gọi tắt là ITO.
Trong khuôn khổ của Liên hợp quốc, đã có ba Hội nghị quốc tế đã
được tổ chức (London, tháng 10/1946; tại Geneva, tháng 8/1947 và tại La
Havana từ tháng 11/1947 đến tháng 1/1948) nhằm soạn thảo ra văn kiện
thành lập ITO có tên gọi là "Hiến chương La Havana". Mục tiêu của ITO
được quy định trong hiến chương La Havana là tạo việc làm đầy đủ và tăng
trưởng thương mại. Vì vậy, để đạt được hai mục tiêu nói trên, Hiến chương
đã đề ra bốn biện pháp hành động chủ yếu: tái thiết và phát triển kinh tế; tất

cả các nước đều được tiếp cận với các nguồn cung cấp nguyên liệu và yếu
tố sản xuất trên cơ sở bình đẳng; cắt giảm các trở ngại đối với thương mại
quốc tế, hợp tác và tư vấn với ITO. Tuy nhiên, quá trình đàm phán để đi
đến Hiến chương ITO đã cho thấy những bất đồng sâu sắc giữa Mỹ, Tây
Âu với Trung Quốc về mục tiêu và những ưu tiên của ITO. Trong khi mục
tiêu quan trọng nhất của Mỹ là mở cửa thị trường các nước Tây Âu và Nhật
Bản, nhất là hạn chế đến mức tối đa các hàng rào thuế quan, tự do hố
thương mại trên cơ sở bình đẳng và tối huệ quốc thì Trung Quốc, ấn Độ,
Libăng... lại cương quyết chống lại các điều khoản tối huệ quốc vì cho rằng
các điều khoản này sẽ đặt những nước trên rơi vào thế bình đẳng trên danh
nghĩa nhưng lại bất bình trên thực tế.
10


Chính những mâu thuẫn trên đã khiến cho Hiến chương La Havana
khơng bao giờ có hiệu lực và ITO cũng không bao giờ ra đời. Tuy nhiên,
song song với các vịng đàm phán cho việc ra đời ITO, thì tại Genever,
ngày 30/10/1947, đại diện của 23 nước đã đi đến một thoả thuận cắt giảm thuế
quan đối với khoảng một nửa số hàng hoá trong thương mại quốc tế, đồng thời
đã ký kết Nghị định thư áp dụng tạm thời "Hiệp định chung về thuế quan và
Thương mại", gọi tắt là GATT 1947.
Chính việc Hiến chương La Havana khơng được phê chuẩn, nên
Hiệp định GATT với 38 điều đã được các nước áp dụng "tạm thời" trong
hơn 40 năm như là một hiệp định đa phương duy nhất, điều chỉnh các quan
hệ thương mại quốc tế. Sau gần nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, GATT đã
trở thành một thể chế và pháp lý của nền thương mại quốc tế cũng như đã
trở thành thể chế mậu dịch đa phương quản lý và điều hành hoạt động mậu
dịch của các nước sau khi tiến trình thành lập Tổ chức mậu dịch quốc tế bị
đứt quãng. Tuy chỉ là một "Bản hiệp định qn tử" mang tính tạm thời
song nó lại có tác dụng rất lớn trong việc đảm bảo và thúc đẩy sự phát triển

của nền mậu dịch quốc tế sau chiến tranh.
GATT đã trở thành "nôi đàm phán" của mậu dịch quốc tế, phát động
và thúc đẩy tiến trình tự do hố mậu dịch giữa các nước; GATT cũng đã trở
thành nơi giải quyết các tranh chấp mậu dịch quốc tế, điều hoà những mâu
thuẫn và va chạm về mậu dịch quốc tế giữa các nước.
GATT đã thông qua những chế độ và cơ chế về mậu dịch của Trung
Quốc, có một tác dụng nhất định trong việc thúc đẩy sự phát triển về kinh
tế và mậu dịch của Trung Quốc.
Hàng năm các thành viên nhóm họp để vạch ra chính sách cơ bản của
GATT, mỗi quốc gia thành viên có một phiếu. Chế độ đa số phiếu được tôn
trọng nhằm tránh việc rời xa các nghĩa vụ cụ thể mà GATT quy định. Các tiểu
ban hoà giải được xác lập nhằm giải quyết các tranh chấp trong thương mại.

11


Từ vòng đàm phán đầu tiên năm 1947, GATT dần dần được hoàn
thiện qua các lần tu chỉnh nhưng vẫn dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản sau:
1. Không phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế các nước thành
viên dành cho nhau quy chế tối huệ quốc (Most Favored Nation - MFN)
đối với hàng hoá nhập khẩu, bất cứ xuất xứ hàng hoá là của quốc gia nào đi
nữa.
2. Không được bảo hộ nền công nghiệp trong nước bằng chính sách
phân biệt đối xử và các giải pháp thương mại khác như hạn ngạch xuất khẩu.
3. Nhấn mạnh vào việc tiếp xúc và tham vấn để tránh xâm phạm lợi
ích thương mại lẫn thuế, cũng như các rào cản thương mại khác và ghi lại
kết quả đàm phán trong một văn bản có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số ngoại lệ trong các nguyên tắc trên.
Chẳng hạn, ở nguyên tắc "không phân biệt đối xử" được thể hiện trong điều
khoản "tối huệ quốc", theo đó khơng cho phép ưu đãi mậu dịch đối với bất

kỳ quốc gia nào hơn so với những thành viên ký kết GATT. Nhưng trong
các khu vực mậu dịch tự do (còn gọi là liên minh thuế quan - Customs
Unions) thì các thành viên trong khu vực hoặc trong liên minh đều được ưu
đãi hơn. Hay ở nguyên tắc "cấm trợ cấp cho xuất khẩu" có nghĩa là các nhà
sản xuất nội địa khơng được hưởng những lợi ích hoặc ưu đãi nào khiến họ
chiếm ưu thế trên thị trường nước ngoài. Ngoại lệ của nguyên tắc này dành
cho mặt hàng nơng sản. Ngồi mặt hàng nơng sản ra, nếu có trợ cấp ưu đãi
khác thì các nước được quyền áp dụng chính sách thuế quan phân biệt đối
xử nhằm làm đối trong với những trợ cấp này, gọi là thuế quan bù trừ.
 Kết quả hoạt động của GATT
Từ năm 1947 đến năm 1994, đã có 8 vịng đàm phán thương mại đa
phương được tiến hành trong khuôn khổ GATT 1947. Nội dung của các
vòng đàm phán đã được mở rộng dần từ cắt giảm thuế quan và biện pháp
phi thuế quan đến cải cách hệ thống pháp lý, cơ chế giải quyết tranh chấp

12


của GATT. Kết quả chính đạt được qua 8 vịng đàm phán có thể được tóm
tắt như sau:
Năm vịng đàm phán đầu tiên trong khn khổ GATT có nội dung về
cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm chế biến (các sản phẩm nông
nghiệp không được các nước đưa vào đàm phán) và sử dụng phương pháp
cắt giảm song phương. Theo phương pháp này, các bên ký kết có liên quan
sẽ đàm phán song phương với nhau để cắt giảm thuế quan đối với từng sản
phẩm cụ thể. Tổng cộng qua 5 vịng đàm phán đã có gần 60.000 sản phẩm
được cắt giảm thuế quan. Mọi cam kết giảm thuế quan phải đưa vào biểu
cam kết về thuế quan và về nguyên tắc ràng buộc các bên ký kết (nguyên
tắc ràng buộc)
Bảng 1: Các vòng đàm phán thương mại của GATT

Năm
1947
1949
1951
1956
1960 - 1961

Địa điểm Nội dung vòng đàm phán
Geneva
Annecy
Torguay
Geneva
Dillon

Thuế quan
Thuế quan
Thuế quan
Thuế quan
Thuế quan
Thuế quan và các biện pháp chống bán
1964 - 1967 Kenedy
phá giá
Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan
1973 - 1979 Tokyo
và các hiệp định "khung"
Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan
và các nguyên tắc, các dịch vụ, các
1986 - 1994 Uruguay quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh
chấp dệt và may mặc, nơng nghiệp,
thành lập WTO

(Nguồn: World Trade Organization, />
Số
nước
23
12
38
26
26
62
102

123

Vòng Kennedy đã cắt giảm trung bình 35% đối với hơn 30.000 hạng
mục thuế, đồng thời cũng đạt được thành công đầu tiên trong lĩnh vực giảm
thiểu các hàng rào thuế quan trong lĩnh vực giảm thiểu các hàng rào phi thuế

13


quan với việc thông qua những quy định đầu tiên về chống phá giá và trị
giá hải quan.
Về thuế quan, vòng Tokyo đã đạt được những kết quả rất lớn: mức
thuế quan của các nước phát triển đối với các sản phẩm cơng nghiệp giảm
trung bình 30%, dẫn đến mức thuế quan trung bình của các nước này chỉ
cịn 6%. Trong lĩnh vực phi thuế quan, vịng Tokyo đã thơng qua được 5
"bộ luật" (code) về các biện pháp phi thuế quan: trợ cấp, trị giá hải quan,
mua sắm Chính phủ, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục cấp phép nhập khẩu và
hai thoả thuận về nông nghiệp và một thoả thuận về cơng nghiệp hàng khơng.
Vịng đàm phán tổng thể Uruguay (1986 - 1993, 123 nước); vòng Tokyo

vừa kết thúc, Mỹ đã đưa ra một đề nghị mở tiếp một vòng đàm phán mới. Đề
nghị này của Mỹ nhằm 3 mục tiêu chiến lược: đối phó với những thế lực bảo
hộ tại Mỹ vốn rất bực tức về việc Mỹ thường xuyên bị nhập siêu lớn trong
thương mại với Nhật Bản, Tây Âu và một số nước và nền kinh tế cơng nghiệp
hố mới; áp đặt những tư tưởng của chủ nghĩa tự do kinh tế của Reagan đối với
Tây Âu, Nhật bản và Trung Quốc; giải quyết dứt điểm các hồ sơ tranh chấp về
nông nghiệp, dịch vụ và văn hoá với Tây Âu và các nước khác.
 NNhững hạn chế của GATT

Do bản thân nó cịn tồn tại nhiều bất cập rất khó khắc phục nên
GATT ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế trước trào lưu toàn cầu hoá kinh tế
đang diễn ra ngày càng nhanh, mạnh và sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Điều này chủ yếu được biểu hiện ở những điểm sau:
a. Về vị trí, GATT chỉ là một "bản hiệp định qn tử" mang tính tạm
thời chứ khơng phải là một tổ chức quốc tế chính thức, khơng có tư cách
chủ thể luật quốc tế. Vị trí khơng chính thức này của GATT đã gây trở ngại
cho nó trong việc tiến hành các hoạt động thông thường, hạn chế nó trong
việc phát huy chức năng của mình, làm giảm bớt quyền lực của nó với tư
cách là một tổ chức quản lý và điều hoà các hoạt động mậu dịch quốc tế.
b. Phạm vi quản lý của GATT quá nhỏ hẹp vì chỉ hạn chế ở lĩnh vực
thương mại hàng hố. Nhưng trong q trình phát triển thương mại và kinh
14


tế, thương mại dịch vụ phát triển hết sức nhanh chóng, ngày càng đóng vai
trị quan trọng. Hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thế giới ngày càng
mang đặc trưng của nền kinh tế tri thức, làm thế nào để bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ trong hoạt động thương mại quốc tế đã trở thành một chủ đề
quan trọng. Rõ ràng là thể chế GATT hiện nay rất khó có thể đáp ứng nhu
cầu phát triển thương mại và kinh tế quốc tế.

c. Quy tắc của GATT rất khơng chặt chẽ, cịn nhiều kẽ hở. Điều này
chủ yếu thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, nội dung của rất nhiều quy
tắc trong GATT còn mơ hồ, thiếu những tiêu chuẩn rõ ràng; Thứ hai, còn
nhiều khoản ngoại lệ; Thứ ba, còn tràn lan nhiều biện pháp "Khu vực xám"
như hạn chế xuất khẩu tự nguyện, sắp xếp có trật tự… Những hạn chế trên
đây trong các quy tắc của GATT đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
quyền uy và tính hiệu quả của thể chế mậu dịch đa phương, nếu kéo dài sẽ
gây biến động trong toàn bộ thể chế của GATT.
d. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT còn tồn tại nhiều
hạn chế nghiêm trọng. Biểu hiện chủ yếu: quyền lực tổ, nhóm chuyên gia
rất nhỏ, quá trình giải quyết tranh chấp quá dài sau khi kiểm tra, giám sát,
khơng có hiệu lực. Đặc biệt là ngun tắc "tồn thể nhất trí đồng ý" mà
GATT sử dụng để giải quyết tranh chấp, nguyên tắc khắt khe này đã dẫn
đến hiện tượng kết quả giải quyết tranh chấp của GATT khơng thể thực thi
có hiệu quả. Như vậy, khi nước thành viên, nhất là những nước thành viên
có quy mơ thương mại và thực lực kinh tế hùng hậu vi phạm các nguyên
tắc thương mại đa phương đã không bị trừng phạt một cách đích đáng, do
vậy thường xun đặt tồn bộ thể chế thương mại đa phương trước nguy cơ
tan vỡ.
 Sự ra đời của WTO

Vòng đàm phán Uruguay được bắt đầu từ năm 1986, tuy nhiên đến
đầu những năm 1990, nhiều vấn đề vẫn tiếp tục được bàn luận vì Mỹ và
một số nước có nền kinh tế phát triển muốn đưa thêm vào chương trình
15


nghị sự những vấn đề mới như: trao đổi dịch vụ quốc tế, quyền sở hữu trí
tuệ, đầu tư, lao động, mơi trường...
Bên cạnh đó, thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế cùng một

loạt nhân nhượng kinh tế trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX đã khiến
chính phủ các nước đưa ra một loạt những hình thức bảo hộ khác như: Tự
nguyện hạn chế xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm dịch, nâng cao
tiêu chẩn hàng hố nhập khẩu.. . Chính vì vậy mà thương mại thế giới đã
trở nên phức tạp hơn nhiều so với 40 năm trước đó. Ngay cả đối với thương
mại hàng hoá, nhiều lĩnh vực tuy đã được GATT xem xét nhưng vẫn còn
nhiều lỗ hổng, chưa hợp lý, đặc biệt như hiệp định về thương mại hàng
nông sản và hàng dệt may chủ yếu chỉ mang lại lợi thế và để bảo vệ lợi ích
cho các nước cơng nghiệp phát triển. Thể chế của GATT và hệ thống giải
quyết tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích.
Hơn nữa, đây cũng là thời kỳ kết thúc "chiến tranh lạnh", thế giới
chuyển từ xu thế "đối đầu" sang "đối thoại", thực hiện mở cửa và hội nhập
với quốc tế. Tình hình kinh tế, thương mại thế giới có những biến đổi
nhanh chóng và sâu sắc dưới tác động của tồn cầu hố nền kinh tế thế giới
và sự phát triển vượt bậc của thông tin liên lạc. Do đó, nhiều vấn đề mới
trong quan hệ quốc tế phát sinh, vượt xa khn khổ của GATT, địi hỏi các
quốc gia thành viên phải xem xét lại sứ mạng của GATT.
Cuối cùng, để khắc phục những hạn chế nội tại không thể giải quyết
của GATT và để đáp ứng nhu cầu phát triển tồn cầu hố thương mại và kinh
tế quốc tế ngày càng phức tạp, các bên tham gia vòng đàm phán Urugoay
(vòng đàm phán cuối cùng của GATT) đã quyết định thiết lập một thể chế
thương mại đa phương mới tiếp tục GATT và thay thế cho GATT, đó là tổ
chức Thương mại thế giới (World Trade Orgnization - WTO) vào ngày
01/01/1995.
WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đầu tiên trong việc thiết lập các
thoả thuận và cam kết chung trên quy mơ tồn cầu trong lĩnh vực thương
mại và phát triển kinh tế nói chung. Với tư cách là tổ chức thương mại của
16



tất cả các nước trên thế giới, WTO thực hiện mục tiêu đã được nêu trong
lời nói đầu của GATT là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành
viên, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại, sử
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới.
WTO có trụ sở tại Geneva và tổng thư ký đầu tiên là ông R.Ruggiero,
người Italia. Ngày 31/12/1994, các nước và khu vực tham gia GATT trước
đây sau khi đồng loạt tiếp nhận bản Hiệp định đàm phát Urugoay đã trở
thành các bên đầu tiên tham gia ký kết điều ước của WTO. Tổ chức thương
mại thế giới ra đời đánh dấu sự ra đời của một thể chế mậu dịch đa phương
mới, từ đó thương mại quốc tế đã bước vào một thời đại mới - thời đại của WTO.
1.1.2. Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang
phát triển
Trong những năm vừa qua, xu hướng khu vực hố, tồn cầu hoá diễn
ra ngày càng mạnh mẽ, với kết quả là sự ra đời và phát triển của hàng loạt
các tổ chức khu vực và toàn cầu như

ASEAN, APEC, ASEM, EU,

NAFTA, WTO... Những tổ chức này khác nhau về quy mô, nguyên tắc và
phương thức hoạt động nhưng lại giống nhau ở mục tiêu là tăng cường
năng lực và hiệu quả hoạt động thương mại của mỗi nước thành viên cũng
như củng cố sức mạnh thương mại toàn cầu. Đặc biệt, sự ra đời của tổ chức
thương mại thế giới WTO đã và đang có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự
phát triển của thương mại thế giới cũng như của mỗi nước thành viên.
Tính đến cuối năm 2002, số thành viên WTO đã lên tới 145 nước,
chi phối khoảng trên 90% tổng giá trị thương mại thế giới và trong năm
2003 - 2004, Armenia, Nepal và Campuchia sẽ gia nhập WTO, nâng số
thành viên của tổ chức này lên thành 148. Như vậy, xét về ảnh hưởng có
thể coi WTO như là một "Liên hiệp quốc trong lĩnh vực kinh tế thương
mại". Các nguyên tắc cơ bản của WTO, như nguyên tắc tối huệ quốc, Đối

xử quốc gia đã được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những
nước chưa phải là thành viên của WTO. Nhiều nước sẵn sàng nhân nhượng

17


điều chỉnh hàng loạt các chính sách và kiên trì đàm phán trong một thời
gian dài để trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Việc ngày
càng có nhiều quốc gia muốn gia nhập WTO đã cho thấy tầm quan trọng
của tổ chức này.
Thêm vào đó, hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng hiện
nay và khơng có một quốc gia nào muốn ở ngồi cuộc. Do đó, dù muốn hay
khơng thì mỗi một quốc gia đều phải hồ nhập vào q trình này. Tồn cầu
hoá kinh tế đã tạo ra những quan hệ gắn bó, sự tuỳ thuộc lẫn nhau và những
tác động qua lại giữa các nền kinh tế. Quá trình tự do hoá thương mại, dịch
vụ, đầu tư đã tạo ra những lợi thế mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, đẩy mạnh giao lưu kinh tế đồng thời góp phần khai thác lợi thế so
sánh của các nước tham gia vào nền kinh tế thế giới. Hầu như khơng có
một quốc gia nào đứng ngồi vịng xốy của sự hội nhập nếu không muốn
tự cô lập và rơi vào nguy cơ tụt hậu. Việc tham gia quá trình hội nhập càng
chủ động thì càng có hiệu quả và tránh được nhiều rủi ro. Có thể nhận thấy
tính tất yếu khách quan của xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và
gia nhập WTO ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, trên toàn thế giới và trong mỗi quốc gia đều đã có sẵn đến
một mức nào đó các điều kiện vật chất - kỹ thuật như tiềm lực kinh tế kỹ
thuật, sức mạnh quân sự chính trị, nền tảng văn hoá - xã hội … và khi các
tiềm lực này phát triển mạnh mẽ, đạt đến một điểm mà tại đó bản thân các
tiềm lực này địi hỏi một môi trường rộng lớn hơn để phát triển. Khi đó, có
nguồn lực sẽ di chuyển từ quốc gia này sang các quốc gia bên cạnh và ngược
lại. Bất cứ một nền kinh tế nào không thể không tham gia vào q trình này.

Đây chính là những điều kiện cơ bản để các quốc gia tiến hành kinh tế
quốc tế.
Thứ hai, nhìn nhận một cách khách quan, tồn bộ q trình Tồn cầu
hố là một tất yếu vì lợi ích thu được từ quá trình trên đối với quốc gia là
xu hướng chủ đạo. Nếu quốc gia nào không theo xu hướng đó thì chắc chắn

18


sẽ phải chịu tổn thất phát triển to lớn hơn nhiều; là tự chặn con đường tiến
lên của mình trong thời đại ngày nay. Vấn đề đặt ra ở đây khơng cịn là cân
nhắc xem nên tham gia vào q trình hội nhập hay khơng mà là hội nhập
như thế nào, theo lộ trình nào để lợi ích thu được từ đó là lớn nhất, hiệu quả
cao nhất và rủi ro là nhỏ nhất.

1.1.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một vấn đề mang tính tồn
cầu. Với xu hướng tồn cầu hố như hiện nay, trong khi các quốc gia đang
có xu hướng chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại thì việc hội nhập là một
địi hỏi cấp thiết, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Campuchia.
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một khái niệm rộng, nhưng
trong đó biểu hiện rõ nhất của nó là liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, và
đây cũng chính là mục tiêu mà các nước đang theo đuổi.
Liên kết kinh tế có nhiều loại hình với phạm vi, mức độ và cấp độ
liên kết khác nhau, trong đó tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế
của một quốc gia thể hiện ở 2 khía cạnh chính, đó là: tác động tích cực
và tác động tiêu cực.
 Tạo lập mậu dịch
Đây là tác động tích cực rõ rệt nhất của liên kết kinh tế quốc tế và
khu vực đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Quá trình liên kết

kinh tế dẫn tới việc xố bỏ các trở ngại đối với thương mại hoặc đầu tư
giữa các quốc gia thành viên trong một khối thương mại. Sự gia tăng quy
mô thương mại giữa các quốc gia bắt nguồn từ quá trình liên kết kinh tế
khu vực được gọi là tác động tạo lập mậu dịch. Tạo lập mậu dịch mang lại
cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở các quốc gia thành viên cơ hội
lựa chọn lớn hơn đối với các loại hàng hoá và dịch vụ. Một kết quả khác
của tạo lập mậu dịch là người tiêu dùng có thể mua được hàng hố và dịch
19


vụ với chi phí thấp hơn, do có sự giảm bớt các trở ngại đối với thương mại.
Hơn nữa, mức giá thấp hơn đối với mỗi mặt hàng sẽ làm tăng mức cầu đối
với các mặt hàng khác vì người tiêu dùng có thể tiết kiệm được nhiều tiền
hơn cho việc mua sắm những mặt hàng đó.
Sự phân tích ở trên có thể minh hoạ qua ví dụ sau đây trong trường
hợp hội nhập dưới hình thức liên minh thuế quan: Giả sử một đơn vị sản
phẩm x khi có mậu dịch tự do ở quốc gia 1 là Px = 1 USD và ở phần còn lại
của thế giới là Px = 1,5 USD. Dx và sản xuất là đường cầu và đường cung
sản phẩm x ở thị trường nội địa của quốc gia 2.
Giả sử thêm rằng, quốc gia 2 là một nước nhỏ nên sự ảnh hưởng đến
mức giá chung là rất ít, có thể khơng xét đến.
Biểu đồ 1: Liên minh thuế quan - Tạo lập mậu dịch
Px
($)

Sx

G

2


A

1

J
C

H
M

N

S1+T
B

S1
Dx

10
V

0



30
U

50

Z

60
W

X

Khi chưa có liên minh thuế quan và lúc đó quốc gia 2 đánh thuế

100% khơng phân biệt xuất xứ hàng hoá đối với tất cả những sản phẩm x
nhập khẩu. Như vậy, quốc gia 2 sẽ nhập khẩu sản phẩm x từ quốc gia 1 với

20


mức giá Px = 2 USD và sẽ không nhập khẩu sản phẩm x từ các nước thuộc
phần còn lại của thế giới vì giá nhập khẩu là Px = 3 USD (kể cả thuế nhập khẩu).
Trên biểu đồ ta thấy: với mức gia nhập khẩu sản phẩm từ quốc gia 1
là Px = 2 USD sẽ tiêu thụ 50x (GH), trong đó 30x (GJ) được sản xuất trong
nước, cịn 20x (JH) được nhập khẩu từ quốc gia 1. Quốc gia 2 thu được 20
USD (MJHN) thuế nhập khẩu. Trên biểu đồ S1 là đường cung co giãn hoàn
toàn của sản phẩm x từ quốc gia 1 sang quốc gia 2 trong điều kiện mậu
dịch tự do, còn S1+T là đường cung trong điều kiện thuế quan là 100%.


Trong điều kiện quốc gia 1 và quốc gia 2 thiết lập một liên

minh thuế quan và loại bỏ thuế quan đánh vào các sản phẩm nhập khẩu
giữa 2 nước với nhau thì đường cung về sản phẩm x ở quốc gia 2 chính là
S1.

Mức giá px ở quốc gia 2 và ở quốc gia 1 khi đó đều là Px = 1 USD.
Tại mức giá này, quốc gia 2 tiêu thụ 60x (AB), trong đó 10x (AC) được sản
xuất trong nước, còn 50x (CB) được nhập khẩu từ quốc gia 1. Trong trường
hợp này quốc gia 2 không thu được thuế nhập khẩu. Song bù đắp vào đó,
lợi ích của người tiêu dùng ở quốc gia 2 được tăng lên. Lợi ích này là do
hình thức liên minh thuế quan mang lại và biểu thị bằng tỷ giác AGHB.
Tuy nhiên, cũng do hình thức liên minh thuế quan mà thặng dư của người
sản xuất ở quốc gia 2 bị giảm - biểu thị bằng tỷ giác AGJC, và phần thuế
nhập khẩu của Nhà nước bị mất - biểu thị bằng tỷ giác MJHN.
Nếu xét tổng hợp đối với cả hai quốc gia thì lợi ích rịng do liên
minh thuế quan tạo lập mậu dịch mang lại bao gồm:
Thứ nhất, phúc lợi do kết quả của việc di chuyển sản xuất từ các nhà
sản xuất có hiệu quả thấp hơn ở quốc gia 2 (có mức chi phí VUJC) sang
các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn ở quốc gia 1 (có mức chi phí VUMC)
biểu thị bằng tam giác CJM.
Thứ hai, lợi ích tiêu dùng tăng thêm do giá giảm xuống làm cho
người dân ở quốc gia 2 có thể mua một khối lượng hàng hố lớn hơn (có
21


mức lợi ích ZWBH) với mức chi phí thấp hơn (có mức chi phí ZWBN)
biểu thị bằng tam giác BHN. Như vậy, một liên minh thuế quan sẽ đưa đến
việc tạo lập mậu dịch và từ đó mang lại những lợi ích cho người sản xuất
và người tiêu dùng trong các quốc gia trong liên minh.
 Sự nhất trí cao hơn
Hoạt động của các định chế quốc tế như GATT và WTO có mục tiêu
giảm bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư trên quy mơ tồn cầu.
Những nỗ lực liên kết kinh tế khu vực thường có sự tham gia của một vài
cho tới hàng chục quốc gia. Một lợi ích khác của q trình liên kết kinh tế
quốc tế và khu vực là việc đạt tới sự nhất trí giữa một số lượng nhỏ các

nước thành viên sẽ dễ dàng hơn nhiều so với trường hợp có nhiều quốc gia
liên quan.
 Hợp tác chính trị
Liên kết kinh tế quốc tế và khu vực có thể mang lại nhiều lợi ích về
mặt chính trị. Một nhóm quốc gia có thể có tiếng nói chính trị có trọng lượng
hơn trên trường quốc tế so với từng quốc gia riêng lẻ. Vì vậy, các quốc gia sẽ
có được vị thế mạnh hơn khi đàm phán với các quốc gia khác tại các diễn
đàn như WTO hoặc Liên Hiệp quốc. Quá trình liên kết gắn liền với sự hợp
tác về chính trị có thể làm giảm khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa các
quốc gia thành viên. Trên thực tế thì hồ bình đã được coi là mục tiêu trọng
tâm của những nỗ lực liên kết ở Châu á trong những năm 50. Hậu quả tàn
khốc của hai cuộc chiến tranh thế giới trong nửa đầu thế kỷ 20 đã buộc Châu
Âu phải coi liên kết như là một cách thức để ngăn ngừa các cuộc xung đột
vũ trang.
 Các tác động tích cực khác
Ngồi những tác động tích cực nêu trên, liên kết kinh tế quốc tế và
khu vực còn mang lại cho các nước thành viên nhiều lợi ích tĩnh và động
khác như tiết kiệm được chi phí quản lý, cải thiện điều kiện thương mại của
cả khối với phần còn lại của thế giới, gai tăng cạnh tranh và giảm mức độ
22


độc quyền trên thị trường liên kết, khai thác tính kinh tế theo quy mơ, kích
thích đầu tư từ các nguồn trong và ngoài nước, gia tăng hiệu quả sử dụng
các yếu tố sản xuất, v.v. Tuy nhiên những lợi ích này chỉ có thể được khai
thác triệt để nếu như các nước thành viên phối hợp với nhau trong việc xây
dựng những thể chế và chính sách kinh tế chung thích hợp. Nói một cách
khác, q trình liên kết phải được diễn ra dựa trên cách tiếp cận chủ động.
 Chuyển hướng mậu dịch
Ngược với tạo lập mậu dịch là tác động chuyển hướng mậu dịch, hiện

tượng thương mại được chuyển từ những quốc gia nằm ngoài khối liên kết
tới các quốc gia là thành viên của khối liên kết. Chuyển hướng mậu dịch có
thể xẩy ra khi quá trình liên kết dẫn tới việc giảm bớt hoặc thủ tiêu các mức
thuế quan giữa các quốc gia thành viên. Như vậy, chuyển hướng mậu dịch
có thể làm giảm quy mô thương mại giữa một nước thành viên với những
quốc gia khác có hiệu quả sản xuất cao hơn nhưng nằm ngoài khối liên kết,
và gia tăng quan hệ thương mại của nước đó với các nước thành viên khác
có hiệu quả sản xuất kém hơn. Xét theo giác độ này thì liên kết kinh tế
mang lại lợi ích cho những nước thành viên sản xuất kém hiệu quả hơn
trong khối liên kết. Nếu như trong khối liên kết không có sự cạnh tranh
giữa các nhà sản xuất hàng hố và dịch vụ thì người mua sẽ phải trả giá cao
hơn khi chuyển hướng mậu dịch diễn ra.
Có thể minh hoạ và phân tích thơng ở qua ví dụ biểu đồ dưới đây
trong tường hợp hội nhập dưới hình thức liên minh thuế quan.
Biểu đồ 2: Liên minh thuế quan - Chuyển hướng mậu dịch

23


Px
($)

2
1,5
1

Sx

G


J
C


G’
A

S1+T

H
J’

H’

B


C

S3
B

M

S1

N

Dx
0


20

30

40

70

80

90

X

Trong biểu đồ trên có 3 quốc gia cùng sản xuất sản phẩm x. Dx và
sản xuất là đường cầu và đường cung của sản phẩm x trong thị trường nội
địa của quốc gia 2.
Giả sử quốc gia 1 và 3 là những quốc gia sản xuất sản phẩm x trên
quy mô lớn. Trên biểu đồ S1 và S3 là đường cung co giãn hoàn toàn của sản
phẩm x từ quốc gia 1 và 3 đối với quốc gia 2 trong điều kiện mậu dịch tự do;
còn S1+T là đường cung khi đánh thuế sản phẩm x đối với quốc gia 1 là 100%.
Khi chưa có liên minh thuế quan, thuế nhập khẩu đối với sản phẩm x
đồng đều là 100%, nên quốc gia 2 sẽ nhập khẩu sản phẩm x từ quốc gia 1
với giá Px 2 USD. ở mức giá này, quốc gia 2 sẽ tiêu thụ 70x (GH), trong đó
40x (GJ) được sản xuất trong nước và 30x (JH) được nhập khẩu từ quốc gia
1. quốc gia 2 cũng thu được 30 USD (JMNH) thuế nhập khẩu.
Trong trường hợp quốc gia 2 và quốc gia 3 thành lập liên minh thuế
quan và xoá bỏ thuế nhập khẩu đối với sản phẩm x. Khi đó, quốc gia 2 sẽ
nhập khẩu x với giá rẻ hơn giá nhập khẩu từ quốc gia 3 (Px = 1,5 USD), tại

mức giá này quốc gia 2 tiêu thụ 80x (G’B’), trong đó 30x (G’C’) được sản

24


xuất trong nước và 50x (C’B’) được nhập khẩu từ quốc gia 3. Trong trường
hợp này quốc gia 2 sẽ không thu được thuế nhập khẩu. Việc nhập khẩu sản
phẩm x vào quốc gia 2 được chuyển từ các nhà sản xuất có hiều quả hơn ở
quốc gia 1 sang các nhà sản xuất kém hiệu quả hơn ở quốc gia 3 vì bây giờ
thuế quan có sự phân biệt giữa các nước trong liên minh và ngoài liên minh
thuế quan.
Sau khi thành lập liên minh thuế quan, mức nhập khẩu sản phẩm x
của quốc gia 2 tăng từ 30x lên 50x. Điều đó có nghĩa là liên minh thuế
quan vừa có tác động chuyển hướng mậu dịch, vừa có tác động tạo lập mậu
dịch.
Xét một cách tổng thể thì kết quả của một liên minh thuế quan
chuyển hướng mậu dịch đem lại là:
Thứ nhất, đối với quốc gia 2, phúc lợi đạt được từ việc tạo lập mậu
dịch thuần tuý thể hiện ở tam giác C’J’J và B’H’H. Tam giác C’J’J đạt giá
trị 2,5 USD và tam giác B’H’H cũng đạt 2,5 USD, tổng của chúng là 5
USD, thể hiện lợi ích thực sự của người tiêu dùng ở quốc gia 2 đạt được do
có liên minh thuế quan mang lại. Mặt khác, liên minh thuế quan gây ra
chuyển hướng mậu dịch với các tác động khác nữa. Hình chữ nhật MNHJ
biểu thị thuế nhập khẩu cảu quốc gia 2 trước khi thành lập liên minh thuế
quan nay không cịn nữa, trong đó phần JJ’H’H được chuyển cho người
tiêu dùng do họ khơng phải đóng thuế nữa, nhưng phần MNH’J’ lại là phúc
lợi mất đi do chuyển hướng mậu dịch từ việc nhập khẩu ở quốc gia 1 có giá
thấp sang quốc gia 3 có giá cao. Tỷ giác G’GJC’ thẻ hiện thặng dư của
người sản xuất ở quốc gia 2 bị di chuyển sang cho người tiêu dùng. Khi
hình chữ nhật MNH’J’ biểu thị trị giá 15 USD là phúc lợi bị mất đi từ việc

chuyển hướng mậu dịch lớn hơn tổng hai tam giác C’J’J (2,5 USD) và tam
giác B’H’H (2,5 USD) thì điều đó có nghĩa là liên minh thuế quan này đã
mất đi 10 USD phúc lợi thực sự của quốc gia 2.

25


×