Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Kiến thức lớp 10 "Phú sông Bạch Đằng" - Trương Hán Siêu – những kiến thức cần nắm pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 19 trang )

Kiến thức lớp 10
"Phú sông Bạch Đằng" - Trương Hán
Siêu –phần5
1. Thể loại

Phú là một thể văn có xuất xứ từ Trung Quốc, thịnh hành vào thời
Hán. Phú dùng lối văn có nhịp điệu nhằm miêu tả, trình bày sự
vật để biểu hiện tư tưởng tình cảm của tác giả. Phú có bốn loại
chính: Cổ phú, Bài phú, Luật phú và Văn phú.

2. Tác giả

Trương Hán Siêu (? – 1354), tự là Thăng Phủ, người xã Phúc
Thành, huyện Yên Ninh, nay là thị xã Ninh Bình, từng làm môn
khách trong nhà Trần Hưng Đạo. Làm quan từ triều Trần Anh
Tông đến triều Trần Dụ Tông. Trương Hán Siêu tính tình cương
trực, học vấn uyên thâm, sinh thời được các vua Trần tin cậy,
nhân dân kính trọng. Ông sống vào thời kì nhà Trần đã suy yếu,
mải mê với chiến thắng của cha ông, các vua Trần đã quên trách
nhiệm và mải ăn chơi hưởng thụ, quên việc chấn hưng đất nước.
Đây là một trong những nguyên nhân xã hội dẫn đến tâm trạng
nuối tiếc quá khứ trong thơ Trương Hán Siêu.

3. Tác phẩm

Bài Phú sông Bạch Đằng chưa rõ được viết năm nào, có thể vào
khoảng 50 năm sau cuộc kháng Nguyên thắng lợi. Bài phú viết
về sôngchiến chống giặc Mông Bạch Đằng, một con sông ghi
dấu nhiều chiến công hiển hách trong sự nghiệp chống giặc ngoại
xâm của dân tộc ta, từ thời Ngô Quyền đánh thắng quân Nam
Hán Nguyên, đều là những đạo quân xâm lượcđến nhà Trần


chiến thắng Mông hùng mạnh của phương Bắc.
Bài phú được viết theo lối phú cổ thể, có vần nhưng câu văn
tương đối tự do, không bị gò bó vào niêm luật. Bài phú là cảm
xúc hoài niệm của tác giả về những chiến thắng lẫy lừng của
quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng vào thời điểm nhà Trần
đang suy thoái. Tác phẩm vừa chứa chan niềm tự hào, vừa đọng
nỗi đau, vừa thể hiện triết lí về sự đổi thay, biến thiên và xoay vần
của tạo hoá.

4.Đọc hiểu

Bạch Đằng, dòng sông ghi dấu bao chiến công hiển hách của dân
tộc trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Đó là nơi hội tụ sức
mạnh, chiến công và niềm tự hào dân tộc. Bạch Đằng giang còn
là nơi hội tụ những chiến tích thơ ca. Có thể nhắc đến Trần Minh
Tông với Bạch Đằng giang, Nguyễn Trãi với Bạch Đằng hải
khẩu… và Trương Hán Siêu với tác phẩm nổi tiếng Phú sông
Bạch Đằng (Bạch Đằng giang phú).

Bài phú của Trương Hán Siêu làm theo lối phú cổ thể có vần
không có đối, âm luật khá tự do, linh hoạt. Cả bài là một thiên
đoản trường ca vừa tự hào, nhớ tiếc, vừa suy nghĩ trầm lắng, sâu
xa.

Bài phú có hai phần : phần độc thoại với khách và phần đối thoại
giữa khách với các bô lão bên sông. Kết cấu bài phú hình thành
hai tuyến nhân vật. Nhân vật khách, cũng là sự phân thân của tác
giả và nhân vật tập thể : các bô lão địa phương. Xuất hiện với tư
cách là đối tượng tâm tình, nhân vật các bô lão có thể là thực đó
là những người tác giả gặp trên đường thoả chí tiêu dao, thậm

chí, họ có thể là những người trước đây đã làm nên chiến công
trên dòng sông lịch sử ấy, song cũng có thể họ chỉ là những nhân
vật hư cấu. Hư cấu nhân vật, hư cấu ra cuộc đối thoại là cách để
tác giả gián tiếp bày tỏ những suy ngẫm của mình về đất nước,
về nhân dân, về dòng sông lịch sử.

con người ung dung, tự tại, đam mê say đắm cảnh sắc thiên
nhiên :Mở đầu bài phú là lời giới thiệu nhân vật khách

Khách có kẻ :
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.

Không chỉ dạo chơi để thưởng ngoạn vẻ đẹp của non sông đất
nước, khách còn là người mà "tráng chí bốn phương" lúc nào
cũng "vẫn còn tha thiết". Con người của những hoài bão lớn :

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Đoạn đầu này sử dụng triệt để thủ pháp tượng trưng. Cái "tráng
chí bốn phương" của khách được dựng nên bằng những địa
danh. Có loại địa danh gợi ra thời gian quá khứ xa xăm :

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,

Những địa danh này đều là những điển cố được khách thăm thú
chủ yếu qua sách vở Trung Hoa. Nhưng cũng có những địa danh

hiện hữu gần gũi mà tác giả đã trực tiếp đặt chân : cửa Đại Than,
bến Đông Triều. Thời gian đằng đẵng, xa xăm ; không gian rộng
lớn, kì vĩ đủ nói lên cái chí khí lớn lao, khoáng đạt và sự thảnh
thơi của nhân vật trữ tình.

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều, thuyền của khách đến
cửa Bạch Đằng. Cảnh thiên nhiên trước mắt hiện ra thật hùng vĩ :

Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Song thời gian gợi buồn (ba thu : tháng cuối mùa thu) nên cảnh
có nét ảm đạm, buồn hiu hắt :

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.

Trở lại chiến trường xưa, nơi ghi dấu bao chiến công hiển hách,
cảnh dù vẫn hùng vĩ và khoáng đạt nhưng cũng có những nét
lạnh lẽo, hoang vu. Khách động lòng hoài cổ :

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
….
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu !

Thời gian vô tình và nghiệt ngã đang làm mờ đi những dấu son
lịch sử. Cảnh tĩnh lặng, lòng người ngưng đọng, trầm lắng, suy
tư. Đang buồn đau, nhớ tiếc, sự xuất hiện của các bô lão làm
khách tan biến những băn khoăn. Khách trở về cùng thực tại. Thế
là trận thuỷ chiến năm xưa được các bô lão kể lại cho khách

nghe một cách hào hứng.

Sau lời kể ngắn gọn về trận "Ngô chúa phá Hoằng Thao", các bô
lão kể ngay đến chiến công : buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô
Mã. Dù đã qua 50 năm nhưng trận chiến dường như vẫn còn
nóng hổi. Dù được kể lại nhưng trận chiến vẫn bừng bừng âm
hưởng quyết liệt, gay go. Từ lúc xuất quân đầy khí thế :

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
cũng là lúc giặc :
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi !
đến lúc :
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Lời văn đột nhiên thay đổi, câu ngắn, nhịp nhanh, hình tượng kì
vĩ, ý đối nhau rất chỉnh gợi tưởng tượng trận chiến ác liệt giữa
chính nghĩa với gian tà như đang diễn ra ngay trước mắt. Thế
nhưng :

Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối !

Quân giặc đại bại tử vong. Chiến thắng thuộc về chính nghĩa. Nỗi
nhục của giặc trở thành vết nhơ đến mãi muôn đời :

Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi !


Giọng điệu tiếp theo lại chậm, đều, ý trầm lắng, suy tư. Bao nhiêu
năm sau chiến thắng, các bô lão tự cắt nghĩa nguyên nhân thắng
lợi của dân tộc mình. Ta thắng bởi ta có lịch sử lâu đời, trời đất
lại cho nơi hiểm trở. Nhưng còn một điều quan trọng : không đời
nào dân tộc ta lại thiếu những anh tài :

Quả là : Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ : Nhân tài giữ cuộc điện an.
Bởi vậy mà :
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tác giả gợi hình ảnh oai hùng của tướng quân Trần Hưng Đạo
với câu nói nổi tiếng còn lưu sử sách : "Năm nay, thế giặc nhàn".
Câu nói thể hiện khí phách và bản lĩnh của vị tướng mà trong tay
nắm chắc sự linh diệu của nghệ thuật cầm quân.

Vậy là, theo quan niệm của người xưa, chúng ta đã hội đủ ba
nhân tố để mà chiến thắng : thiên thời (trời cũng chiều người), địa
lợi (nơi hiểm trở), nhân hoà (nhân tài giữ cuộc điện an). Mảnh đất
có đủ địa linh, nhân kiệt thì kẻ thù xâm lược phải chuốc lấy bại
vong cũng là tất yếu.

Cuối bài phú là hai lời ca. Lời ca của các bô lão vừa là lời tổng
kết, vừa đúc kết chân lí vĩnh cửu ngàn đời : chính nghĩa luôn luôn
thắng gian tà. Những kẻ bất nghĩa sẽ bị tiêu vong, chỉ có anh
hùng, ngàn thu vẫn lưu danh thiên cổ :

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Tiếp nối là lời ca của khách, ngợi ca sự anh minh của hai vị thánh
quân, đồng thời một lần nữa khẳng định vai trò của nhân tố con
người :

Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Bài phú kết thúc trong niềm tự hào dân tộc, kết thúc bằng lời ngợi
ca lí tưởng nhân nghĩa và tư tưởng nhân văn, những truyền
thống đạo lí cao đẹp của dân tộc Việt Nam.

Thơ ca trung đại xuyên suốt hai dòng cảm hứng : yêu nước và
nhân đạo. Bạch Đằng giang phú là tác phẩm tiêu biểu cho cảm
hứng yêu nước của văn học giai Trần. Bài phú giản dị mà cuốn
hút, sinh động. Tác giả đã kếtđoạn Lí hợp hài hoà nhiều giọng
điệu : khi sảng khoái hào hùng, khi trầm lắng, suy tư hay khi tha
thiết tự hào. Bạch Đằng giang phú thực sự xứng đáng là đỉnh cao
nghệ thuật của thể phú trong lịch sử văn học Việt Nam.

* Liên hệ:

1. Xưa kia, các nhân sĩ ta có làm thơ phú để tả cảnh, cũng
chính là để ngụ ý, ngụ tình. Quan niệm "thi dĩ ngôn chí" (thơ để
nói cái chí của mình) là như vậy. Trương Hán Siêu viết bài phú
này để tả cảnh sông Bạch Đằng với tất cả vẻ hùng tráng của nó,
chính là khắc hoạ tinh thần ngoan cường, bất khuất của dân tộc
ta đối với việc bảo vệ nền độc lập tự do của mình. Ý nghĩa toát
lên từ bài phú là ý nghĩa về bài học truyền thống tốt đẹp của nhân

dân ta về việc bảo vệ Tổ quốc từ đời này sang đời khác

Kết cấu một bài phú cũng chặt chẽ như kết cấu một bài thơ, vì
phú cũng là một thể văn vần, bắt nguồn từ thơ cổ( ). Hình thức
phú xuất hiện khá sớm từ thời Chiến quốc (ở Trung Hoa), mà các
tác giả nổi tiếng bấy giờ như Tuân Khanh, Tống Ngọc. Đây là một
thể văn xuôi, thường có vần có điệu, mà âm luật chưa chặt chẽ
như ở phú đời Đường về sau( ). Thể phú đó gọi là phú Tống
Ngọc chịu ảnh hưởng Sở từ nhiều, thường dùng từ "hề" làm từ
đệm trong câu, mà ta dịch là "chừ". Bài phú của Trương Hán Siêu
này theo thể phú có pha Sở từ này, tức phú cổ thời Tống Ngọc,
cũng gọi là phú lưu thuỷ. Tuân Khanh và Tống Ngọc có thể là
những nhân sĩ đầu tiên sử dụng hình thức phú dưới dạng đối
thoại giữa hai, hoặc ba nhân vật. Thí dụ nhân vật A đi chơi gặp
nhân vật B, hai bên đối thoại, rồi đi đến nhận định có yếu tố hợp
đề, dù có khi khác nhau về khía cạnh, hoặc nhân vật A và nhân
vật B đang đối thoại với nhau, nhân vật C xuất hiện bác ý kiến
của A và B, để rồi cuối cùng đưa ra một nhận định hợp đề về đạo
lí ở đời. Bài Bạch Đằng giang phú này theo hình thức đầu, tức
hình thức A và B đối thoại, rồi nhất trí bổ sung ý kiến cho nhau
bằng mấy lời ca kết thúc : nhân vật trong bài phú chỉ là nhân vật
trữ tình, có tính chất hư cấu mà thôi, thật ra đó là "phản thân" của
chính tác giả, là hình bóng của tác giả, thí dụ nhân vật Đăng Đồ
tử trong bài Phú Đăng Đồ tử hiếu sắc của Tống Ngọc, chính là
mặt trái của Tống Ngọc về tính hiếu sắc. Bài phú kể lại việc Đăng
Đồ tử phê bình Tống Ngọc hiếu sắc trước mặt Sở vương, thế là
Tống Ngọc hùng biện vừa bảo vệ cho mình, vừa phê phán chính
Đăng Đồ tử mới là người hiếu sắc, hai người đang đối thoại, thì
người thứ ba là một đại phu nước Tần xuất hiện cùng tranh luận,
rồi hoà giải bằng cách cho rằng yêu đương mà đúng lễ nghĩa thì

cũng chấp nhận được.

Trong bài phú của Trương Hán Siêu nói đây, các bô lão là nhân
vật thứ hai dưới dạng tập thể, có ý nghĩa dân gian, và cũng có
thể có thật, trong chừng mực tác giả gặp gỡ người địa phương
ven sông Bạch Đằng trên đường vãn cảnh. Tuy nhiên, đứng về
mặt triển khai chủ đề và kết cấu của bài phú, thì tâm tư của các
nhân vật bô lão chính là tâm tư của tác giả, và nhân vật đó là
nhân vật trữ tình của bài phú. Kết cấu bài phú này khá chặt chẽ,
theo đúng quy trình một bài phú mẫu mực với các đoạn mạch của
nó như : đề, thực, luận, kết, và có thể chia làm sáu phần tương
ứng với công thức của phú như sau :

(1) Lung, tức phần phá đề (Khách có kẻ Mà tráng chí bốn
phương vẫn còn tha thiết) : Thú tham quan phong cảnh đất nước
với ý nghĩa tìm hiểu di tích lịch sử như kiểu Tư Mã Thiên đời Hán.

(2) Biện nguyên, tức phần thừa đề (Bèn giữa dòng Đến sông
Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều) : Cuộc ngoạn cảnh trên sông
Bạch Đằng.

(3) Thích thực, tức tả rõ cảnh đi chơi : Cảnh khúc sông Bạch
Đằng mà xưa kia đã xảy ra những trận chiến đấu ác liệt giữa ta
và địch, và ta thắng lợi huy hoàng, thì khi tác giả bơi thuyền đến,
chỉ có trời nước mênh mông, ngàn lau san sát.

(4) Phu diễn, nghĩa là minh hoạ thêm phần trên, phu nghĩa là
trình bày (Bên sông các bô lão Tái tạo công lao, nghìn xưa ca
ngợi) : Cuộc đối thoại giữa tác giả và các bô lão ven sông về
cuộc thuỷ chiến thời Trần.


(5) Nghị luận, tức ý nghĩ của tác giả (Tuy nhiên : Từ có vũ trụ
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn) : Nguyên nhân thắng
lợi : so sánh địa thế với con người, thì con người là quyết định. Ở
đây, tác giả muốn nhấn mạnh vai trò của Trần Hưng Đạo.

(6) Kết (Đến bên sông chừ hổ mặt Bởi đâu đất hiểm cốt mình
đức cao) : Ý của phần kết nối tiếp ý phần nghị luận ở trên : đạo
đức của người nắm nhiệm vụ lãnh đạo quốc gia là quan trọng :
tác giả nhằm ca ngợi Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân
Tông, hai vị thánh quân, và thông qua việc này, ý muốn nói : bài
học về đoàn kết toàn dân để bảo vệ Tổ quốc là một bài học quý
báu, vì muốn đoàn kết được toàn dân, thì người ở cương vị lãnh
đạo quốc gia phải có đạo đức cao cả.


Kết cấu một bài phú phải chặt chẽ. Có những nhóm từ, liên từ
hoặc trạng từ đặt đầu câu, hoặc đầu đoạn mạch có tính chất
nhấn mạnh một ý, hoặc báo hiệu chuyển sang một ý khác, làm
cho câu văn thêm đậm đà, ý nhị với tất cả đặc trưng tu từ của nó,
thí dụ : mở đầu có những từ : Khách có kẻ (nguyên văn : Khách
hữu), hay đoạn bô lão bắt đầu kể lại trận đánh, thì mở đầu bằng
mấy từ : Đương khi ấy (nguyên văn : Đương kỳ), hoặc như đoạn
tác giả nói về nguyên nhân thắng lợi của ta, với mấy từ mở đầu :
Tuy nhiên (nguyên văn : Tuy nhiên) để so sánh "đất hiểm" với
"nhân tài".
Nếu chúng ta so sánh lôgíc kết cấu một bài phú cổ như bài Bạch
Đằng giang phú nói trên, với lôgíc bố cục thông thường một bài tả
cảnh hiện nay với đề tài tương tự, thì hai phần lung và biện
nguyên tương ứng với phần mở đầu, ba phần tiếp : thích thực,

phu diễn, nghị luận tương ứng với phần chính của bài, và phần
kết tương ứng với phần tổng luận của bài.


Từ trận thắng đầu tiên nổi tiếng của Ngô Quyền năm 938 đến
nay, dòng sông Bạch Đằng tuy đã đổi thay nhiều chỗ, nhưng hình
ảnh những trận thuỷ chiến oanh liệt trên sông Bạch Đằng vẫn in
sâu trong tâm trí của nhân dân ta từ đời này qua đời khác. Và
nhớ đến sông Bạch Đằng là nhớ đến thơ văn ca ngợi sông Bạch
Đằng, ca ngợi những trận thuỷ chiến, nhất là trận thuỷ chiến đời
Trần.

Trong số thơ văn đó, bài phú của Trương Hán Siêu, bài phú thứ
nhất về sông Bạch Đằng, nổi lên như một áng văn hay "không
tiền khoáng hậu" ? Đây là một bài phú cổ thể, có pha đối thoại và
liên ngâm, nên rất sinh động. Tất nhiên, với những hạn chế của
nhân sinh quan cũ thời bấy giờ, Trương Hán Siêu mới giới thiệu
sơ qua lời nói của các bô lão ven sông, và hình ảnh bô lão cũng
còn mờ nhạt ; Trương Hán Siêu chưa thể có điều kiện để thấy
hết vai trò quan trọng của quần chúng, cho nên khi nói đến nhân
tố con người, tác giả chỉ nhấn mạnh các bậc anh hùng hào kiệt,
mà chưa nhấn mạnh đến lực lượng quần chúng, hoặc mới chỉ
nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của vua mà chưa nhấn mạnh sức hậu
thuẫn vĩ đại của quần chúng. Tuy nhiên, mặt hạn chế tất yếu đó
của lịch sử vẫn không làm giảm giá trị to lớn của bài phú mẫu
mực này, một bài phú đậm đà tính chất trữ tình, mà lại pha màu
sắc anh hùng ca ; nó đã khắc hoạ một cảnh trí mỹ lệ của Tổ quốc
với tất cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời
trước, đồng thời gợi lên cho chúng ta, những con em đất Việt
ngày nay, trong thế hệ Hồ Chí Minh, một bài học sâu sắc về sự

quyết tâm bảo vệ bằng bất cứ giá nào cho trọn vẹn "non sông
gấm vóc" mà tổ tiên đã để lại cho mình.

×