Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Kiến thức lớp 10 Truyện Kiều - Nguyễn Du-phân tích nỗi thương mình ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.25 KB, 8 trang )

Kiến thức lớp 10
Truyện Kiều - Nguyễn Du-phần 2
Phân tích đoạn Nỗi Thương Mình (trích Truyện Kiều) của
nguyễn Du

Thử thách lớn nhất và cũng là bi đát nhất của Thúy Kiều chính là
hoàn cảnh mà nàng đã bị đẩy vào: làm kĩ nữ chốn lầu xanh. Nói
gì đến giữ gìn trinh tiết với Kim Trọng, trong hoàn cảnh ấy, ngay
cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm
thế nào để giữ cho khỏi bị mai một được? Làm thế nào để viết về
thực tế ấy – thực tế của cái cảnh “sống làm vợ khắp người ta” mà
vẫn thể hiện được nhân cách của nhân vật, vẫn bộc lộ được thái
độ trân trọng, sự cảm thông, vẫn nói lên được sự đau khổ,
thương thân phận mình của nhân vật? Tài năng nghệ thuật độc
đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ
của Nguyễn Du đã thể hiện trọn vẹn trong đoạn trích “Nỗi thương
mình”.

“Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên
lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15
năm ấy,Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa
đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu
xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang
một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà,Kiều rút dao định tự tử
nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở
Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên:“Thân
lươn bao quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”.
Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai
trò kĩ nữ -gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của


mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi
lại tâm trạng của Kiều trong thời gian ấy.

Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của
Thanh Tâm tài nhân thì trọng tâm của đoạn này: một mặt là bài
ca kể về thân phận Thúy Kiều từ khi gia biến đến khi bị Sở Khanh
lừa và phải đồng ý tiếp khách,mặt khác tập trung vào lời dạy của
Tú Bà về nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du, cách xử lí nghệ thuật đã
có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ của cách xử lí nghệ thuật độc
đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ của
nhà thơ.

Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những
nỗi lòng tê tái”. Trong sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” chỉ
vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả nỗi tê tái của Kiều nhưng
quan trọng hơn là đoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn
sâu sắc và tiến bộ: ý thức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều
– ý thức thương thân, xót thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn
học trung đại Việt Nam.

Có một bài toán “nan giải” đặt ra với Nguyễn Du: tác giả muốn tố
cáo một cách sâu sắc nơi đã vùi dập Kiều, những thân phận như
Kiều. Đó cũng là một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến mà
Kiều đang sống với tất cả sự nhơ nhớp, mục ruỗng của nó. Cái
khó là: nói về cảnh lầu xanh nhưng làm sao cho sự miêu tả hiện
thực đó không gây ra phản cảm với độc giả, không hạ thấp nhân
vật, thể hiện được nhân cách, phẩm giá của nhân vật trong sự
cảm thông của nhà thơ. Nguyễn Du đã thành công với những xử
lí nghệ thuật độc đáo của mình.


Đoạn trích có một kết cấu lôgíc với diễn biến tâm trạng: đoạn đầu
giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều, “khi tỉnh rượu… nào biết có
xuân là gì” đi sâu vào tâm tình, nỗi niềm của Kiều trong cảnh
sống ấy, và đoạn cuối tả cảnh để cực tả tâm trạng cô đơn, ý thức
về thân phận, phẩm giá của Kiều.

Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là cả một hiện thực tàn nhẫn mà
Kiều phải chịu đựng: chốn lầu xanh với những đặc trưng của nó:
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.

Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng nhuần nhuyễn đến
mức trở thành một công cụ nghệ thuật đắc lực. Bởi vì trên thực
tế, nếu phải gọi sự thật bằng đúng cái tên của nó thì Kiều trong
đoạn trích này là một cô gái lầu xanh. Một loạt từ ngữ dẫu là ước
lệ vẫn đủ để thông báo về tình cảnh và thân phận của Kiều – mặc
dù bốn câu đầu này, nhân vật không hề được miêu tả trực tiếp:
“bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các
điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc,Trường Khanh”
– chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu. Nguyễn Du đã
tìm được một góc nhìn và cách xử lí nghệ thuật đặc biệt: viết về
cảnh lầu xanh nhưng lại dùng những từ và hình ảnh rất nhã.
Cách xử lí nghệ thuật này giúp tác giả vượt qua một vấn đề nan
giải, một mặt vẫn tả thực, không né tránh hiện thực và cảnh sống
thực tế của nhân vật chính, mặt khác vẫn giữ được chân dung
cao đẹp của nhân vật chính Thúy Kiều, qua đó thể hiện thái độ
cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho nhân vật. Thái độ này
là nhất quán trong tác phẩm.


Quan sát kĩ hơn những chi tiết nghệ thuật mà Nguyễn Du cố ý
bày ra sẽ nhận thấy sự mâu thuẫn ẩn chứa bên trong cảnh
tượng. Những từ “đầy tháng, suốt đêm” là những từ chỉ số nhiều,
cho thấy sự nhộn nhịp của lầu xanh, nơi mà Tú Bà “ăn nên làm
ra”, lầu xanh như một chốn đang vào dịp “được mùa”, “đắt
khách”. Cái xấu như đang ra sức bòn rút tất cả những giá trị của
con người. Lầu xanh trở thành nơi chôn vùi không biết bao nhiêu
số phận như Kiều. Cảnh lầu xanh thực chất cũng là một phần của
bức tranh XHPK Trung Quốc thời Minh – Thanh thu nhỏ, cả thời
đại mà Nguyễn Du sống, cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Xã hội ấy
cũng đã được nói đến qua những tác phẩm cùng thời: Phủ Chúa
Trịnh, Hoàng Lê nhất thống chí, Cung oán ngâm…

Phép đối xứng kết hợp với nghệ thuật tách từ, đảo từ là một sáng
tạo của Nguyễn Du. Đối xứng nhỏ nhất được thiết lập bằng cách
tách hai từ ghép để tạo thành một cụm từ mới, có tác dụng tăng
thêm, cụ thể hóa hơn nét nghĩa: tại lầu xanh, bọn khách làng chơi
ra vào dập dìu, nhộn nhịp.Tiếp theo là đối xứng trong từng câu
thơ: Cuộc say đầy tháng/ trận cườisuốt đêm; Sớm đưa Tống
Ngọc/ tối tìm Trường Khanh… kết hợp với những từ chỉ số nhiều:
đầy tháng, suốt đêm diễn tả cái xô bồ, gấp gáp của một cuộc
sống ăn chơi, nhốn nháo, dung tục. Thường thì người ta dùng từ
“trận” để nói về trận đánh, trận mắng chửi chứ không ai nói là
“trận cười”. Bản thân cách dùng từ này đã đủ cho thấy nỗi ê chề,
sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng.

Nguyễn Du đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những
sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên
là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ

đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy
Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh
sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật
phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ.Nguyễn
Du đã “bọc lụa” cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ
rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích
làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao
nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân
thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật
được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân
vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân
trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh
có nhiều người đàn bà, có thể họ an tâm, yên phận và cam chịu
với nghề nghiệp để kiếm sống, trớ trêu thay Kiều lại là một nhân
phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ
cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào
bùn nhơ, giữa cái xót

×