Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đổi mới tổ chức quản lý dạy và học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.97 KB, 30 trang )

ĐE TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HOC
ĐỔI MỚI TỎ CHƯC QUAN LÝ DẠY VÀ HOC Ở KHOA XÃ HỘI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM THAI NGUYÊN (2004 -2005)
TAC GIẢ: TRẦN VĂN TAC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đảng và Nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ nặng nề và vinh quang
của ngành giáo dục: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là một trong những động cơ quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người.
Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân trong đó nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt có vai trò quan trọng” (Chỉ thị 40
của Ban Bí thư- về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục). Để đào tạo nguồn nhân lực mới cho đất nước:
vừa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vừa có đạo đức tốt, vừa trung thành
với Tổ quốc thì ngành giáo dục nói chung, trường sư phạm nói riêng có
một vị trí then chốt. Nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho ngành sư
phạm là đổi mới chương trình và giáo trình, đặc biệt đổi mới phương pháp
dạy học. Do đó, đổi mới phương pháp dạy và học ở trường sư phạm là một
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, đáp ứng đòi hỏi của thực tế giáo dục ở địa
phương và xã hội. Chỉ thị 15 của Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu: “ Đổi
mới phương pháp dạy và học trong trường sư phạm nhằm tích cực hoá
hoạt động học tập, phát huy tính chủ động, sáng tạo và năng lực tự học, tự
nghiên cứu của học sinh sinh viên. Nhà giáo giữ vai trò chủ động trong
việc tổ chức điều khiển, định hướng quá trình dạy học và người học giữ
vai trò chủ động trong quá trình học tập và tham gia nghiên cứu khoa
học… Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập là nhiệm quan trọng
3
của từng trường (khoa) sư phạm, trong đó đi đầu là các giảng viên các bộ
môn phương pháp dạy học”. Do vậy, ngay trong kế hoạch hoạt động của
nhà trường, Hiệu trưởng trường CĐSP Thái Nguyên đã xác định đổi mới


nội dung và phương pháp giáo dục là nhiệm vụ cấp bách: “Tất cả cán bộ
giảng viên và học sinh sinh viên phải chuyển đổi nhận thức, thấy được ý
nghĩa, vai trò và tính cấp thiết của đổi mới phương pháp và xác định: đổi
mới là quá trình thường xuyên, liên tục và lâu dài, đổi mới phương pháp
đã đi vào nghị quyết của Đảng bộ và các chi bộ trong trường sư phạm”
(Trích báo cáo ở Hội nghị cán bộ và giảng viên – năm học 2004 - 2005).
Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, đây là yêu cầu bức xúc
của ngành giáo dục nói chung cũng như của bản thân trường sư phạm nói
riêng. Đổi mới phương pháp thực sự là yêu cầu của cuộc cách mạng học
tập diễn ra mọi nơi mọi lúc trên toàn cầu. Sự đổi mới của sự nghiệp giáo
dục không còn là lời kêu gọi chung chung mang tính hình thức mà đòi hỏi
chuyển biến thực sự sâu sắc từ nhận thức đến hành động, từ các cấp quản
lí giáo dục đến các giảng viên đứng lớp, đến từng bản thân học sinh sinh
viên. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học văn trước hết phải đổi mới
tư duy của thầy và trò. Thầy vận dụng sáng tạo nhiều phương pháp mới
chuyển từ học tập thụ động của trò sang chủ động; từ ghi nhớ máy móc
sang rèn luyện tư duy độc lập. Vai trò của thầy giáo là hướng dẫn, tổ chức
cho sinh viên biết cách tự học, tự đọc, tự nghiên cứu, đặc biệt giúp họ biết
tự học suốt đời. Xuất phát từ lý do khách quan và chủ quan trên, tôi mạnh
dạn lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp quản lí nhằm thực hiện đổi mới
phương pháp dạy và học văn ở khoa Xã hội - Trường Cao đẳng sư phạm
Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay”
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
4
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề tài đề ra những giải
pháp khả thi góp phần đổi mới quá trình dạy và học văn ở khoa Xã hội,
trường CĐSP tỉnh Thái Nguyên. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục của nhà trường, đáp ứng yêu cầu của ngành giáo dục tỉnh Thái
Nguyên.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Xác định cơ sở lý luận và pháp lý của công tác đổi mới phương
pháp dạy và học văn ở khoa Xã hội, trường CĐSP Thái
Nguyên.
3.2. Đánh giá thực trạng dạy - học và công tác quản lý dạy và học
văn ở khoa Xã hội, trường CĐSP Thái Nguyên.
3.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý dạy và học văn ở khoa Xã
hội, trường CĐSP Thái Nguyên.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý quá trình dạy và học văn
ở khoa Xã hội - Trường CĐSP Thái Nguyên.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn (phỏng vấn, điều tra,
khảo sát thực nghiệm và tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo
dục).
5.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ (Thống kê, bảng biểu, sơ đồ).
5
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC VĂN Ở
KHOA XÃ HỘI, TRƯỜNG CĐSP THÁI NGUYÊN.
1.1.Cơ sở lý luận.
1.1.1.Quản lý và bản chất của quản lý giáo dục
1.1.1.1. Quan niệm về quản lý:
- Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người
quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt như
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Bằng một hệ thống luật lệ, các chính
sách, các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng.

- Như vậy quản lý được quan niệm với nhiều hệ hình khác nhau:
“Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào
hệ thống con người , nhằm đạt các mục tiêu kinh tế, xã hội đã được ấn
định.
Quản lý là sự tác động có ý thức, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đạt tới mục tiêu đề ra.
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong
6
điều kiện biến động của môi trường” (Chuyên đề 1-Đại cương về quản lý
giáo dục- trang1, chương trình dùng cho CBQL, trường ĐH, CĐ . Hà Nội
- 2005)
1.1.1.2.Quản lý giáo dục thực chất là quản lý nhà trường, vấn đề cốt lõi
của quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy - học. Quản lý giáo dục
tức là quá trình cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối
đó thành hiện thực.
Nói tóm lại: “Quản lý giáo dục (và nói riêng quản lý trường học) là quá
trình tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
giáo dục tới các hoạt động giáo dục trong xã hội nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các
tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ
là quá trình dạy học-Giáo dục thế hệ trẻ và đưa hệ giáo dục đạt tới mục
tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” (Chuyên đề 1- Đại cương về
quản lý giáo dục, trang 3-chương trình dùng cho CBQL trường ĐH, CĐ .
Hà Nội - 2005 )
1.1.1.3.Bản chất của quản lý giáo dục.
• Đặc điểm cơ bản của quản lý giáo dục:
- Quản lý bao giờ cũng chia chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý.
- Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin, và đều

có mối liên hệ ngược.
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi.
- Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật.
- Quản lý gắn liền với quyền lợi, lợi ích và danh tiếng.
• Bản chất của quản lý giáo dục:
“Quản lý thực chất là quản lý con người. Con người quyết định tất cả.
Nguyên nhân của mọi sự thành bại đều có nguồn gốc sâu xa từ công tác
7
cán bộ và giải quyết các mối quan hệ giữa những con người với nhau.
Thực chất của quản lý con người là quá trình tổ chức quản lý (điều hành)-
lãnh đạo.
Quản lý gắn liền với thông tin, thông tin là nguyên liệu của quản lý.
Thực chất quản lý là quá trình thu nhập, xử lý, truyền đạt và lưu giữ thông
tin, nên chất lượng và hiệu quả của thông tin quyết định chất lượng hiệu
quả quản lý”. (Sách đã dẫn, trang 5).
1.1.2. Kết quả nghiên cứu tâm lý học sinh sinh viên.
Tâm lý học hiện đại đã đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc tâm lý học sinh
viên, từ đó tìm ra quy luật hình thành nhân cách cũng như tâm lý, đặt cơ
sở cho giáo dục đại học. Tâm lý học hiện đại đã tìm ra chỉ số về cấu trúc
chức năng sinh lý của sinh viên (đạt 9/10 chiều cao và 2/3 trọng lượng của
cơ thể trưởng thành; đặc biệt là 2/3 kiến thức tích luỹ được ở thời gian
này). Về vấn đề này PGS. TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc đã chỉ ra: “Trong thời
kỳ này, sự phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng cao năng lực trí
tuệ, biểu hiện rõ nhất trong việc tư duy sâu sắc và rộng mở, có năng lực
giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ, ngày một khó khăn hơn, cũng như tiến
bộ rõ rệt trong lập luận lô gíc, trong việc lĩnh hội tri thức, trí tưởng tượng,
sự chú ý và ghi nhớ ở lứa tuổi này đã phát triển khả năng hình thành ý
tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập. Một
trong những đặc trưng cơ bản của sự phát triển trí tuệ của thời kỳ chuyển
tiếp là tính nhạy bén cao độ… Những sự phát triển nói trên cùng óc quan

sát tích cực và nghiêm túc sẽ tạo khả năng cho lứa tuổi này biết cách lĩnh
hội một cách tối ưu mà ở đó chính là cơ sở của quá trình học tập” (Nguyễn
Thị Mỹ Lộc- Người học ở đại học và những đặc điểm tâm lý sinh viên )
Tâm lý học hiện đại đã chỉ ra khả năng rung động, khả năng nhạy cảm với
cái đẹp, cái tốt ( kể cả cái xấu ) chính sự nhạy cảm đó làm cơ sở để chúng
8
ta bồi dưỡng những cảm quan nghệ thuật, xây dựng những tình cảm thẩm
mỹ chân chính. Trong xã hội ngày nay học sinh tiếp nhận thông tin không
chỉ từ phía ông thầy mà tiếp nhận một “xa lộ thông tin” khổng lồ được cập
nhật qua mạng. Những câu hỏi lớn đã đặt ra: làm thế nào để xây dựng
được một “xã hội học tập”; tiêu chí đặc trưng của con người trong nền
kinh tế tri thức là gì ? Nhân cách, giá trị của con người trong nền kinh tế
tri thức được toàn cầu hoá ra sao? Nội dung những câu hỏi đó là xây dựng
lý tưởng học tập cho mọi người mọi nhà. “ Muốn học tập có kết quả,
người học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập bằng nỗ lực của
cính mình, nhờ đó mà tâm lý được thay đổi phát triển dần dần, tự hoàn
thiện nhân cách. Trong nhà trường, hoạt động học không diễn ra tự phát
tuỳ tiện mà được điều khiển một cách có ý thức của người dạy” (Sách dẫ
dẫn ở trên)
1.1.3.Thành tựu của lý luận dạy học hiện đại
Lý luận dạy học hiện đại góp phần định hướng mục đích nội dung cũng
như phương pháp dạy học mới. Tại đai hội Đảng 9 đã định ra chiến lược
phát triển giáo dục 2001-2010 là “ mọi người đi học, học thường xuyên
suốt đời, cả nước trở thành một xã hội học tập”. Sinh thời ước muốn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc làm
sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Xây
dựng một xã hội học tập nằm trong tư tưởng Hồ Chí Minh… Đây là yêu
cầu cao đối với quá trình tự học của mỗi người trong một xã hội học tập.
Mặt khác như chúng ta đã biết ngày nay thời đại của sự phát triển khoa
học công nghệ với cấp số nhân; nó đòi hỏi mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ

phải hiểu và thực hiện tốt bản chất của vấn đề xã hội học tập. Học tập
không ngừng để đảm bảo sự tồn vinh của cá nhân mà còn góp phần thúc
đẩy sự tiến nhanh của xã hội. Trong xã hội văn minh, trí tuệ trở thành vốn
9
quý thúc đẩy xã hội phát triển và ngược lại sự kém cỏi trì trệ của trí tuệ
cũng là vật cản.
Trong định hướng đổi mới được thể hiện ở Luật giáo dục Điều 24-2 đã
ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”. Ngoài ra cần nắm được triết lý giáo dục của thế kỷ 21 mà UNESCO
đã xác định mục đích phát triển bền vững dựa trên 4 trụ cột của giáo dục:
+ Học để biết (cốt lõi là hiểu)
+ Học để làm (trên cơ sở hiểu)
+ Học để cùng sống với nhau (trên cơ sở hiểu nhau)
+ Học để làm người (trên cơ sở hiểu bản thân)
Như vậy định hướng cốt lõi của giáo dục hiện nay là phát huy tính tích
cực từ phía học sinh (Tuy nhiên quan niệm ở đây không có nghĩa xem nhẹ
vai trò của thầy giáo trong quá trình giáo dục).
Tích cực đựơc quan tâm vừa là thuộc tính vừa là phẩm chất của mỗi
con người trong xã hội,“Khác với động vật con người không chỉ tiêu thụ
những gì có sẵn trong thiên nhiên mà còn chủ động sản xuất ra những của
cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại phát triền của xã hội, sáng tạo ra nền
văn hoá ở mỗi thời đại, chủ động cải tiến môi trường trong tự nhiên, cải
tạo xã hội” (Trần Bá Hoành- Lý luận cơ bản về dạy và học tích cực-dự án
đổi mới phương pháp dạy học).Tích cực được quan niệm là bản chất của
con người, ngày nay loài người đang dần chuyển sang văn minh trí thức
thì tính tích cực được quan niệm sâu sắc hơn. Tích cực của con người
hướng vào hoạt động nhận thức và thể hiện thành lý tưởng. Tích cực được

khái quát ở các cấp độ- bắt chước, tài liệu, tìm tòi, sáng tạo. Tích cực của
10
con người là hướng tới tính tích cực trong học tập. GS. Trần Bá Hoành
cho rằng: “Tính tích cực trong học tập thực chất là tích cực nhận thức đặc
trưng của khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức”. Ngoài ra GS. còn nhấn mạnh: “Động cơ tạo ra
hứng thú, hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố
tâm lý tạo nên tính tích cực.Tính tích cực sản sinh nền nếp tư duy độc lập,
suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo” (Trần Bá Hoành – Lý luận
cơ bản về dạy và học tích cực- Dự án đổi mới phương pháp dạy học).
Ngày nay, trong giáo dục không chỉ nói đến tính tích cực ở bản thân
người học mà được quan niệm phương pháp tích cực. “Phương pháp tích
cực” là thuật ngữ rút gọn được dùng ở nhiều nước, để chỉ những phương
pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của người học. Tích cực được dùng với nghĩa hoạt động chủ động trái
nghĩa không hoạt động, thụ động (ở đây không dùng trái với nghĩa tiêu
cực).Thầy giáo không chỉ dừng lại ở “truyền mớm” tri thức mà dạy học
sinh con đường tìm đến tri thức, đây chính là dạy cách học cho họ. Như
vậy dạy học tích cực như một tất yếu của lịch sử giáo dục và đào tạo nước
ta nói riêng và xu thế của thế giới nói chung.
1.2. Cơ sở pháp lý
1.2.1. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII của Đảng cộng sản Việt Nam
đã xác định mục tiêu của nền giáo dục và đào tạo nước nhà: “Mục tiêu cơ
bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết tha
gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có
ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hoá đất nước,
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiền năng của dân tộc và con người Việt
11

Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ
tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng
thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có
sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa
“chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”.
Đặc biệt, trong kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá
VIII một lần nữa Đảng ta lại khẳng định mục tiêu của giáo dục và đào tạo:
“Thực hiện giáo dục toàn diện, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo
dục, nhất là trong các trường ĐH - CĐ; đặc biệt chú trọng giáo dục tư
tưởng - chính trị, đạo đức, lối sống, bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu
nước, yêu quê hương gia đình, lý tưởng XHCN, bản lĩnh chính trị, lòng
nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, lối sống văn hoá, tác phong công
nghiệp, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ, lập thân lập nghiệp, không cam
chịu nghèo hèn; đào tạo lớp người lao động năng động sáng tạo, có sức
khoẻ, có kiến thức, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, nhạy cảm với cái mới,
có ý thức vươn lên nắm bắt thành tựu mới về khoa học và công nghệ…
Tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục
theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, sử dụng công nghệ thông tin tiếp cận
với trình độ tiên tiến của khu vực và quốc tế, gắn bó hơn với cuộc sống xã
hội, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và địa phương”.
1.2.2. Luật giáo dục:
Mở đầu Luật giáo dục đã viết: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của toàn dân. Để phát triển sự
nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ
12
quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
(Luật giáo dục. NXB chính trị quốc gia, Hà Nội- 1998)
“Điều 4. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục:

1. Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết
thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công
dân, bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm lý lứa
tuổi của người học.
2. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say
mê học tập và ý chí vươn lên.”
1.2.3. Mục tiêu giáo dục 2001- 2010
“Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp
cận với thế giới và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực
phát triển kinh tế và xã hội, đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng
tụt hậu so với khu vực.
- Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt khoa học
công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh giỏi và công
nhân kỹ thuật lành nghề, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục
phát triển đội ngũ nhà giáo về quy mô, chất lượng, đổi mới quản lý để
phát huy nội lực phát triển giáo dục”(GS. TSKH. Lâm Quang Thiệp. Giáo
dục Việt Nam- vài nét phác hoạ.Tài liệu bồi dưỡng dùng cho các lớp giáo
dục đại học và nghiệp vụ SPĐH)
1.2.4. Phương pháp giáo dục
13
Nghị quyết 2 của Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII
đã chỉ rõ:
- “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy – học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu

cho học sinh nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học,
tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân nhất là thanh niên”.
- “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lòng yêu
nước, chủ nghĩa Mác- Lê nin, đưa việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học. Coi trọng hơn nữa
các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc,
địa lý và văn hoá Việt Nam. Soát xét lại nội dung SGK các môn khoa học
xã hội và nhân văn, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài một cách có chọn
lọc, xây dựng các môn khoa học kinh tế, quản lý, luật pháp phù hợp với
điều kiện nước ta và quan điểm đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước”.
1.2.5. Nhiệm vụ năm học 2004 - 2005 của Trường Cao đẳng sư phạm
Thái Nguyên
Trong báo cáo phương hướng nhiệm vụ năm học 2004 – 2005 của
Trường CĐSP Thái Nguyên có đoạn viết: “Tiếp tục thực hiện đổi mới
chương trình, nội dung đào tạo, phù hợp với chương trình khung của Bộ
GD - ĐT ban hành. Đẩy mạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp đào
tạo ở hệ THSP và hệ CĐSP theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hóa, liên
thông, phù hợp với địa phương, đất nước và hội nhập quốc tế. Nghiêm túc
thực hiện các yêu cầu về thực hành thực tập; kết hợp đào tạo với nghiên
14
cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ thông tin
vào các hoạt động chuyên môn và quản lý nhà trường”.
Chương 2:
THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI DẠY HỌC VĂN
Ở KHOA XÃ HỘI - TRƯỜNG CĐSP THÁI NGUYÊN
2.1. Một số thành tựu
- Khoa Xã hội trường CĐSP Thái Nguyên được tái lập năm 1998,
trong đó nòng cốt là tổ văn. Khoa Xã hội được giao nhiệm vụ đào tạo sinh

viên có trình độ CĐSP các chuyên ngành như: Văn - Sử, Văn - Địa, Văn -
Đội, Văn - Giáo dục (Trong đó văn là môn một, các môn sử, địa, đội, giáo
dục công dân là môn hai). Khoa được biên chế gồm hai tổ chuyên môn;
tổng số giảng viên là 15 đồng chí (Trong đó thạc sỹ: 11; cử nhân: 4)
- Khoa đã bắt nhịp vào quá trình đổi mới của ngành sư phạm nói chung
và ngành ngữ văn nói riêng. Các đồng chí cán bộ của khoa đã được đi dự
hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học văn và tiếng Việt trong các
trường sư phạm tại Đà lạt, tháng 12/2000.
- Tháng 01/2003, trường CĐSP Thái Nguyên đã tổ chức hội thảo liên
trường về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy.
- Tháng 8/2003, khoa đã cử các đồng chí cốt cán đi dự hội thảo đổi mới
phương pháp dạy học do Dự án đào tạo giáo viên THCS tổ chức tại
Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo.
15
- Tháng 12/2003, khoa đã cử các đồng chí cốt cán đi dự hội thảo đổi
mới phương pháp dạy ngữ văn do Dự án đào tạo giáo viên THCS tổ chức
tại Khách sạn La Thành- Hà Nội.
- Liên tục từ năm 2001 đến nay, khoa Xã hội đã thường xuyên tổ chức
hội thảo đổi mới phương pháp dạy văn cho cán bộ giảng viên và hội thảo
đổi mới phương pháp học tập cho sinh viên trong khoa.
- Công tác quản lý quá trình đổi mới phương pháp dạy học được quán
triệt ngay trong Nghị quyết của chi bộ, kế hoạch chuyên môn của khoa,
của các tổ. Công tác này được sự ủng hộ tích cực của đội ngũ giảng viên
và sinh viên trong khoa. Kết quả của quá trình đổi mới phương pháp dạy
học bước đầu làm chuyển biến từ nhận thức đến hành động của giảng viên
và sinh viên. Đổi mới phương pháp dạy học đã được thực hiện thường
xuyên trong các tiết học, các giảng viên luôn quán triệt tư tưởng dạy học
theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, tích cực sử dụng
các phương tiện dạy học hiện đại, gây hứng thú học tập trong sinh viên,
chất lượng giờ dạy được nâng lên. Song song với việc thực hiện đổi mới

phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của sinh viên
cũng được đổi mới. Ngoài việc tổ chức thi bằng phương pháp tự luận,
khoa đã tổ chức thi vấn đáp và trắc nghiệm ở một số môn.
Tóm lại, trong 5 năm qua, hoạt động quản lý giảng dạy và học tập của
khoa Xã hội - Trường CĐSP Thái Nguyên đã đạt được một số thành tích
đáng kể như đã nêu.
2.2. Một số tồn tại trong công tác quản lý quá trình đổi mới phương
pháp dạy học văn ở khoa Xã hội - Trường CĐSP Thái Nguyên
- Như trên đã trình bày, nhà trường đã quan tâm đến chỉ đạo quá trình
đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học, tuy nhiên nhà trường
mới dừng lại ở việc ra những chủ trương mà chưa xây dựng được một biện
16
pháp chỉ đạo cụ thể cho công tác này. Cùng với nhà trường, khoa trực tiếp
quản lý chuyên môn thường chạy theo “mùa vụ”. Các hoạt động hội họp
còn chiếm nhiều thời gian. Đội ngũ cán bộ quản lý của khoa chưa được
kiện toàn, thiếu đồng bộ (Chưa có Phó chủ nhiệm khoa).
- Vấn đề quản lý đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra trong các
chương trình hoạt động của khoa và tổ chuyên môn, nhưng chưa có những
biện pháp hữu hiệu để quản lý. Nhà trường cũng như khoa chưa xây dựng
được cơ chế kiểm tra đánh giá một cách nghiêm túc quá trình thực hiện
đổi mới phương pháp dạy học.
- Trong đội ngũ giảng viên, ngoài một số người tâm huyết đã thực hiện
một cách có hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học, còn không ít
giảng viên khi lên lớp giảng dạy còn nặng về thuyết trình (TT thông báo).
Thậm chí có giờ vẫn còn hiện tượng thầy đọc trò chép, có giờ còn dạy
chay không có đồ dùng dạy học. Do phương pháp giảng dạy chậm đổi mới
của thầy như vậy nên ngoài hậu quả là học sinh không yêu thích môn học,
còn nảy sinh hiện tượng “học gạo học tủ”, sử dụng tài liệu để “quay cóp”
và các hiện tượng gian lận khác. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng trên do công tác quản lý của nhà trường nói chung và khoa tổ nói

riêng, còn thiếu kiên quyết, thiếu đồng bộ, đặc biệt còn thiếu cơ chế chính
sách hợp lý cho công tác này, thiếu kế hoạch kiểm tra đôn đốc. Đấu tranh
với tư tưởng chậm đổi mới phương pháp vẫn còn hiện tượng nể nang (Một
bồ cái lý không bằng một tí cái tình). Mặt khác, trong công tác thi đua vẫn
còn chạy theo thành tích , trong chừng mực nhất định cũng ảnh hưởng đến
các yêu cầu của quá trình đổi mới phương pháp dạy học (Ví dụ như : chỉ
tiêu thi của sinh viên vượt qua vòng một là 75%, chỉ tiêu thi vòng hai là
95%, do đó nó luôn mâu thuẫn với chất lượng học tập thực tế của sinh
viên, từ đó tạo thói quen ỷ lại chây lười của sinh viên).
17
2.3. Một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý quá trình đổi mới
phương pháp dạy - học văn ở khoa Xã hội - Trường CĐSP Thái
Nguyên.
- Xây dựng cơ chế quản lý đồng bộ của Trường, của khoa về công tác
quản lý quá trình đổi mới phương pháp dạy học (có kiểm tra đánh giá, có
chính sách ưu đãi đối với các giảng viên và cán bộ quản lý thực hiện tốt
công tác này).
- Đổi mới tư duy từ cán bộ quản lý chuyên môn đến từng giảng viên
đứng lớp để thực hiện nghiêm túc yêu cầu đổi mới phương pháp giảng
dạy, xem đây là nhiệm vụ sống còn của cá nhân và đơn vị.
- Đổi mới việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện.
- Đổi mới phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học, đầu tư cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại phục vụ giảng dạy.
- Đổi mới phương pháp thi cử và đánh giá chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên do thời gian không cho phép, chúng tôi xin đi vào một số
vấn đề trọng tâm cơ bản sau đây:
- Đổi mới quản lý chuyên môn.
- Chỉ đạo đổi mới quá trình quản lý phương pháp học tập cho sinh
viên.
- Đổi mới quá trình kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên.

18
Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM THỰC HIỆN ĐỔI
MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN Ở KHOA XÃ HỘI –
TRƯỜNG CĐSP THÁI NGUYÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
3.1. Đổi mới quản lý chuyên môn
- Có một thực tế là nội dung, phương pháp giáo dục đã đổi mới
nhưng công tác quản lý chưa đổi mới kịp, vẫn theo kiểu “Bình cũ, rượu
mới”, do vậy trong công tác quản lý gặp nhiều khó khăn và nảy sinh
những bất cập.
- Đổi mới cơ chế quản lý chuyên môn của khoa bao giờ cũng gắn liền
với đổi mới cơ chế quản lý chuyên môn của nhà trường. Quá trình đổi mới
phải được tiến hành đồng bộ từ việc xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo
thực hiện, đến kiểm tra đánh giá.
3.1.1. Đổi mới quản lý chuyên môn ở phạm vi nhà trường:
- Ở trường CĐSP, Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm trước cấp
trên về mọi mặt công tác của nhà trường, trong đó có quá trình đổi mới
phương pháp giảng dạy của giảng viên và phương pháp học tập của sinh
viên. Vì vậy, vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước của Hiệu trưởng vô
cùng lớn. Những quyết định của Hiệu trưởng tác động đến tất cả các đối
tượng quản lý cả hiện tại cũng như tương lai. Tư tưởng, quan điểm đổi
mới phải được đưa vào Nghị quyết của Đảng bộ, chi bộ, kế hoạch của các
19
bộ phận, thường xuyên được đưa vào các hoạt động chuyên môn trong
năm học…
- Để thực hiện tốt chức năng quản lý của mình, Hiệu trưởng có thể
giao cho phòng chức năng , khoa chuyên môn, xây dựng kế hoạch, tổ chức
và chỉ đạo thực hiện, đồng thời có những quyết sách cần thiết để quyết
định quản lý được thực thi.
Tóm lại, ở phạm vi nhà trường, cần xây dựng cơ chế hoạt động hợp

lý, đồng bộ, tránh những chồng chéo dẫn đến “Nhiều sãi không ai đóng
cửa chùa”. Xây dựng cơ chế quản lý bất cứ hoạt động nào cũng có người
chịu trách nhiệm: Phòng đào tạo chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng về
công tác chỉ đạo chuyên môn, các khoa, tổ chuyên môn chịu trách nhiệm
trực tiếp ở các mức độ khác nhau.
3.1.2. Đổi mới quản lý chuyên môn ở khoa , tổ.
- Hàng năm, công tác quản lý của khoa tổ phải thực hiện trên cơ sở
kế hoạch chuyên môn đã được xây dựng phù hợp với đơn vị mình. Các
công việc phải được hoạch định từ đầu năm cùng với những dự toán kinh
phí cho hoạt động đó.
- Thực tế công tác này cần được đổi mới từ khâu tổ chức quản lý,
trước hết cần giảm việc họp hành sự vụ, mà cần tập trung vào sinh hoạt
chuyên môn theo chuyên đề mang tính thiết thực, cập nhật kiến thức và
ứng dụng thực tế.
- Đưa yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học vào nội dung sinh hoạt
chuyên môn thường kỳ. Để làm tốt công tác này cần tổ chức cho giảng
viên đăng ký chuyên đề của cá nhân hoặc nhóm, sau khi nghiên cứu các
chuyên đề được báo cáo trước tổ và khoa và được mọi giảng viên thảo
luận . Làm tốt công tác này chính là kích thích giảng viên đẩy mạnh quá
20
trình tự học, tự bồi dưỡng để “Biết 10 dạy 1”, làm tiền đề để hướng dẫn
cho sinh viên biết cách tự học “Học 1 biết 10”.
- Muốn thực hiện tốt quá trình đổi mới này, nhà trường cần khuyến
khích, động viên và tạo điều kiện để cán bộ giảng viên được nâng cao
trình độ tin học, ngoại ngữ.
- Công tác chỉ đạo cần có lý, có tình. Cần bố trí công việc phù hợp
với sở trường, nguyện vọng, điều kiện của từng cá nhân, động viên kịp
thời, khích lệ giảng viên vượt khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được
phân công, thực hiện được chỉ tiêu của đơn vị. Nội dung của đổi mới
phương pháp giảng dạy có thể đưa vào các chỉ tiêu thi đua của chi bộ

Đảng, công đoàn , đoàn thanh niên . Có thể khen thưởng những cá nhân
làm tốt nhiệm vụ , phê bình những cá nhân thực hiện chưa tốt. Ngoài ra,
cần thành lập ban thanh tra chuyên môn kiểm tra thường kỳ hoặc đột xuất
(có báo trước vài giờ). Nội dung đánh giá giờ dạy nhằm kiểm tra quá trình
đổi mới phương pháp của từng giảng viên, đặc biệt quá trình tổ chức dạy
học và sử dụng đồ dùng dạy học (Đồ dùng dạy học như một phương tiện
chiếm lĩnh tri thức).
Các tiêu chí đánh giá theo chúng tôi cần chú trọng các yêu cầu cơ
bản sau đây:
+ Nội dung bài dạy (Phù hợp với chương trình khung, tính sáng tạo)
+ Phương pháp (Sử dụng PP tích cực thế nào? Có phát huy tính
năng động, sáng tạo của người học )
+ Sử dụng đồ dùng dạy học (Quy trình sử dụng đồ dùng dạy học)
+ Tổ chức tiết dạy (Giảng viên đã đa dạng hoá quá trình tổ chức lớp
dạy hay không?)
+ Kết quả tiết dạy ( Đánh giá qua nhận thức bài học của sinh viên,
có thể kiểm tra qua phỏng vấn, trắc nghiệm ngắn)
21
Ngoài biện pháp đánh giá từ phía giảng dạy của thầy như đã nói ở
trên, theo chúng tôi đánh giá quá trình đổi mới cần toàn diện và khách
quan. Thói quen của chúng ta là thường đánh giá kết quả giảng dạy của
thầy mới chỉ qua nhận xét của đồng nghiệp, mà thiếu thông tin phản hồi từ
phía đối tượng là sinh viên; do vậy trong chừng mực nhất định sự đánh giá
còn thiếu tính toàn diện. Tuy nhiên, những nhận xét của sinh viên cũng
cần được nghiên cứu một cách khách quan, để đảm bảo việc đánh giá
giảng viên được chính xác.
3.1.3. Đổi mới quản lý dạy học văn thông qua các hoạt động ngoại khoá
(Trong và ngoài nhà trường).
Vấn đề trăn trở hiện nay là vẫn còn sinh viên không yêu môn văn,
thậm chí còn có thái độ vô cảm với văn học. Biện pháp hoạt động ngoại

khoá sẽ có tác dụng bổ trợ những kiến thức về văn học cũng như thực tiễn
cho sinh viên, điều đó sẽ góp phần cải thiện vấn đề trên. Hoạt động ngoại
khoá, theo chúng tôi cần được tiến hành dưới những hình thức sau:
* Nghe báo cáo chuyên đề: Chuyên đề được báo cáo cho sinh viên
phải đồng thuận với chương trình học tập. Ngoài ý nghĩa mở rộng sự hiểu
biết cho sinh viên còn đặt nền móng cho hoạt động chuyên đề tiếp theo.
* Diễn xướng văn học (Có thể tổ chức diễn xướng văn học dân gian
hoặc văn học trung đại…). Các hình thức diễn xướng văn học dân gian
như hát ca trù, diễn kịch, hát múa dân gian… Để tổ chức thành công một
buổi diễn xướng văn học đòi hỏi sự đầu tư của người quản lý, phải có sự
gia công nghệ thuật của thày và trò, đặc biệt người thiết kế chương trình
phải có sự am hiểu sâu rộng về mảng văn hoá đó.
* Đưa sinh viên đi học tập ở các địa chỉ văn hoá (Như Làng Quan họ
Bắc Ninh, Văn hoá dân gian Cung đình Huế…). Tại đây sinh viên được
nghiên cứu, học tập văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể, bước đầu thâm
22
nhập văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực. Trở lại nhà trường, sinh viên
được báo cáo thu hoạch cá nhân góp phần bồi dưỡng tình yêu và mở rộng
tầm hiểu biết của họ về văn hoá dân tộc.
3.2. Chỉ đạo đổi mới quá trình quản lý phương pháp học tập của sinh
viên.
3.2.1. Bồi dưỡng cho sinh viên nhận thức về việc học.
Bồi dưỡng cho sinh viên nhận thức đúng đắn về mục đích, nội dung,
động cơ học tập. Phương pháp quản lý học tập của sinh viên cần đổi mới
tránh hình thức gò ép, làm giảm tính chủ động trong hoạt động học tập của
họ; nên sáng tạo tổ chức những sân chơi bổ ích và lý thú (ví dụ tổ chức
các hình thức câu lạc bộ có nội dung hoạt động phong phú). Để đổi mới
công tác quản lý học tập của sinh viên được tốt, đòi hỏi cán bộ quản lý
khoa luôn năng động và sáng tạo. Công đoạn trước tiên là giúp sinh viên
định hướng quy trình học tập của họ . (Tham khảo định hướng học tập

của UNICEF)
Cần làm cho sinh viên hiểu: Học là gì? (Kết quả điều tra sinh viên ở
các nước 1979 -1993).
1/ Học là chiếm lĩnh thông tin càng nhiều càng tốt, càng học nhiều
càng nắm được nhiều thông tin. Học là thu nhập tích luỹ, gia tăng số
lượng kiến thức.
2/ Học là ghi nhớ lặp lại và thuộc lòng. Học là quá trình tích luỹ thông
tin mà ta có thể tái hiện như là những mẩu kiến thức tách biệt nhau.
3/ Học là quá trình chiếm lĩnh, ứng dụng hay sử dụng kiến thức. Học là
nắm bắt sự kiện, kỹ năng hay quy trình có thể lưu trữ vẫn sử dụng khi cần.
Học là tích luỹ thông tin vào bộ nhớ để sử dụng mỗi khi có tình huống đòi
hỏi.
23
4/ Học là quá trình trừu tượng hoá, định hướng, định giá trị; Học là liên
kết cái đang học và cái đã biết và thực tiễn cuộc sống. Học là hiểu sự vật
với nhau, lý giải và kiểm nghiệm giá trị sự vật trong thực tiễn.
5/ Học là tạo ra sự biến đổi về nhận thức để hiểu biết thế giới bằng
cách lý giải và thông hiểu thực tiễn. Học là xác định mô hình thông tin và
liên kết mô hình đó với thông tin từ các tình huống và hoàn cảnh khác
nhau. Hệ quả của việc xác định các mối quan hệ mới chưa được. Thừa
nhận trước đây là người học thay đổi nhận thức của mình.
6/ Học là biến đổi con người, học là thông hiểu thế giới bằng nhiều con
đường khác nhau mà kết quả là làm biến đổi bản thân con người. Học là
quá trình tự tạo ra sự tiến hoá tổng hợp về tri thức, kỹ năng, thái độ và giá
trị của một con người. Đi vào chiều sâu, học có bản chất cốt lõi là tự học.
( Kết luận: 1,2,3: Cách tiếp cận hời hợt, nông cạn, thiên về định
lượng là trình độ sơ đẳng của quá trình nhận thức: ghi nhớ, nhắc lại.
4,5,6: Cách tiếp cận đi vào chiều sâu, bản chất thiên về định tính.
Đó là trình độ cao của quá trình nhận thức như: phân tích, phê phán, tự
học, tự nghiên cứu).

“Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ
thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng
cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên
trong con người mình”
3.2.2. Biện pháp tổ chức hội thảo về phương pháp tự học.
Qua khảo sát và điều tra chúng tôi thấy: nhiều sinh viên chăm chỉ,
cần cù học nhưng kết quả học tập vẫn không cải thiện được. Sinh viên
còn học tập mang tính tự phát, thói quen học thuộc từ phổ thông, bỏ ra rất
nhiều công sức nhưng kết quả rất thấp. Nói một cách khác, nhiều sinh viên
chưa tìm cho mình phương pháp học tập phù hợp, vừa tiết kiệm thời gian,
24
vừa đem lại hiệu quả. Một thực tế cho thấy nhiều giảng viên sư phạm khi
lên lớp thường chú tâm cung cấp tri thức, bỏ qua phương pháp tiếp cận tri
thức đó như thế nào. Từ thực trạng trên cần tổ chức hội thảo “Đổi mới
phương pháp học tập” cho sinh viên. Qua hội thảo, sinh viên xác định
động cơ học tập, hứng thú học tập, và đặc biệt hình thành phương pháp
học tập tích cực. Hình thức hội thảo có thể tổ chức theo hai cách: một là
tiến hành ở từng đơn vị lớp, có sự tham dự của các giáo viên bộ môn; hai
là tiến hành hội thảo ở phạm vi toàn khoa. Nên đặt tiêu đề là: “Diễn đàn
đổi mới phương pháp học tập”. Nội dung hội thảo cần hướng vào những
vấn đề hết sức cụ thể vừa gọn nhẹ vừa thiết thực. Qua thể nghiệm tổ chức
hội thảo về phương pháp học tập cho sinh viên chúng tôi mạnh dạn nêu ra
các vấn đề như sau:
* Về nội dung:
- Phương pháp là gì ? Phương pháp học tập ở cao đẳng đại học có
đặc trưng nào cần quan tâm ?
- Phương pháp học tập tích cực là gì ? Nội dung, tư tưởng mới về
phương pháp học tập tích cực ở CĐSP.
- Phương pháp tự học (từ tích luỹ tài liệu, ghi chép, nghe giảng, ôn
tập, làm đề cương bài học).

- Phương pháp đọc (đọc các chuyên luận, đọc giáo trình, đọc tác
phẩm văn chương, đọc truyện, đọc thơ, cần tích hợp lý luận văn học và
phương pháp học văn).
- Phương pháp đổi mới từng môn học (Văn, Tiếng, Tập làm văn…)
do các thầy giáo bộ môn trình bày các ý tưởng và học sinh tham gia thảo
luận: hỏi đáp.
25
- Chọn sinh viên có kết quả học tập tốt trình bày kinh nghiệm tự
học, những bí quyết để học tốt, hoặc nêu những khó khăn, thách thức cần
sự giải đáp của thầy .
* Về hình thức tổ chức:
Hai hình thức tổ chức: cách thứ nhất là giao đề tài đến từng giảng
viên và từng sinh viên, sau đó tổ chức hội nghị và lần lượt các báo cáo
được thông qua. Hình thức tổ chức này thường gây cảm giác nặng nề,
chưa đi sâu vào nguyện vọng và vướng mắc cần tháo gỡ từ phía sinh viên.
Cách thứ hai là tổ chức “khách mời” đến trao đổi các vấn đề học thuật nhẹ
nhàng, tự nhiên. “Khách mời” có thể là giảng viên và các sinh viên. Đối
với khách mời, ngoài việc trả lời câu hỏi của người dẫn chương trình theo
một kịch bản mềm dẻo, còn trả lời câu hỏi từ người tham dự. Những
phương án trả lời có sức thuyết phục được cộng đồng tán thưởng, phương
án trả lời kém sức thuyết phục được bổ sung kịp thời. Như vậy hội thảo
thực sự sôi động và hấp dẫn trước các ý kiến tranh luận trực tuyến. Việc
tranh luận ở hội thảo giúp sinh viên mạnh dạn tự tin trình bày ý kiến của
riêng mình, tránh áp đặt kiên cưỡng từ phía người dẫn chương trình. Đặc
biệt hội thảo góp phần tháo gỡ những vướng mắc thực sự từ người học,
những trăn trở thực sự từ người học và người dạy. Ở đây, mối tương tác
giữa ham muốn nguyện vọng của người học và sự nỗ lực đáp ứng của
người dạy. Hội thảo chuyên đề này đặt nền móng cho các hình thức học
tập simina ở đơn vị lớp và khối lớp của sinh viên. Qua hội thảo sinh viên
rèn luyện phương pháp trình bày, diễn thuyết trước đông người, khích lệ

quá trình học tập và rèn luyện cho tất cả các sinh viên. Kết thúc hội thảo,
người dẫn chương trình cần tổng kết nhanh, gọn, nhẹ khắc sâu và đặt ra
những vấn đề mới cần được tiếp tục nghiên cứu.
3.2.3. Biện pháp hướng dẫn quá trình học.
26
Đây là biện pháp quan trọng, cán bộ quản lý khoa quán triệt đến
từng giảng viên cần hướng dẫn sinh viên học tập, đặc biệt là phương học
tập của bộ môn mình phụ trách. Trên cơ sở những định hướng chung,
giảng viên cần đề ra những phương pháp học riêng, hướng dẫn sinh viên
nắm được các quy trình tự học, tự đọc, tự nghiên cứu.
* Bước 1: Sinh viên tập làm hồ sơ môn học (Tìm và tích luỹ tài liệu tham
khảo).
* Bước 2: Sinh viên chọn cho mình phương pháp tự học thích hợp.
* Bước 3: Hướng dẫn sinh viên tập nghiên cứu (Đối với sinh viên có kết
quả tốt có thể thay thế môn thi). Yêu cầu cơ bản của quá trình nghiên cứu
là việc chọn đề tài phù hợp với trình độ năng lực của sinh viên. Các bước
nghiên cứu cần tiến hành nghiêm ngặt: làm đề cương tổng quát, đề cương
chi tiết, viết đề tài, và bảo vệ đề tài. Hướng dẫn sinh viên tập nghiên cứu
khoa học đòi hỏi quản lý cấp khoa, tổ, giảng viên phải luôn cập nhật
những thông tin chuyên ngành và những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra.
3.3. Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh
viên.
- Quá trình giảng dạy của thầy là yếu tố quan trọng góp phần đổi
mới phương pháp dạy học văn, tuy nhiên nếu không đổi mới phương pháp
kiểm tra đánh giá thì không thay đổi căn bản được phương pháp giảng dạy
. Vì vậy đổi mới kiểm tra đánh giá là một trong những khâu then chốt
quyết định, thúc đẩy quá trình đổi mới phương pháp tự học tự nghiên cứu
của sinh viên.
- Đánh giá kết quả học tập của sinh viên khoa Xã hội các giảng viên
sử dụng những hình thức kiểm tra là: tự luận, vấn đáp và trắc nghiệm

khách quan. Đổi mới hình thức đánh giá và kiểm định chất lượng là sự tác
động khách quan, người học không sớm thì muộn phải thay đổi cách học.
27

×