Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1018.89 KB, 115 trang )

1





Luận văn
Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty
Vận tải đa phương thức theo mô
hình Công ty mẹ - công ty con
2


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân,
ngành giao thông vận tải nói chung và Công ty Vận tải đa phương thức nói
riêng đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng; vừa đóng góp vào sự
tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế quốc gia, vừa tiếp tục củng cố và
tăng cường tiềm lực cho ngành vận tải và cho chính Công ty Vận tải đa phương
thức. Thành công bước đầu này đã tạo điều kiện cần thiết để thực hiện chiến
lược nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiện đại hoá dây chuyền vận tải
đa phương thức. Đặc biệt là năng lực vận tải hàng siêu trường, siêu trọng và thiết
bị toàn bộ để từng bước hội nhập vào thị trường vận tải khu vực và quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu nói trên song song với mục tiêu hiện đại hoá
năng lực vận tải, phương tiện xếp dỡ là việc áp dụng các công nghệ tiên tiến,
hiện đại vào dây chuyền vận tải đa phương thức (bao gồm cả công nghệ quản
lý), mở rộng và đa dạng hoá ngành nghề sản xuất, mở rộng phạm vi hoạt động
nhằm tạo thế chủ động để mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh
trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Để giảm chi phí, hạ giá thành vận tải, các đơn vị vận tải phải lựa chọn


mô hình tổ chức, quản lý sản xuất phù hợp nhất để vừa bảo đảm tiết kiệm chi
phí, đảm bảo an toàn trong sản xuất vừa nâng cao được năng lực cạnh tranh,
vừa nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Vấn đề dặt ra là
phải tìm ra mô hình tổ chức quản lý phù hợp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh
của công ty ngày càng phát triển; đây là vấn đề hết sức cấp bách.
Vì mục tiêu trên, đề tài “Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa
phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con” được chọn để nghiên
cứu trong luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
3


Đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước là một trong những
nội dung trọng trâm trong toàn bộ quá trình chuyển đổi của nền kinh tế nước
ta, do đó có nhiều công trình nghiên cứu đã công bố, cũng như nhiều luận
văn, luận án đã bảo vệ liên quan đến chủ đề này.
Có thể nêu một số công trình như:
- “Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới DNNN", Nxb Chính trị quốc
gia -2004.
- “Tổng công ty nhà nước Việt nam thực trạng và phát triển” của thạc sĩ
Bùi Văn Huyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2004.
- "Đổi mới tổ chức, quản lý ở Tổng công ty xây dựng 4 - Thực trạng và
giải pháp", Phạm Đình Hanh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh -2005.
- "Đổi mới tổ chức, quản lý ở Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay" của Thạc sĩ Trương Văn Diện, Học viện chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2002.
Các công trình trên đã nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của đổi mới
ở Việt Nam nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài “Đổi mới tổ
chức, quản lý doanh nghiệp theo mô hình Công ty mẹ-công ty con” nói
chung và của ngành vận tải nói riêng.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu nhằm luận chứng tính hiệu quả của việc tổ chức
quản lý theo mô hình Công ty mẹ - công ty con và đề xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của mô hình Công ty mẹ – công ty con ở Công ty Vận tải
đa phương thức.
- Để phù hợp với mục đích, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những
vấn đề sau:
+ Khái quát những vấn đề cơ bản về tổ chức theo mô hình Công ty mẹ -
công ty con.
4


+ Phân tích hiện trạng của tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa
phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con.
+ Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty Vận tải
đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tổ chức quản lý của mô hình
Công ty mẹ - Công ty con.
- Phạm vi nghiên cứu: Dây chuyền vận tải đa phương thức bao gồm
nhiều ngành và lĩnh vực vận tải như vận tải đường biển, vận tải đường sắt,
vận tải đường hàng không, vận tải đường bộ, vận tải quá cảnh quốc tế, giao
nhận, xếp dỡ hàng hoá, kho bãi Tất cả những lĩnh vực đó được đặt trong dây
chuyền sản xuất thống nhất, đồng bộ. Do nhiều lần sắp xếp, sáp nhập nên số
liệu dùng để so sánh giũa các thời kỳ có nhiều khó khăn. Trong luận văn này
chỉ tập trung khảo sát số liệu từ năm 2003 đến năm 2006.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng
quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, nghị quyết của Đảng bộ Công ty
Vận tải đa phương thức, đồng thời có kế thừa chuyển đổi tổ chức theo mô

hình Công ty mẹ - công ty con của Công ty Vận tải đa phương thức.
Ngoài ra, luận văn có sử dụng phương pháp điều tra; phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp so sánh với các mô hình khác để làm nỗi bật chủ
đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
Luận chứng cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức, quản lý
theo mô hình Công ty mẹ - công ty con, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của Công ty Vận tải đa phương thức để khẳng định
sự đúng đắn của quá trình đổi mới tổ chức, quản lý theo mô hình này.
5


7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
6


Chương 1
Những vấn đề lý luận cơ bản
Về mô hình công ty mẹ - công ty con

1.1. Mô hình Công ty mẹ - công ty con
1.1.1. Khái lược sự hình thành và phát triển mô hình Công ty mẹ -
công ty con
Theo Các Mác hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa là hình thức khởi đầu
của tổ chức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự hình thành các công ty xuyên quốc
gia (Transnational Corporation - TNC) tổ chức và quản lý theo mô hình Công
ty mẹ - Công ty con là kết quả phát triển lâu dài của nền sản xuất và quan hệ
kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ sự tích tụ, tập trung tư bản và tập trung

sản xuất cao độ, dẫn đến sự độc quyền của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự
phát triển dần lên của hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công
nghiệp cơ khí đã làm nảy sinh các hình thức tổ chức sản xuất xã hội ngày một
hoàn thiện, từ các xưởng thợ thủ công, đến công trường thủ công, từ công
xưởng công nghiệp đến xí nghiệp sản xuất lớn, đến các loại hình công ty với
nhiều hình thức khác nhau. Phát triển song song với quy mô sản xuất là các
hình thức (hay còn gọi là kiểu tổ chức) quản lý tương ứng và linh hoạt nhằm
tối đa hoá lợi nhuận. Các TNC với mô hình quản lý hiện đại là một sự tiến bộ
lịch sử vô cùng cao, và là một thủ đoạn bóc lột văn minh và tinh vi, khi người
công nhân cũng lại là người có cổ phần trong chính công ty mà họ làm việc.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa
tư bản”, V.I.Lênin cho rằng tự do cạnh tranh sẽ làm tập trung sản xuất, và sự
tập trung đó đạt đến mức độ nhất định sẽ dẫn đến độc quyền. V.I.Lênin nêu
các nét cơ bản của lịch sử độc quyền như sau:
7


"- Những năm 1860 - 1870 nấc thang phát triển cao nhất của tự do cạnh
tranh. Độc quyền chỉ là mầm mống bước đầu nhìn thấy.
- Sau khủng hoảng năm 1873, các cartel bắt đầu phát triển, và cũng chỉ là
những hiện tượng thoáng qua.
- Cuối thế kỷ XIX và khủng hoảng những năm1900 - 1903, cartel trở
thành một trong những cơ sở của toàn bộ đời sống kinh tế. Chủ nghĩa tư bản
trở thành chủ nghĩa đế quốc" [17, tr.142].
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giữa phần ba
cuối thế kỷ XVIII đến đầu nửa sau thế kỷ XIX là thời kỳ của công xưởng cơ
khí công nghiệp. Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các tổ chức độc quyền
bắt đầu ngự trị trên thế giới. V.I.Lênin cũng chỉ rõ chủ nghĩa đế quốc là chủ
nghĩa tư bản ở giai đoạn phát triển đã diễn ra sự thống trị của các độc quyền
và tư bản tài chính. Xuất khẩu tư bản có ý nghĩa to lớn, sự phân chia thế giới

của các Tơrơt (Trust) quốc tế đã bắt đầu và đã phân chia xong toàn bộ lãnh
thổ thế giới bởi các nước tư bản phát triển nhất. Độc quyền chỉ có thể phát
triển trên cơ sở tập trung sản xuất và tư bản đạt mức độ cao, tư bản công
nghiệp và tư bản ngân hàng đã phát triển tới mức liên kết chặt chẽ với nhau,
vươn rộng ra bên ngoài thông qua xuất khẩu tư bản ngày càng nhiều. Đồng
thời với sự phát triển mạnh mẽ đó, các liên minh độc quyền và các cường
quốc tư bản đã tiến hành phân chia thế giới về kinh tế và lãnh thổ, từ đó các
công ty xuyên quốc gia với hình thức liên kết đa dạng và mô hình tổ chức
Công ty mẹ - Công ty con cũng hình thành và phát triển.
1.1.2 Đặc trưng và phân loại mô hình Công ty mẹ - công ty con
1.1.2.1. Quan niệm về mô hình Công ty mẹ - công ty con
Trong cơ chế thị trường, quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
luôn đi liền với quá trình liên kết dưới những hình thức và mức độ khác
nhau. Các doanh nghiệp có thể đầu tư vốn vào các công ty cổ phần hiện có,
8


hoặc đầu tư vốn trực tiếp thành lập doanh nghiệp thành viên của mình. Với
sự phong phú đa dạng loại hình doanh nghiệp là điều kiện để phát triển các
mối liên kết. Cạnh tranh một mặt là quá trình phân hoá và đào thải các
doanh nghiệp kém phát triển, mặt khác sẽ tạo dựng các doanh nghiệp quy
mô lớn có tiềm lực kinh tế mạnh. Sự cạnh tranh cũng dẫn đến việc thâu
tóm, mua bán giữa các doanh nghiệp tạo nên những doanh nghiệp có quy
mô lớn mạnh. Cạnh tranh vừa dẫn đến sự phân hoá các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường, mặt khác thúc đẩy hình thành các sợi dây liên kết,
kết nối giữa các doanh nghiệp nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh bảo đảm sự
tồn tại trong nền kinh tế thị trường.
Liên kết giữa các doanh nghiệp bao gồm liên kết dọc hoặc liên kết
ngang, hoặc cả hai. Các mối liên kết ngày càng trở nên quan trọng khi có sự
phát triển cao của khoa học, công nghệ và mức độ cạnh tranh trên thị trường

diễn ra gay gắt. Theo đó xuất hiện một dạng liên kết phụ thuộc, như có thể lệ
thuộc về vốn, về khoa học công nghệ, liên kết theo dây chuyền sản xuất. Một
số doanh nghiệp phụ thuộc và chịu sự tác động về chiến lược phát triển kinh
doanh của mình bởi một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp đó có thể hoạt
động trên nhiều lĩnh vực hay một lĩnh vực nhưng dựa vào sự chi phối bằng sự
góp vốn, cổ phần của mình ở các doanh nghiệp khác để điều khiển hoạt động
của cả một tổ hợp kinh tế. Dựa trên sự liên kết chi phối về vốn, các tổ hợp
kinh tế này phát triển thành các tập đoàn kinh tế dựa trên mô hình Công ty mẹ
- công ty con. Mô hình này về bản chất, là sự liên kết chi phối về vốn, sự chi
phối này tạo nên sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong mô hình.
Có thể khái quát bản chất mô hình Công ty mẹ - công ty con như sau:
Công ty mẹ - công ty con là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh được
thực hiện bởi sự liên kết của nhiều pháp nhân kinh doanh nhằm hợp nhất các
nguồn lực của một nhóm doanh nghiệp, đồng thời thực hiện sự phân công,
9


hợp tác về chiến lược dài hạn cũng như kế hoạch ngắn hạn trong sản xuất -
kinh doanh để tạo ra sức mạnh chung và nâng cao hiệu quả hoạt động. Sự
liên kết giữa Công ty mẹ và các Công ty con chủ yếu là liên kết về vốn, ngoài
ra có thể gắn kết về bản quyền, về công nghệ hoặc thị trường.
ở đây chỉ tập trung phân tích về liên kết vốn.
Hình thức liên kết là Công ty mẹ giữ vai trò trung tâm, đầu tư vốn của
Công ty mẹ vào các công ty con có thể là 100% vốn, đầu tư giữ cổ phần chi
phối, giữ cổ phần không chi phối. Các doanh nghiệp là Công ty con tham gia
liên kết theo kiểu mô hình này đều là những pháp nhân đầy đủ, liên kết với
Công ty con theo các mức độ khác nhau: chặt chẽ, nửa chặt chẽ, không chặt
chẽ, thông qua sự chi phối vốn, phân công và hợp tác của Công ty mẹ.
Công ty mẹ (Parent Company)
Công ty mẹ là một công ty nắm giữ cổ phần của một hoặc nhiều công ty

khác và có quyền chi phối những công ty ấy. Nhìn từ góc độ lịch sử, việc hình
thành Công ty mẹ có liên quan đến sự phát triển của các công ty khống chế
bằng cổ phiếu. Công ty mẹ có thể nắm giữ cổ phiếu và các trái phiếu có giá trị
khác mà tự mình không tham gia vào hoạt động kinh doanh cũng như quản lý
các công ty mà nó nắm giữ cổ phiếu thì Công ty mẹ này được gọi là: công ty
khống chế cổ phần đơn thuần. Theo quy định pháp luật của một số nước, các
công ty nắm giữ cổ phần đơn thuần này không tiến hành các hoạt động
thương mại, sản xuất, đồng thời cũng không giao dịch với bên ngoài.
Tuy nhiên, trong thực tế hầu hết các Công ty mẹ vừa nắm giữ và khống
chế cổ phần, vừa tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Những công ty
này gọi là: công ty khống chế hỗn hợp. Hình thức công ty này không chỉ phổ
biến ở các ngành sản xuất, chế tạo mà còn có mặt ở lĩnh vực tài chính, ngân
hàng. Luật pháp ở các nước phát triển có các quy định khác nhau về hình thức
công ty khống chế cổ phần loại này và chúng đều có chung một đặc điểm cho
10


phép các công ty được quyền nắm giữ cổ phiếu của các công ty khác. Tại các
TNC trên thế giới, Công ty mẹ không chỉ là các công ty khống chế cổ phần
đơn thuần, mà đa số là các công ty hỗn hợp như vừa nêu trên. Việc tham gia
của Công ty mẹ vào các hoạt đông của Công ty con chủ yếu là sự tham dự về
phương châm chiến lược chứ không phải là các hoạt động thường ngày.
Từ các vấn đề được đề cập trên có thể hiểu: Công ty mẹ là một công ty
tạo ra quyền kiểm soát các công ty có liên kết với nó, là chủ sở hữu toàn bộ
hoặc chi phối vốn điều lệ, vốn đầu tư, vốn cổ phần ở các công ty khác đủ để
chi phối các quyết định quan trọng đối với công ty đó.
Công ty con (Subsidiary)
Luật pháp các nước không giống nhau, do vậy khó có một định nghĩa
chính xác và đầy đủ về Công ty con. Nhìn chung có thể hình dung giữa Công
ty mẹ và Công ty con luôn tồn tại song song hai mối quan hệ là: mối quan hệ

về quyền sở hữu và mối quan hệ giữa bên khống chế và bên bị khống chế.
Những công ty bị nắm cổ phiếu và bị kiểm soát hoạt động này gọi là Công ty
con. Công ty mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến Công ty con, nhưng các Công ty
con cũng có quyền độc lập, tự chủ tương đối trong kinh doanh.
Công ty con là một pháp nhân độc lập, có tên và điều lệ riêng, có con
dấu và tài sản riêng, có thể độc lập tiến hành các hoạt động tố tụng, độc lập về
tài chính, tự chịu lỗ lãi, có quyền phát hành cổ phiếu, đồng thời có thể độc lập
đi vay nợ. Khi chấm dứt hoạt đông có thể phát mãi tài sản để thu hồi vốn. Nếu
một Công ty con được thành lập ở nước ngoài, khi đăng ký kinh doanh ở
nước sở tại nhất thiết phải chịu sự quản lý về pháp luật của nước sở tại mà
không còn được sự bảo hộ ngoại giao của Nhà nước sở tại của Công ty mẹ.
Công ty con là công ty do một công ty khác đầu tư toàn bộ vốn điều lệ
hoặc nắm giữ cổ phần chi phối, trong đó cổ phần chi phối là cổ phần đa số
hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật và điều lệ của công ty đó đủ chi
11


phối các quyết định quan trọng của công ty đó. Công ty con có tư cách pháp
nhân, có tài sản riêng, tên gọi, con dấu và là các pháp nhân độc lập của Công ty
mẹ. Công ty con được tổ chức theo loại hình mà doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh.
Công ty con còn biểu hiện dưới các dạng: công ty liên kết, là công ty
trách nhiệm hữu hạn ở nước chủ nhà (nước có Công ty con của Công ty mẹ
TNC hoạt động), trong đó nhà đầu tư có sở hữu ít nhất là 10%, nhưng không
lớn hơn một nửa quyền biểu quyết của các cổ đông; công ty chi nhánh là công
ty trách nhiệm vô hạn có toàn bộ vốn ở nước chủ nhà.
1.1.2.2. Những đặc trưng và phân loại mô hình Công ty mẹ - công ty con
* Đặc trưng về mô hình Công ty mẹ - công ty con
- Về hình thức hình thành: Quá trình hình thành, liên kết thành lập có
thể theo tự nguyện hoặc bắt buộc theo cơ chế cạnh tranh.

- Về quy mô: Các doanh nghiệp áp dụng mô hình Công ty mẹ - Công ty
con hay còn gọi là các tập đoàn kinh tế thường có quy mô vốn, lao động,
doanh thu và phạm vi hoạt động lớn.
- Về chức năng: Công ty mẹ có thể có cùng một lúc hai chức năng cơ
bản, vừa sản xuất kinh doanh, vừa đầu tư tài chính hoặc chỉ thực hiện chức
năng đầu tư tài chính. Công ty con có chức năng sản xuất - kinh doanh, đồng
thời cũng có khả năng thực hiện đầu tư tài chính mở rộng mô hình Công ty
mẹ - Công ty con.
- Về lĩnh vực hoạt động: Hầu hết các tập đoàn kinh tế đều hoạt động
kinh doanh đa ngành để phân tán rủi ro, tận dụng được cơ sở vật chất và khả
năng lao động, tuy nhiên cũng có một số tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh
vực tương đối hẹp tập trung khai thác thế mạnh về chuyên môn, bí quyết công
nghệ, uy tín đặc biệt trong ngành. Các xu hướng này được thể hiện tuỳ theo
ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực hoạt động.
12


- Về liên kết: Công ty mẹ đầu tư toàn bộ hoặc có cổ phần, vốn góp chi
phối các công ty con và chi phối công ty này qua mức độ đầu tư, các công ty
con đầu tư tiếp vào các công ty cháu. Các công ty đầu tư vào nhau tạo nên
mối quan hệ cơ bản, chủ đạo xuyên suốt là quan hệ Công ty mẹ - Công ty con.
Quyền và mức độ chi phối của Công ty mẹ đối với Công ty con được quy
định trong điều lệ công ty phù hợp với pháp luật về loại hình của quốc gia nơi
công ty đăng ký kinh doanh. Quyền lợi kinh tế của Công ty mẹ được đảm bảo
thông qua chế độ phân chia lợi nhuận theo phần vốn góp.
* Phân loại mô hình Công ty mẹ - công ty con
Hiện nay việc liên kết giữa Công ty mẹ với các Công ty con rất đa dạng
tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh, khả năng tiềm lực sức mạnh và khả năng
chi phối của Công ty mẹ, dưới đây là một số dạng mô hình liên kết chính.
- Mô hình kiên kết chủ yếu bằng vốn

Mô hình này đòi hỏi các Công ty mẹ có tiềm lực tài chính mạnh,
thường là các ngân hàng hoặc các công ty tài chính, hình thành thông qua con
đường nhất thể hoá kinh doanh bằng cách thôn tín, sát nhập. Qua việc nắm
giữ số lượng cổ phần chi phối, Công ty mẹ nắm giữ quyền lãnh đạo các doanh
nghiệp trong việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, tài lực biến
chúng thành các doanh nghiệp cấp dưới trực tiếp (Công ty con). Các Công ty
con này vẫn có tư cách pháp nhân, tiến hành các hoạt động kinh doanh độc
lập tương đối. Bằng cách tham dự cổ phần vào một số doanh nghiệp, Công ty
mẹ biến những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân khác thành các doanh
nghiệp phụ thuộc nửa trực tiếp.
Thực hiện các mô hình liên kết bằng vốn là các Cheabol (Hàn quốc)
như Samsung, Daewoo; các tập đoàn của Nhật bản lấy ngân hàng làm trung
tâm như Bank of Tokyo Mitsubishi với 690,461 tỷ USD năm 1997, Sumitomo
bank 182,707 tỷ USD năm 1997.
13


- Mô hình liên kết theo dây chuyền sản xuất-kinh doanh
Mô hình này thường áp dụng đối với những ngành mà sản phẩm có cấu
tạo nhiều cấp, nhiều bộ phận. Công ty mẹ có tiềm năng lớn, thực hiện chức
năng trung tâm như xây dựng chức năng kinh doanh tiếp thị, phát triển sản
phẩm, huy động vốn và phân bổ vốn đầu tư, quan hệ đối ngoại, đào tạo nhân
lực, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Công ty mẹ kiểm soát một mạng lưới các
Công ty con, công ty cháu theo dạng hình chóp (cấp 1, cấp 2, cấp 3), tạo
thành một quần thể doanh nghiệp khổng lồ. Ví dụ: Để sản xuất một chiếc máy
bay Boeing 747 phải có 4,5 triệu linh kiện do 1.500 xí nghiệp lớn, 10.000 xí
nghiệp nhỏ và vừa của 6 nước cùng tham gia chế tạo; Vào cuối những năm
1990 có tới 40 - 50% linh kiện và bán thành phẩm thông qua các Công ty con
của các công ty đa quốc gia sản xuất.
Sự phối hợp và kiểm soát hoạt động của Công ty mẹ đối với Công ty

con, công ty cháu được thực hiện rất chặt chẽ, thông qua chiến lược sản phẩm
và kế hoạch kinh doanh đồng bộ từ trên xuống dưới, Công ty mẹ tham gia góp
cổ phần, trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo cán bộ, sự phân công hợp tác
trong nội bộ tập đoàn hết sức cụ thể và khoa học.
Tuy nhiên theo mô hình liên kết nhiều tầng này, Công ty mẹ có thể
không cho phép các Công ty con thuộc tầng liên kết không chặt chẽ góp vốn
để thành lập các công ty cháu nhằm giảm thiểu rắc rối trong quản lý tài sản.
- Mô hình liên kết giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất - kinh doanh
Theo mô hình này Công ty mẹ thường là những trung tâm nghiên cứu
ứng dụng lớn, lấy việc phát triển công nghệ mới là đầu mối cho sự liên kết.
Các Công ty con là đơn vị sản xuất - kinh doanh, có chức năng ứng dụng
những kết quả nghiên cứu công nghệ mới của Công ty mẹ, biến nó thành sản
phẩm có ưu thế trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của cả tập đoàn chính là
14


khả năng liên kết, từ nghiên cứu đến ứng dụng. Mô hình này thường áp dụng
ở những ngành kỹ nghệ cao.
Tuy các dạng mô hình liên kết giữa Công ty mẹ với các Công ty con
dựa trên các nền tảng khác nhau, song suy cho cùng đều là sự chi phối bởi yếu
tố tài sản, trong đó bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Sức mạnh
chi phối của Công ty mẹ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nắm giữ các nguồn
tài sản trên và chính những tài sản vô hình như sở hữu công nghiệp, phát
minh khoa học công nghệ, uy tín sản phẩm, thị trường, thương hiệu, lại có
tác động hỗ trợ hết sức hiệu quả, tạo cơ sở vững chắc để cũng cố, tăng cường
quan hệ hợp tác và lợi ích kinh tế giữa Công ty mẹ và các Công ty con. Công
ty mẹ có thể sử dụng được các lợi thế của Công ty con về các mặt lao động,
tài nguyên, thị trường khi Công ty con đặt ở các quốc gia có ưu thế về các
mặt này. Đây chính là cơ sở để giải thích việc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài
của các tập đoàn xuyên quốc gia. Ví dụ các tập đoàn kinh doanh ở châu á

Thái Bình Dương (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) đều chọn đa dạng hoá
hoạt động kinh doanh làm chiến lược phất triển và thường có ba mô hình sau:
- Liên kết theo chiều dọc: Các công ty lớn thường thâm nhập rộng rãi
vào các ngành khác, có liên quan như những bước trung gian của sản xuất và
lưu thông. Những năm gần đây, liên kết theo chiều dọc được mở rộng sang cả
những ngành sản xuất khác nhau, không có mối liên hệ trực tiếp với ngành
sản xuất chính của hảng để hình thành các công ty lớn kinh doanh trên quy
mô quốc tế.
- Liên kết theo chiều ngang: Là sự liên kết giữa các công ty lớn trong
một ngành nhất định để hình thành nên các công ty quốc tế khổng lồ.
- Liên kết Conglomerat: Tiến hành vào các ngành công nghiệp tăng
trưởng mới, không liên quan tới lĩnh vực kinh doanh ban đầu. Mối liên hệ
giữa Công ty mẹ và các chi nhánh (Công ty con) chủ yếu là tài chính; Điều
15


hành thông qua cơ cấu quyền lực và liên kết với các ngân hàng đầu tư, thương
mại, công ty bảo hiểm Cơ cấu của Conglomerat rất gọn nhẹ, linh hoạt và phi
tập trung hoá, chủ yếu là kiểm soát hoạt động của Công ty con thông qua hệ
thống tài chính và chỉ đạo hành chính nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động
kinh doanh của các công ty, chi nhánh qua sự dao động giá cả cổ phiếu của nó
trên thị trường chứng khoán.
1.1.2.3. Một số mô hình Công ty mẹ - công ty con
Cartel: là hình thức tập đoàn kinh tế theo một ngành chuyên môn hoá,
chỉ bao gồm các công ty sản xuất cùng một loại sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm
mục đích hạn chế cạnh tranh thông qua các thoả thuận thống nhất về giá cả,
thị trường tiêu thụ, nguyên liệu, thống nhất các chuẩn mực về mẫu mã, kiểu
dáng, kích thước sản phẩm, dịch vụ Trong Cartel các doanh nghiệp thành
viên giữ tính độc lập về mặt pháp lý, còn tính độc lập về kinh tế được đảm
bảo hợp đồng kinh tế. Đây là hình thức tập đoàn có liên kết thấp nhất, xuất

hiện lần đầu tiên ở Mỹ.
Syndicate là một dạng đặc biệt của Cartel. Sự khác biệt căn bản là
Syndicate có một phòng thương mại chung do một ban quản trị điều hành và tất
cả các công ty phải tiêu thụ hàng hoá qua kênh văn phòng này. Như vậy doanh
nghiệp thành viên vẫn giữ được tính độc lập về mặt sản xuất, nhưng bị phụ thuộc
về mặt tiêu thụ sản phẩm. Tính liên kết của tập đoàn chỉ ở khâu tiêu thụ.
Trust là một tổ chức cao hơn Syndicate ở chổ Trust không những liên
kết về mặt tiêu thụ sản phẩm mà còn liên kết về mặt sản xuất. Trust bao gồm
nhiều doanh nghiệp công nghiệp do một ban quản trị thống nhất điều hành.
Khác với hai loại trên và các thành viên của Trust đều bị mất quyền độc lập cả
về sản xuất và thương mại. Việc thành lập Trust là nhằm độc chiếm nguồn
nguyên liệu, khu vực đầu tư và thu lợi nhuận cao.
16


Consrtium là một trong những hình thức của tổ chức độc quyền ngân
hàng nhằm mục đích chia nhau mua chứng khoán trong hoặc ngoài nước,
hoặc tiến hành một vụ mua bán nào đó. Nó thường do một ngân hàng lớn
đứng đầu, điều hành hoạt động của cả tập đoàn.
Concern là một hình thức tổ chức kinh tế được áp dụng phổ biến hiện
nay dưới hình thức Công ty mẹ đầu tư vào các công ty khác, lập nên mối quan
hệ Công ty mẹ - Công ty con. Công ty mẹ điều hành hoạt động của cả tập
đoàn, các Công ty con chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn kinh doanh
của mình và độc lập về pháp lý, phụ thuộc vào tập đoàn về mục tiêu hoạt
động nhằm thực hiện mục đích chung của cả tập đoàn. Concern thường được
tạo nên bởi hai doanh nghiệp độc lập và có pháp nhân đầy đủ. Các Concern
thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhà nước thông qua hợp đồng, đơn đặt
hàng, quan hệ cá nhân tài trợ cho các thế lực chính trị. Tiền đề chính để ra đời
một Concern là tồn tại một công ty chủ chốt đủ khả năng để quản lý và kiểm
soát hoạt động, đặc biệt là kiểm tra tài chính các công ty khác. Để làm được

điều đó, Concern phải có một ngân hàng có khả năng đảm bảo phần lớn tín
dụng cho toàn Concern, thường tổng tư bản không dưới 1 tỷ USD.
Conglomrate là tập đoàn đa ngành, các công ty thành viên không có
mối quan hệ về công nghệ sản xuất nhưng có mối liên hệ chặt chẽ về tài
chính. Đây là một tập đoàn tài chính, thông qua mua bán chứng khoán trên thị
trường để đầu tư vào để đầu tư vào những công ty có lợi nhuận cao nhất và
các ngành có hiệu quả cao nhất. Chính mối quan hệ này là cơ sở quan trọng
để hình thành một Conglomerate. Sự hoạt đông tích cực của thị trường chứng
khoán đã giúp cho Conglomerate “nuốt” dần các công ty có lãi suất cao và
làm cho cơ cấu của Conglomerate thay đổi nhanh chóng.
Trong đó Concern và Conglomerate là hai hình thức tổ chức phổ biến
của TNC hiện đại và có những đặc thù khác nhau như sau:
17


* Cơ sở hình thành:
Concern hình thành trên cơ sở công ty lớn của ngành thâu tóm, khống
chế và đi đến nuốt gọn các công ty nhỏ trong cùng một ngành sản xuất hoặc
các doanh nghiệp ở các ngành khác có kỹ thuật gần tương đồng với công ty
gốc bằng vốn của công ty.
Conglomerate nhằm vào các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, bất
kể ngành nghề nào trong nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán.
Đặc trưng hình thành của Concern là liên kết theo chiều ngang, có tính
chuyên ngành hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Đặc trưng hình
thành của Conglomerate là liên kết theo chiều dọc, có tính đa dạng và hỗn
hợp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.
* Cơ cấu điều hành và cơ chế hoạt động
Kết cấu của Concern luôn có một công ty gốc làm trụ cột, cơ cấu tổ
chức của nó được thiết lập tập trung thẳng đứng theo tầng, bậc ma trận.
Thông tin điều hành truyền từ trung tâm xuống các chi nhánh đều qua khâu

trung gian của hệ thống quản lý, nên duy trì tính quyền lực, tính kế hoạch
tổng thể đảm bảo được sự thống nhất và có hiệu lực của các quyết sách. Tuy
nhiên nó cũng có nhược điểm là hệ thống điều hành cồng kềnh, thông tin
truyền từ trên xuống chậm, dễ bị sai lệch qua phần xử lý của các cáp trung
gian.
Kết cấu của Conglomerate là kết cấu mạng lưới tư bản hoạt động ở
nhiều ngành đan xen, xâm nhập vào nhau tạo nên nhiều trung tâm quyền
lực cân bằng. Quyền lực điều hành trực tiếp đối với hệ thống từng bước
chuyển sang tay tư bản chức năng và tập trung vào tay các nhà quản trị
cao cấp. Tuy nhiên quyền lực thực tế nằm trong tay các tập đoàn sở hữu
lớn. Giới chủ điều chỉnh hoạt động của tập đoàn gián tiếp bằng hoạt
động mua bán cổ phiếu của các công ty, chi nhánh trên thi trường chứng
18


khoán. Điều hành của Conglomerate linh hoạt và mềm dẻo. Hệ thống
điều hành gọn nhẹ, hiệu quả kinh tế cao do phát huy được tính chủ động
sáng tạo của các Công ty con và kịp thời chuyển rủi ro trong hoạt động
công ty ra ngoài thị trường.
* Về lĩnh vực hoạt động:
Nhờ hoạt động trên thị trường chứng khoán thông qua mua bán cổ
phiếu của các chi nhánh đã giúp cho Conglomerate thay đổi lĩnh vực hoạt
động nhanh chóng và luôn thu hút được các công ty thuộc các ngành có công
nghệ mũi nhọn, hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm cao và có tỷ suất
lợi nhuận lớn. Lợi nhuận của Conglomerate chủ yếu được tạo ra trên thị
trường chứng khoán thông qua việc mua bán và đầu cơ cổ phiếu nhờ kinh
nghiệm và biện pháp hoạt động trên thị trường vốn.
Còn Concern do phải duy trì một ngành nghề chủ chốt buộc Concern có
cơ cấu sản xuất kinh doanh ổn định và biến đổi ở một phạm vi nhỏ bé và
chậm chạp hơn. Việc mở rộng công ty của Concern chủ yếu vào lĩnh vực sản

xuất. Concern chỉ thu hút các công ty thuộc các ngành dịch vụ ở mức độ cần
thiết cho hoạt động bình thường của tập đoàn. Khối lượng lợi nhuận chủ yếu
mà các Concern thu được là từ lĩnh vực sản xuất.
1.1.3. Cơ chế hoạt động của mô hình Công ty mẹ - công ty con
1.1.3.1. Cấu trúc của mô hình Công ty mẹ - công ty con
Sơ đồ 1.1: Cấu trúc của mô hình Công ty mẹ - Công ty con






CÔNG TY Mẹ

A 2

B 2

C 2

D 2

B31

B32

B33

D31


D32

D33
19





Mối liên kết hình thành giữa Công ty mẹ với các Công ty con phụ thuộc
chủ yếu vào sự chi phối về vốn và tài sản, phương thức đầu tư, góp vốn cổ
phần để hình thành các Công ty con. Bằng sự khống chế về vốn góp ở nhiều
mức độ khác nhau, một doanh nghiệp trở thành Công ty mẹ của nhiều Công
ty con, từ đó hình thành nên mối liên kết nhiều tầng giữa Công ty mẹ với các
Công ty con chặt chẽ, nữa chặt chẽ hay lỏng lẻo. Công ty con nào được Công
ty mẹ góp vốn nhiều hơn thì có mối liên hệ chặt chẽ hơn. Quan hệ giữa Công
ty mẹ và Công ty con ở mức độ chặt chẽ nếu Công ty mẹ đầu tư vốn 100%.
Khi đó Công ty mẹ với tư cách thực hiện quyền của chủ sở hữu vốn có quyền
quyết định về cơ cấu tổ chức quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ
luật các chức danh chủ yếu; quyết định điều chỉnh vốn điều lệ, chuyển
nhượng một phần hay toàn bộ vốn cho doanh nghiệp khác, quyết định bổ sung
điều lệ Công ty con, giám sát đánh giá hoạt động của Công ty con, duyệt báo
cáo tài chính hàng năm, quyết định sử dụng lợi nhuận của Công ty con Các
Công ty con thuộc tầng liên kết chặt chẽ có thể tham gia góp vốn, tài sản để
hình thành các Công ty con của mình (gọi là công ty cháu). Tuy nhiên Công ty
mẹ có thể không cho phép các Công ty con thuộc tầng liên kết không chặt chẽ
góp vốn để thành lập các công ty cháu nhằm giảm thiểu sự rắc rối trong quản lý
tài sản.
Trong thực tế, nhờ cấu trúc linh hoạt như vậy, nhiều công ty lớn ở các
nước công nghiệp phát triển đã tăng trưởng hết sức nhanh chóng, trở thành

những tập đoàn kinh doanh với qui mô và năng lực lớn, vượt ra ngoài phạm vi
một ngành, một lĩnh vực sản xuất kinh doanh như Hyundai, IBM
1.1.3.2. Cơ chế hoạt động của mô hình Công ty mẹ - công ty con
E 4

20


Cơ cấu tổ chức quản lý của mô hình Công ty mẹ - Công ty con gồm có
hội đồng quản trị (HĐQT), Ban kiểm soát, Bộ máy điều hành và các đơn vị
thành viên.
Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý cấp cao nhất đối với toàn bộ mô
hình (sau đây được gọi là tập đoàn kinh tế). HĐQT bao gồm các chủ sở hữu
hoặc đại diện chủ sở hữu. HĐQT chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở
hữu về việc sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn, thực thi các nhiệm vụ được
giao. HĐQT quyết định các vấn đề lớn và quan trọng như: chiến lược phát
triển, phương án sản xuất kinh doanh, điều hoà quản lý vốn, lựa chọn và quyết
định tổng giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên. Thành viên HĐQT có
thể được cử làm chủ tịch HĐQT công ty cổ phần con hoặc cháu.
Ban kiểm soát: Trưởng ban kiểm soát có thể là thành viên HĐQT hoặc
không phải thành viên HĐQT. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
hoạt động của tập đoàn và quá trình điều hành của bộ máy điều hành trong
việc chấp hành các quyết định, nghị quyết của HĐQT.
Bộ máy điều hành: Gồm Tổng giám đốc (TGĐ) các phó tổng giám đốc
và bộ máy giúp việc. TGĐ là đại diện pháp nhân của tập đoàn kinh tế, là
người xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, là người
điều hành những công việc thường ngày của doanh nghiệp. TGĐ là người được
HĐQT lựa chọn và được Thủ tướng chính phủ quyết định bổ nhiệm (đối với tập
đoàn kinh tế mà nhà nước nắm giữ 100% vốn) hoặc HĐQT ký hợp đồng thuê.
Các phó tổng giám đốc do TGĐ kiến nghị và được HĐQT bổ nhiệm. Bộ máy

giúp việc do TGĐ lựa chọn và quyết định sau khi được sự chấp thuận của
HĐQT.
Giám đốc các đơn vị thành viên: có trách nhiệm điều hành hoạt động
của đơn vị thành viên theo chiến lược phát triển dài hạn cũng như kế hoạch
ngắn hạn của Công ty mẹ.
21


Tuy nhiên trên thực tế, cơ cấu tổ chức quản lý của mô hình Công ty mẹ
- Công ty con phức tạp hơn nhiều khi mô hình phát triển nhiều cấp Công ty
mẹ - Công ty con. Hệ thống này đan xen và xuyên suốt cả mô hình từ Công ty
mẹ đến các Công ty con, công ty cháu, công ty chắt
Cơ chế hoạt động Công ty mẹ - Công ty con dựa vào chi phối về vốn, ở
các Công ty con là công ty cổ phần, công ty TNHH; Công ty mẹ sẽ giám sát
và quản lý, điều chỉnh mục tiêu của Công ty con thông qua HĐQT Công ty
mẹ, lấy quyền chi phối về vốn để tác động đến nhân sự, chiến lược sản xuất
kinh doanh, kế hoạch đầu tư.
Về sở hữu: Mô hình Công ty mẹ - Công ty con xác lập rõ đầy đủ quyền
của chủ sở hữu và quyền của doanh nghiệp (quyền sở hữu vốn, tài sản của
pháp nhân, quyền độc lập và tự chịu trách nhiệm trong các giao dịch dân sự ).
Công ty mẹ và Công ty con có thể tổ chức theo nhiều loại hình doanh nghiệp
khác nhau, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Về quan hệ pháp lý: Nền tảng của quan hệ cơ bản này là việc đầu tư và
sở hữu vốn của Công ty mẹ ở các Công ty con, quyền của chủ đầu tư và
quyền của doanh nghiệp được tách bạch rõ ràng. Công ty con được tự chủ về
kinh doanh, tự chủ về tài chính, cũng như từ đó tạo nên mối quan hệ vững
chắc về lợi ích kinh tế, đồng thời phân định rõ ràng quyền của chủ đầu tư và
quyền của doanh nghiệp.
Về tài chính: Công ty mẹ và Công ty con đều có qui chế tài chính riêng,
phù hợp với hình thức sở hữu, luật điều chỉnh công ty. Báo cáo tài chính của

Công ty mẹ chỉ phản ánh hoạt động kinh doanh tại Công ty mẹ, vốn tài sản
của Công ty mẹ và phần vốn đầu tư vào Công ty con, không bao gồm tài sản
và kết quả hoạt động của Công ty con.
1.1.4 Những điều kiện áp dụng mô hình Công ty mẹ - công ty con
22


- Điều kiện về vị trí: vai trò của ngành, lĩnh vực hoạt động đối với
những ngành nghề then chốt, là xương sống, rường cột của một nền kinh tế thì
việc áp dụng mô hình Công ty mẹ - Công ty con trở nên tất yếu đảm bảo sự
vững chắc không chỉ cho một ngành mà cho cả nền kinh tế. Vì vậy doanh
nghiệp hoạt động trong ngành, lĩnh vực có tầm quan trọng thì việc xây dựng,
tổ chức áp dụng mô hình Công ty mẹ - Công ty con sẽ giúp cho doanh nghiệp
có chỗ đứng vững chắc trong suốt quá trình kinh doanh, tăng sức cạnh tranh
trên thị trường.
- Nhu cầu phát triển về cạnh tranh: Để đáp ứng được quá trình cạnh
tranh ngày càng phức tạp, gay gắt, các doanh nghiệp đứng trước nhiều nguy
cơ và khó khăn, để làm tăng khả năng cạnh tranh cũng như vị thế trên thị
trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải phát triển, mở rộng qui mô. Sự phát
triển của doanh nghiệp sẽ quyết định sự tồn vong của chính doanh nghiệp đó.
- Điều kiện về tính chặt chẽ trong liên kết giữa các doanh nghiệp. Đây
là điều kiện quan trọng, các doanh nghiệp liên kết với nhau phải dựa trên cơ
sở liên kết kinh tế thì hiệu quả hoạt động của cả một hệ thống mới đạt được
hiệu quả cao nhất.
- Khả năng thu hút sự tham gia rộng rãi và có hiệu quả của các thành
phần kinh tế khác, kể cả đầu tư nước ngoài. Huy động vốn của doanh nghiệp
cũng như nhu cầu liên kết tạo ra những thuận lợi cho việc thu hút các thành
phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên để có thể thu hút được các thành phần
kinh tế này, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một cơ chế quản lý cũng như hình
thức liên kết hợp lý và có hiệu quả. Sự liên kết phải dựa trên cơ sở bình đẵng

các lợi ích kinh tế. Đó là đông lực cuốn hút các thành phần kinh tế khác.
- Điều kiện về qui mô và phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Đây là
điều kiện mang tính chất thừa kế của các điều kiện đã được đề cập ở trên. Một
doanh nghiệp muốn liên kết với doanh nghiệp khác phải tự tạo ra những lợi
thế nhất định, uy tín trên thị trường cũng như tầm ảnh hưởng của doanh
23


nghiệp thì quá trình liên kết mới thực sự phát huy hiệu quả. Mặt khác để thu
hút vốn của các nhà đầu tư thì doanh nghiệp phải chứng minh khả năng hoạt
động kinh doanh của mình có hiệu quả, ổn định và có tiền đề phát triển.
1.2. Quá trình thí điểm áp dụng mô hình công ty mẹ - công ty con ở Việt nam
1.2.1. Khái quát quá trình đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước
Nhận rõ sự yếu kém của hệ thống quản lý tập trung, quan liêu bao cấp
là vật cản đối với nhu cầu tăng tốc độ phát triển kinh tế, nhận thấy hội nhập
kinh tế thế giới là xu thế tất yếu.
Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khởi xướng sự nghiệp
đổi mới ở Việt nam. Về mặt kinh tế đó là quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trừơng có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ
“Hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý DNNN,
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, đảm bao vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước. Đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; thực hiện việc tách
quyền sở hữu nhà nước của các cơ quan nhà nước với quyền sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ chế độ cơ quan cấp hành chính chủ quản,
chuyển một bộ phận DNNN sang hoạt động theo hình thức công ty TNHH
hoặc công ty cổ phần. Hoàn thành cơ bản việc cổ phần hoá các DNNN mà
nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu vốn. Ưu tiên bán cổ phần cho

người lao động, mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài. Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả các tổng công ty theo mô hình
Công ty mẹ - Công ty con, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở ngành
chuyên môn hoá, gọi vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh
24


doanh, làm nòng cốt để hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh ở một số
ngành và lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân ” [8].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định:
“Khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển
doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa
sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần. Thúc đẩy việc hình thành một số tập
đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh
vực, trong đó có ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai
trò chi phôi.
Đẩy nạnh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được sử
dụng có hiệu quả và ngày càng tăng lên, đồng thời thu hút mạnh các nguồn
lực trong, ngoài nước cho phát triển. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong
việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Đối với những tổng công ty lớn chưa cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty,
thực hiện cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp thành viên và chuyển các
doanh nghiệp thành viên còn lại sang hình thức công ty cổ phần hoặc công ty
trách nhiệm hữu hạn một hoặc nhiều thành viên mà chủ sở hữu là Nhà nước;
đồng thời, chuyển các tổng công ty này sang hoạt động theo mô hình Công ty
mẹ - công ty con. Tổ chức lại hội đồng quản trị để thực sự là đại diện trực tiếp
của chủ sở hữu tại tổng công ty” [9, tr. 232-233].
Từ năm 1988 thực hiện nghị quyết 217/ HĐBT của Hội đồng bộ trưởng
(nay là chính phủ) về việc giao quyền cho các xí nghiệp quốc doanh (XNQD)
tự chủ sản xuất kinh doanh và tự hạch toán kinh tế.

Từ năm 1990 đến nay các XNQD đã trải qua các lần sắp xếp lớn như sau:
Lần thứ nhất: Được thực hiện trong những năm1990 – 1993, đây là lần
thực hiện các giải pháp mang tính chất tình thế nhằm tập trung giải quyết về tổ
chức, xây dựng cơ chế chính sách về tài chính để sắp xếp lại các đơn vị cơ sở.
25


Căn cứ pháp lý của đợt sắp xếp này là Quyết định 315/HĐBT ngày 01/09/1990
về giải thể và tổ chức lại những XNQD yếu kém, Nghị định 388/HĐBT của
Hội đồng bộ trưởng ngày 20/11/1991 về nguyên tắc, điều kiện thành lập lại
XNQD. Đây là lần đầu tiên nhà nước tiến hành tổng kiểm kê lại toàn bộ
XNQD, phân tích và đánh giá tình hình hoạt động của XNQD trên cơ sở đó
thực hiện đăng ký lại doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn để tồn tại là một DNNN.
Tính đến cuối năm 1993 số lượng DNNN đã giảm từ 12.296 doanh nghiệp
xuống còn 6.300 doanh nghiệp. Việc sắp xếp lại các DNNN theo nghị định
388/HĐBTđã làm thay đổi đáng kể cơ cấu vốn và lao động của doanh nghiệp.
Tỷ trọng giá trị sản lượng của khối DNNN tăng từ 32,5% năm 1990 lên
40,2% năm 1994. Số DNNN làm ăn có lãi tăng từ 65% năm 1991 lên 78%
năm 1994.
Lần thứ hai: Được thực hiện từ năm 1994 đến năm 1997. Thực hiện các
Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3/1994, chỉ thị 500/TTg ngày
28/5/1994 của Thủ tướng chính phủ về việc sắp xếp tổng thể các DNNN, các
liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty có tính chất hành chính trung gian để thành
lập mới các Tổng công ty nhà nước trong những ngành, lĩnh vực then chốt
của nền kinh tế. Chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần theo nghị
định 28/CP ngày 07/05/1996 của Chính phủ, đưa các doanh nghiệp nhà nước
hoạt động theo luật DNNN. Đồng thời từng bước xoá bỏ chế độ chủ quản của
các cơ quan hành chính nhà nước.
Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày 20/04/1995 là cơ sở pháp
lý quan trọng quy định mô hình tổ chức và cơ chế quản lý DNNN. Trong đó

quy định rõ từng loại cụ thể: DNNN có HĐQT và DNNN không có HĐQT về
các nội dung: nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT, cơ cấu các thành viên của
HĐQT; Chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng giám đốc và bộ máy giúp
việc; quyền và nghĩa vụ của người lao động.

×