Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Đề tài “Chiến lược tại Ngân hàng TMCP Á Châu ACB” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.77 KB, 36 trang )

QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA

Đề tài
“Chiến lược tại Ngân hàng TMCP
Á Châu ACB”
.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 1
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Mục lục
Mục lục 2
I. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Á Châu ACB 3
1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Á Châu ACB 3
2. Mục tiêu và triết lý kinh doanh 4
II. phân tích môi trường bên ngoài 4
1. Phân tích ngành ngân hàng 4
2. Phân tích chu kỳ phát triển của ngành 10
3. Phân tích môi trường quốc gia và toàn cầu 12
4. Cơ hội và những mối đe dọa đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam 18
III. phân tích môi trường bên trong tại ngân hàng ACB 21
1. Chuỗi giá trị của ngân hàng ACB 21
2. Các khối xây dựng cơ bản của lợi thế cạnh tranh của ngân hàng ACB 26
IV. Nhận dạng và phân tích chiến lược mà ngân hàng ACB đang theo đuổi 30
1. Chiến lược đầu tư và phát triển 30
2. Sự phù hợp của ngân hàng ACB với nguồn lực của nó 32
3. Đánh giá về chiến lược của Ngân hàng Á Châu ACB 33
V. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược phát triển tại Ngân hàng ACB. 34
1. Tận dụng cơ hội: 34
2. Vượt qua thử thách: 34


NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 2
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Để thực hiện đề án cơ cấu lại hệ thống NHTM QD và hệ thống NHTM CP theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ năm 2001. Cùng với việc trở thành thành
viên thứ 150 của Việt Nam trong ngôi nhà chung WTO ngày 07/11/2006 đến nay
các NHTM Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp để hoàn thành tốt đề án của
Thủ tướng Chính phủ, các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình như:
tăng vốn điều lệ, cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối, đổi mới công tác quản trị,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư công nghệ….Bên cạnh đó, sự xâm
nhập ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngòai vào thị trường Việt Nam,
cũng như những cam kết về mở cửa khu vực ngân hàng trong tiến trình hội nhập
ngày một gần kề đã làm làm cho cuộc cạnh tranh giữa các NHTM tại Việt Nam
ngày càng trở nên gây gắt và khốc liệt hơn.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu ACB cũng không nằm ngòai chủ trương
và xu thế đó. NHTMCP Á Châu ACB dù đã có những lợi thế trong cạnh tranh so
với các NHTM khác. Thế nhưng, NHTMCP Á Châu ACB cũng còn tồn tại không
ít những yếu kém, cũng như đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức
phía trước. Để tận dụng tốt những lợi thế của mình trên cơ sở xác định những
điểm yếu, lợi dụng cơ hội mà WTO mang lại để vượt qua những thách thức.
Nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “Chiến lược tại Ngân hàng TMCP Á Châu ACB”
để nghiên cứu về chiến lược tại ngân hàng ACB và xin đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện chiến lược tại Ngân hàng TMCP Á Châu ACB.
I. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Á Châu ACB
1. Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Á Châu ACB
a. Bối cảnh thành lập
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 3
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về NHTM, hợp tác xã tín dụng
và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm 1990, đã tạo dựng một khung
pháp lý cho hoạt động NHTM tại Việt Nam. Trong bối cảnh đó, NHTMCP Á

Châu (ACB) đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do NHNNVN cấp
ngày 24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP.Hồ Chí
Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động.
b. Ngành nghề kinh doanh
 Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi
có kỳ hạn, không kỳ hạn, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các
tổ chức trong nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác;
 Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu
và giấy tờ có giá; hùn vốn và liên doanh theo luật định;
 Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
 Thực hiện kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và thanh toán quốc tế, huy động
các loại vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ
với nước ngoài khi được NHNN cho phép;
 Hoạt động bao thanh toán.
2. Mục tiêu và triết lý kinh doanh
a. Triết lý kinh doanh
Tăng trưởng bền vững, quản lý rủi ro hiệu quả, duy trì khả năng sinh lợi cao và
chỉ số tài chính tốt, đầu tư chiều sâu vào con người và xây dựng văn hóa công ty
lành mạnh
b. Mục tiêu
Ngân hàng Á Châu luôn phấn đấu là ngân hàng thương mại bán lẻ hàng đầu Việt
Nam, hoạt động năng động, sản phẩm phong phú, kênh phân phối đa dạng, công
nghệ hiện đại, kinh doanh an toàn hiệu quả, tăng trưởng bền vững, đội ngũ nhân
viên có đạo đức, nghề nghiệp và chuyên môn cao.”
II. phân tích môi trường bên ngoài
1. Phân tích ngành ngân hàng
a. Nguy cơ từ các ngân hàng mới
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 4
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Thời gian gần đây, xuất hiện nhiều khuyến cáo về việc xem xét lại số lượng các

ngân hàng Việt nam do có lo ngại rằng số lượng các ngân hàng hiện nay là quá
nhiều so với nhu cầu thực tế.
Theo cam kết gia nhập WTO, từ 1/4/2007, các ngân hàng nước ngoài được thành
lập ngân hàng con 100% vốn trực thuộc tại Việt Nam. Nhưng phải đến năm 2009,
điều này mới chính thức hiện thực, các ngân hàng ngoại bắt đầu mở rộng tầm ảnh
hưởng thực sự.
Tập trung cấp giấy phép từ cuối năm 2008, bước sang năm 2009, hệ thống ngân
hàng Việt Nam bắt đầu đón nhận những ngân hàng 100% vốn ngoại đầu tiên.
Những thành viên mới này được hoạt động đẩy đủ hơn, cạnh tranh toàn diện hơn
thay vì phụ thuộc vào các điều kiện kinh doanh hạn chế trước đó.
Trong năm 2009, 5 ngân hàng đầu tiên của khối này đã nhận giấy phép, thành lập
và mở rộng hoạt động, gồm HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong
Leong; trong đó, HSBC và ANZ đã nhanh chóng khai trương nhiều điểm giao
dịch mới. Lợi thế của khối này và áp lực cạnh tranh đã được đề cập nhiều từ năm
2007 và nay đang dần hiện hữu.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, khối các tổ chức tín dụng nước ngoài tại
Việt Nam hiện có 45 chi nhánh của 33 ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên
doanh với hơn 20 chi nhánh phụ thuộc, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 8 tổ
chức tín dụng phi ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài; ngoài ra còn có 56 văn
phòng đại diện của các tổ chức tín dụng khác.
Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, nhóm thành viên này hiện đang hoạt
động hiệu quả. Dự tính, năm 2009, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân
hàng 100% vốn nước ngoài đạt mức thu nhập trước thuế đạt 2.612 tỷ đồng, nguồn
vốn huy động và dư nợ tín dụng tăng 17,8% và 10,8%, tổng tài sản có tăng 14%
so với cuối năm 2008; các ngân hàng liên doanh đạt thu nhập trước thuế 477 tỷ
đồng, huy động vốn tăng 18,2%, dư nợ tín dụng tăng 34,3%, tổng tài sản có tăng
18,3% so với cuối năm 2008.
Trong khi đó các ngân hàng trong nước dù lớn hay nhỏ đều rơi vào tình trạng khó
khăn. Khả năng thanh khoản hết sức hạn chế. Tình hình huy động gặp khó khăn,
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 5

QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
nguồn vốn huy động chạy lòng vòng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trong
khi lượng vốn từ dân cư chảy vào ngân hàng tăng lên không đáng kể.
Cuộc đua tăng lãi suất huy động tháng 02/2008 là một tất yếu không thể tránh
khỏi, đến nay khi NHNN tăng lãi suất cơ bản tiền đồng lên 12%/năm và gắn chặt
trần lãi suất cho vay theo qui định của luật dân sự, lãi suất huy động đạt mốc
16%/năm. Điều này tuân theo qui luật giá trị, rằng giá cả hàng hóa phụ thuộc vào
cung cầu, lãi suất chính là biểu hiện cho giá cả của một loại hàng hóa đặc biệt –
tiền tệ.
Thời gian qua, trước những biến động không thuận lợi cho hoạt động của ngành,
“bệnh” của các ngân hàng đã bộc phát. Tình trạng “ăn xổi, ở thì” là rõ nhất, khả
năng quản trị ngân hàng, đặc biệt là quản trị nguồn vốn nói riêng và quản trị rủi ro
nói chung của các ngân hàng Việt nam hiện tại được xếp loại “kém”. Khi NHNN
thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ, gần như ngay lập tức hệ thống rơi vào
khó khăn, khả năng thanh khoản đặt trong tình trạng báo động khẩn cấp.
Với mức tăng trưởng tín dụng bình quân của ngành là 54% năm 2007 thì giới hạn
30% tăng trưởng tín dụng năm nay được các ngân hàng đánh giá là cào bằng tất
cả, giống như chỉ thị 03 đối với cho vay chứng khoán và Quyết định số 02 của
NHNN về trần lãi suất huy động. Theo báo cáo tài chính năm 2007, tổng dư nợ
cho vay của ngân hàng Nam Á: 2.698 tỷ đồng, ngân hàng Thái Bình Dương:
2.700 tỷ đồng, ngân hàng Việt Á: 5.764 tỷ đồng, ngân hàng An Bình: 6.858 tỷ
đồng, ngân hàng Mỹ Xuyên: 1.264 tỷ đồng … Hầu như tất cả các ngân hàng này
đều đã sử dụng hết và vượt hạn mức qui định chỉ trong 02 tháng đầu năm 2008.
Hiện nay dư nợ của Ngân hàng Thái Bình Dương khoảng 4.800 tỷ đồng, tăng hơn
77% so với cả năm 2007 và đang bị buộc phải giảm dư nợ. Điều đó có nghĩa là
cán bộ tín dụng sẽ ngồi chơi từ nay đến… hết năm. Trong khi đó ở các ngân hàng
TMQD, hạn mức vẫn còn “rủng rỉnh”.
Hậu quả của việc bất chấp các nguyên tắc cơ bản của tín dụng, năm 2007 vừa qua
dư nợ tại các ngân hàng tăng vọt khi chất lượng tín dụng không đảm bảo. Dưới áp
lực của lợi nhuận và vì “lợi ích cá nhân”, công tác thẩm định được tiến hành sơ

sài, chiếu lệ, tình trạng cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng “bắt tay” khách
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 6
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
hàng, cò tín dụng trở nên phổ biến… là những nguyên nhân đặt các khoản vay
trong tình trạng “bất ổn”, có nguy cơ quá hạn hiện nay tại hầu hết các ngân hàng.
Thời báo kinh tế Việt nam ngày 02/6/2008 đã cung cấp cho độc giả một số liệu
đáng chú ý như sau: hiện Việt nam có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, ngân
hàng chính sách, ngân hàng phát triển; 6 ngân hàng liên doanh; 36 ngân hàng
thương mại cổ phần; 46 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 10 công ty tài chính; 13
công ty cho thuê tài chính; 998 quĩ tín dụng nhân dân cơ sở. Các đơn vị trên đều
có chức năng cho vay, là chức năng chính của ngân hàng. Dân số nước ta hiện nay
ước khoảng 86 triệu người, GDP khoảng 65 tỷ USD, số lượng các ngân hàng này
được cho là quá nhiều trong điều kiện hiện nay.
b. Sự đe dọa của sản phẩm thay thế
Cơ bản mà nói, các sản phẩm và dịch vụ của ngành ngân hàng Việt Nam có thể
xếp vào 5 loại:
• Là nơi nhận các khoản tiền (lương, trợ cấp, cấp dưỡng…)
• Là nơi giữ tiền (tiết kiệm…)
• Là nơi thực hiện các chức năng thanh toán
• Là nơi cho vay tiền
• Là nơi hoạt động kiều hối
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không cao lắm
do đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng cũng như các chứng từ, hóa đơn
trong các gói sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong
quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách hàng này thường chuyển
sang sử dụng một ngân hàng khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các dịch vụ
ngoài ngân hàng.
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt khiến cho
người tiêu dùng Việt Nam thường giữ tiền mặt tại nhà hoặc nếu có tài khoản thì
khi có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp trả

lương qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức thanh toán không
dùng tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân. Nhưng các
địa điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm
sang trọng, những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 7
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Ngay ở các siêu thị, người tiêu dùng cũng phải chờ đợi nhân viên đi lấy máy đọc
thẻ hoặc đi tới một quầy khác khi muốn sử dụng thẻ để thanh toán. Chính sự bất
tiện này cộng với tâm lý chuộng tiền mặt đã khiến người tiêu dùng muốn giữ và
sử dụng tiền mặt hơn là thông qua ngân hàng.
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có khá
nhiều lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình thức bảo
hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Đó
là chưa kể các hình thức không hợp pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc nào lãi
suất ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá
vàng đang sốt, tăng giảm đột biến trong ngày, trong khi đô la Mỹ ở thị trường tự
do cũng biến động thì lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức 7-8%
một năm.
c. Năng lực thương lượng của khách hàng
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ là việc
các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người tiêu dùng không
đồng thuận. Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ của
mình nhưng rõ ràng nó đã ảnh hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng tin
của khách hàng. Nhưng không vì thế mà ta có thể đánh giá thấp quyền lực của
khách hàng trong ngành ngân hàng tại Việt Nam.
Điều quan trọng nhất vẫn là: việc sống còn của ngân hàng dựa trên đồng vốn huy
động được của khách hàng. Nếu không còn thu hút được dòng vốn của khách
hàng thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào thải. Trong khi đó, như đã nói ở phần trên,
nguy cơ thay thế của ngân hàng ở Việt Nam, đối với khách hàng tiêu dùng, là khá
cao. Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng gần như không mất mát gì nếu

muốn chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư vào một nơi khác.
d. Năng lực thương lượng của các nhà cung cấp
Khái niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là những
cổ đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty chịu trách
nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam các ngân hàng
thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn cho mình những nhà cung cấp riêng tùy
theo điều kiện. Điều này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 8
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
họ không thể cung cấp cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà
cung cấp khác. Tuy nhiên khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ
thống, ngân hàng sẽ không muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn kém, điều này
lại làm tăng quyền lực của nhà cung cấp thiết bị đã thắng thầu.
Quyền lực của các cổ đông trong ngành ngân hàng thì như thế nào? Không nhắc
đến những cổ đông đầu tư nhỏ lẻ thông qua thị trường chứng khoán mà chỉ nói
đến những đại cổ đông có thể có tác động trực tiếp đến chiến lược kinh doanh của
một ngân hàng. Nhìn chung hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều nhận đầu tư của
một ngân hàng khác. Quyền lực của nhà đầu tư sẽ tăng lên rất nhiều nếu như họ
có đủ cổ phần và việc sáp nhập với ngân hàng được đầu tư có thể xảy ra. Ở một
khía cạnh khác, ngân hàng đầu tư sẽ có một tác động nhất định đến ngân hàng
được đầu tư.
e. Cường độ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành
Trong năm 2008, McKinsey dự báo doanh số của lĩnh vực ngân hàng bán lẻ ở
Việt Nam có thể tăng trưởng đến 25% trong vòng 5-10 năm tới, đưa Việt Nam trở
thành một trong những thị trường ngân hàng bán lẻ có tốc độ cao nhất châu Á.
Tuy khủng hoảng kinh tế làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, tác động xấu tới
ngành ngân hàng nhưng thị trường Việt Nam chưa được khai phá hết, tiềm năng
còn rất lớn. Ảnh hưởng tạm thời của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ khiến cho các
ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới, dẫn đến việc cường
độ cạnh tranh sẽ tăng lên. Nhưng khi khủng hoảng kinh tế qua đi, với một thị

trường tiềm năng còn lớn như Việt Nam, các ngân hàng sẽ tập trung khai phá thị
trường, tìm kiếm khách hàng mới, dẫn đến cường độ cạnh tranh có thể giảm đi.
Cường độ canh tranh của các ngân hàng càng tăng cao khi có sự xuất hiện của
nhóm ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thường sẵn có một
phân khúc khách hàng riêng, đa số là doanh nghiệp từ nước họ. Họ đã phục vụ
những khách hàng này từ rất lâu ở những thị trường khác và khi khách hàng mở
rộng thị trường sang Việt Nam thì ngân hàng cũng mở văn phòng đại diện theo.
Ngân hàng ngoại cũng không vướng phải những rào cản mà hiện nay nhiều ngân
hàng trong nước đang mắc phải, điển hình là hạn mức cho vay chứng khoán, nợ
xấu trong cho vay bất động sản. Họ có lợi thế làm từ đầu và có nhiều chọn lựa
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 9
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
trong khi với không ít ngân hàng trong nước thì điều này là không thể. Ngoài ra,
ngân hàng ngoại còn có không ít lợi thế như hạ tầng dịch vụ hơn hẳn, dịch vụ
khách hàng chuyên nghiệp, công nghệ tốt hơn (điển hình là hệ thống Internet
banking).
Quan trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng lưới rộng khắp trên nhiều
nước của ngân hàng ngoại. Để cạnh tranh với nhóm ngân hàng này, các ngân hàng
trong nước đã trang bị hệ thống hạ tầng công nghệ, sản phẩm dịch vụ, nhân sự
khá quy mô. Lợi thế của ngân hàng trong nước là mối quan hệ mật thiết với khách
hàng có sẵn. Ngân hàng trong nước sẵn sàng linh hoạt cho vay với mức ưu đãi đối
với những khách hàng quan trọng của họ.
2. Phân tích chu kỳ phát triển của ngành
Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua hơn 55 năm xây dựng và phát
triển, với nhiều chặng đường gay go và phức tạp nhưng vẫn ổn định và phát triển
tốt. Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho đến nay, chặng đường đổi mới căn
bản và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN. Nghị định 53/HĐBT ngày
26/3/1988 đổi mới mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng VN, với sự ra đời của hệ
thống ngân hàng chuyên doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới ngân hàng được
hoàn thiện thông qua việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng vào ngày 24/5/1990

(Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng
và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống NHVN
từ “một cấp” sang “hai cấp”. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi
nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân
hàng, là ngân hàng duy nhất được phát hành, là ngân hàng của các ngân hàng, là
ngân hàng của Nhà nước…, còn hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ
ngân hàng do các tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân
hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính.
Tháng 12/1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được
Quốc hội nâng lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1/10/1998) và
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 10
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
sau đó Luật NHNN và Luật các TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003,
2004.
Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu sự ra đời và
phát triển khoảng trên 19 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng đường trên, hệ
thống NHTM VN đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn điều lệ không ngừng
gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và hiệu quả trong kinh
doanh.
Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối năm 2005 đã có những buớc phát
triển mạnh phủ khắp quận huyện và hình thành cả trong các trường học. Hệ thống
NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM nhà nước (Ngân hàng ngoại thương VN,
Ngân hàng đầu tư và phát triển VN, Ngân hàng công thương VN, Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu
Long), 36 NHTM cổ phần đô thị và nông thôn, 29 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, 04 ngân hàng liên doanh. Trong đó Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn VN có mạng lưới rộng nhất với hơn 100 chi nhánh cấp 1 và 2000 chi
nhánh cấp 2-4 phủ khắp huyện và cả hệ thống ngân hàng lưu động.
Vốn điều lệ của các NHTM VN không ngừng gia tăng, NHTMNN sau nhiều lần

bổ sung vốn đã nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên 20.000 tỷ
đồng tăng gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTMCP
được gia tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ,
phát hành thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều lệ NHTMCP đến cuối năm
2005 tăng gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều NHTMCP có vốn điều lệ trên 500 tỷ
đồng-1000 tỷ đồng.
Hệ thống NHTM VN đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và tăng
trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với nhiều hình thức huy động vốn
tương đối đa dạng, NHTM VN đã huy động vốn hàng trăm tỷ đồng (năm 2005
tăng gấp 30 lần so với năm 1990-trên 600.000 tỷ đồng, tại TP.HCM các NHTM
huy động đến cuối năm 2005 là 184.600 tỷ đồng gấp 2,8 lần so với năm 2001) từ
các nguồn vốn trong xã hội, tăng dư nợ cho vay với mọi thành phần kinh tế (dư nợ
năm 2005 tăng 40 lần so với năm 1990, tại TP.HCM dư nợ cho vay cuối năm
2005 của các NHTM 170.200 tỷ đồng gấp 3 lần so với năm 2001), tăng đầu tư vào
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 11
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
những chương trình trọng điểm quốc gia, qua đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, kiểm soát lạm
phát, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (GDP tăng bình quân
7.5% trong 5 năm 2001-2005), góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội (trong 5
năm 2001-2005 cả nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa đói
giảm nghèo (tỷ lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích
(chi lương, thu chi hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ
ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh
tế…
Hiệu quả kinh doanh của các NHTM VN nhìn chung có những chuyển biến tích
cực, lợi nhuận tăng trưởng khá cao, có những NHTM tỷ suất lợi nhuận ròng trên
vốn tự có (ROE) đạt trên 20%, riêng tại TP.HCM kết thúc năm 2005 các NHTM
đã có những kết quả kinh doanh (thu nhập-chi phí) tăng khá cao so với năm 2004

(NHTMNN tăng 73,9%, NHTMCP tăng 41,3%), dư nợ tồn đọng giảm dần. Ngân
hàng nước ta đang trải qua thời kỳ khá phát triển
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực hệ thống NHTM VN vẫn còn quá nhiều
điểm yếu kém và tồn tại. Trong bài phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm 55 năm ngày
thành lập ngành ngân hàng VN (1951-2006) nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã
phát biểu “Hệ thống chính sách, pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng chưa
đáp ứng được yêu cầu đổi mới triệt để, toàn diện ngành ngân hàng và hội nhập
kinh tế quốc tế… sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng
VN còn yếu ”. Vì vậy, để NHTM VN có thể đứng vững trong xu thế hội nhập,
thực hiện các cam kết trong thỏa thuận khung về dịch vụ trong khối ASEAN, các
cam kết trong Hiệp định thương mại song phương VN-Hoa Kỳ (BTA), và những
nghĩa vụ khi VN gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO
3. Phân tích môi trường quốc gia và toàn cầu
a. Môi trường trong nước:
- về dân số và thói quen người tiêu dùng
Việt nam hiện có hơn 85 triệu người, trong đó hơn 75% là dân số trẻ. Lớp trẻ, từ
21 đến 29 tuổi, đóng vai trò chủ đạo trong việc định hình thị trường ngân hàng
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 12
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
bán lẻ, tuy nhỏ bé nhưng đang rất phát triển tại Việt Nam. So với thế hệ trước,
những người trẻ tuổi không ngại vay tiền ngân hàng và có xu hướng thích sử dụng
kênh phân phối sản phẩm theo kiểu “điều khiển từ xa”. Theo kết quả nghiên cứu
13.000 khách hàng của các ngân hàng trong khu vực thì khoảng cách về sở thích
và và thói quen tiêu dùng giữa 2 thế hệ ở Việt Nam có độ khác biệt rõ ràng hơn
hẳn so với 11 nước châu Á khác.
Mặc dù thị trường ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam phát triển khá mạnh trong những
năm gần đây, nhưng qui mô vẫn còn khiêm tốn. Tài sản ngân hàng Việt Nam
khoảng 75 tỉ USD (khoảng 123%GDP) vào cuối năm 2006, trong khi đó, ở Thái
Lan là 226 tỉ USD (110% GDP) và ở Malaysia là 302 tỉ USD (195% GDP). Chỉ
có 10% người dân Việt Nam có giao dịch với ngân hàng. Tuy nhiên, cũng như các

khu vực kinh tế khác, ngành ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng. Theo dự
đoán, doanh thu từ ngành ngân hàng bán lẻ sẽ tăng khoảng 25% mỗi năm trong
vòng 5-10 năm tới. Việt Nam sẽ trở thành 1 trong những thị trường có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất châu Á nhờ vào nền kinh tế năng động có tốc độ tăng trưởng
gần bằng Trung Quốc và Ấn Độ, với mức thu nhập đầu người đang tăng và các
dịch vụ ngân hàng còn chưa thâm nhập sâu.
Theo kết quả của khảo sát, đối tượng từ 21 đến 29 tuổi tiếp cận với nhiều sản
phẩm ngân hàng hơn những đối tượng ngoài 29 tuổi; cụ thể 2,3 sản phẩm/người
trẻ tuổi so với 1,9 sản phẩm/người lớn tuổi. 90% người trẻ tuổi có tài khoản tiết
kiệm, trong khi đó, chỉ 55% những người ngoài 30 có tài khoản. 89% người trẻ
tuổi có thẻ tín dụng, so với 40% những đối tượng khác của cuộc khảo sát. Lớp trẻ
còn sẵn sàng sử dụng các kênh phân phối “điều khiển từ xa” như điện thoại hay
Internet, nếu như các ngân hàng đảm bảo được vấn đề an toàn và bảo mật. Lớp trẻ
còn sẵn sàng vay tiền từ ngân hàng hơn, 45% những người trẻ tuổi đồng ý rằng
vay ngân hàng sẽ cải thiện cuộc sống của họ, trong khi đó, chỉ 31% đối tượng ở
độ tuổi ngoài 30 có cùng ý kiến. Thanh niên không còn giữ quan điểm cũ như thế
hệ trước của họ rằng đi vay tiền là thiếu khôn ngoan và không an toàn.
Theo Kết khảo sát cho thấy sự khác biệt rõ rệt về thói quen tiêu dùng giữa các
vùng địa lý ở Việt Nam. Những người sống ở thành phố Hồ Chí Minh có thái độ
và cách nhìn thoáng hơn người Hà Nội. 42% những người được hỏi ở thành phố
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 13
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Hồ Chí Minh trả lời rằng họ sẽ sử dụng các dịch vụ ngân hàng từ xa so với 24% ở
Hà Nội. Chỉ có 39% người ở miền Nam cho rằng việc vay tiền từ ngân hàng là
thiếu khôn ngoan trừ vay tiền để mua nhà so với 46% người miền Bắc có cùng ý
kiến
- về pháp luật:
Sự thay đổi luật pháp luôn ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh
doanh cho các pháp nhân kinh tế, do vậy sự thay đổi này ảnh hưởng mạnh đến
hoạt động của ngân hàng. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng có thời hạn và được ký

kết trước hoặc sau khi có văn bản pháp luật ban hành và có hiệu lực, do vậy nếu
nội dung một hợp đồng tín dụng ký kết trước khi văn bản pháp luật ban hành mà
trái với nội dung của văn bản pháp luật đó thì rất dễ dàng nhận lấy rủi ro. Đối với
doanh nghiệp nếu bị một văn bản pháp luật chi phối các hành vi hợp đồng mà họ
đã ký kết thì nhất định việc kinh doanh của họ sẽ gặp nhiều khó khăn và những
khó khăn này sẽ dẫn đến việc họ sẽ không trả được nợ cho ngân hàng. Môi trường
pháp lý còn gây rủi ro cho ngân hàng khi môi trường pháp lý đó chưa hoàn thiện
hoặc cách thức thi hành còn chưa đảm bảo tính thời gian, tính nghiêm minh, phát
sinh nhiều chi phí do thủ tục tố tụng kéo dài.
Ngoài Pháp lệnh ngân hàng và các văn bản liên quan, việc thực hiện và giải quyết
các hợp đồng tín dụng khi đáo hạn còn chịu sự chi phối của Bộ Luật dân sự, Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (26/03/1994), Pháp lệnh thi hành án
(17/04/1993), Luật Phá sản Doanh nghiệp… Do đó khi nợ đáo hạn, nếu con nợ
mất khả năng chi trả hoặc cố tình trốn tránh thanh toán nợ thì ngân hàng chỉ có
con đường hợp pháp duy nhất là khởi kiện trước tòa án có thẩm quyền. Vấn đề tố
tụng trước tòa án hiện nay quá nhiêu khê và thường kéo dài qua nhiều giai đoạn
làm mất nhiều thời gian, dễ dàng tạo điều kiện thuận lợi cho con nợ có ý đồ, đồng
thời gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Tình trạng này thường làm cho ngân hàng
phải chịu đọng vốn trong lúc ngân hàng phải chịu lãi suất cho người gửi. Đây là
một thiệt hại lớn cho ngân hàng chưa kể các chi phí phát sinh trong thủ tục tố
tụng. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng đặc biệt là chính sách lãi suất, chính sách
tín dụng đều có liên quan và ảnh hưởng mạnh đến hoạt động ngân hàng. Khi ngân
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 14
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
hàng Nhà nước hạ lãi suất có thể dẫn đến các ngân hàng thương mại không thu
hút được vốn tiền mặt và có thể mất khả năng thanh toán.
- về công nghệ:
Công nghệ cao đang được áp dụng ngày càng nhiều trong kinh doanh, đặc biệt
trong các tổ chức cung ứng dịch vụ có liên quan đến việc giao dịch trực tiếp đối
với khách hàng như ngân hàng, môi giới chứng khoán, v.v… Công nghệ giao dịch

với công nghệ thông tin đã được các nước tiên tiến vận dụng và phát triển với tốc
độ cao trong lĩnh vực dịch vụ như thanh toán điện tử, InternetBanking, thanh toán
Thẻ, chuyển tiền điện tử nhằm nâng cao công suất dịch vụ, tiết kiệm chi phí
nhân công, chi phí cho dịch vụ, mở rộng giao diện với khách hàng và quản lý tốt
hơn dữ liệu về khách hàng, đáp ứng yêu cầu của khách hàng tốt hơn về chất lượng
dịch vụ cũng như thời gian. Sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ giao dịch
được hiểu là sự thoả mãn của khách hàng trong khoảng thời gian giao dịch trực
tiếp với doanh nghiệp dịch vụ kể cả sự có mặt hoặc không có mặt của nhân viên
doanh nghiệp dịch vụ.
Việc áp dụng công nghệ cao trong dịch vụ giao dịch là xu hướng phát triển tất yếu
trên con đường hội nhập, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Hiện nay, hệ thống
ngân hàng Việt Nam chủ yếu vẫn áp dụng hình thức dịch vụ giao dịch trực diện
giữa khách hàng và nhân viên giao dịch (kiểu giao dịch ngân hàng truyền thống).
Hình thức này có thể phù hợp trong giai đoạn nhất định, song với sự phát triển ồ
ạt của công nghệ tiên tiến, các Ngân hàng cần xem xét chiến lược áp dụng công
nghệ hiện đại để giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc và tránh
được thái độ quan liêu, cửa quyền, thờ ơ của nhân viên phục vụ trong giao dịch.
Có thể nói, thanh toán là một trong những lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất.
Nhiều người kỳ vọng, sự phát triển không ngừng của công nghệ sẽ giải quyết
được các câu hỏi hóc búa lâu nay như làm sao để thiết lập liên minh thanh toán
giữa các NH, làm sao để thúc đẩy sự kết nối giữa NH với các thành phần kinh tế
chủ chốt, đặc biệt là các lĩnh vực liên quan đến thương mại điện tử, bán lẻ, chứng
khoán, viễn thông cũng như khắc phục thách thức do sự khác biệt về trình độ quản
lý và ứng dụng công nghệ của NH,….
- Về kinh tế và chính trị:
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 15
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới tiếp tục được thực hiện toàn diện
và sâu sắc hơn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, 5 năm qua GDP tăng bình quân 7,5%,
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm tới được Quốc hội thông qua, phấn đấu

sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Về kinh tế, dự kiến tốc độ
tăng GDP đạt tối thiểu 7.5-8.0%/ năm. Với tốc độ tăng trưởng đó, tới năm 2010
GDP của Việt nam sẽ đạt xấp xỉ 100 tỷ USD, GDP trên đầu người sẽ tăng từ 640
USD năm 2005 lên 1050-1100 USD. Khi đó nước ta sẽ vượt qua ngưỡng nước
đang phát triển có thu nhập thấp để ghi tên mình vào nhóm nước có thu nhập
trung bình. Với GDP đầu người đó nước ta đồng thời taọ được điều kiện để bước
vào giai đoạn “cất cánh” – giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Dân tộc Việt nam thực hiện các nhiệm vụ trọng đại đó trong bối cảnh mới – đất
nước hội nhập toàn diện và sâu sắc hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nước
ta nằm trong khu vực kinh tế phát triển năng động. Từ mấy thập kỷ qua thế giới
đã chứng kiến sự dịch chuyển trung tâm tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ Đại tây
dương sang Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á. Quá
trình này vẫn đang tiếp tục diễn ra, tạo cơ hội lớn để phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Nằm trong khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới, Việt nam có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, xã hội chính trị ổn định, môi trường kinh doanh ngày
càng hấp dẫn đã trở thành điểm đến được cộng đồng các nhà đầu tư quốc tế rất
quan tâm.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt nam đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa và
hội nhập, đất nước sẽ chứng kiến sự chuyển dịch kinh tế nhanh chóng trên cả 3
mặt: khu vực công nghiệp và dịch vụ, trong đó đặc biệt là dịch vụ tăng trưởng
nhanh, chiếm tỷ trọng vượt trội; cơ cấu lao động cũng sẽ có sự dịch chuyển tương
ứng; kinh tế ngoài nhà nước (bao gồm cả kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) có
điều kiện phát triển nhanh.
b. Môi trường toàn cầu:
Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành môi
trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới.
Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khác
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 16
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY

biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước toàn cầu hóa. Những
nước và các nhóm xã hội yếu thế thường bị thua thiệt do tác động từ những mặt
trái của toàn cầu hóa và luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị động.
Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu hóa lại
coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những mặt tích
cực của nó. Cho dù vậy, toàn cầu hóa vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới hình thức
này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã
hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn.
Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang chuyển thành
một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ
thông tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ
nơi nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế (1). Từ cuối thế kỷ XX
trở lại đây, sự chuyển dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các
nước gia tăng ngày càng nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước đây.
Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ
bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng
thực lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng
tham dự vào cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt
khác, cuộc cạnh tranh quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày
càng quyết liệt đó cũng khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc
tế hóa và tập đoàn hóa khu vực.
Toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực làm gia tăng sự liên kết trực
tiếp giữa các doanh nghiệp của các nước, nhưng đồng thời cũng buộc các doanh
nghiệp phải trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, toàn cầu
hóa hoàn toàn không phải là "trò chơi" hai bên đều thắng, mà nó thường gây ra
hiệu ứng hai mặt. Có những khu vực, những nước và doanh nghiệp giàu lên nhanh
chóng nhờ toàn cầu hóa; nhưng có những khu vực, những nước và doanh nghiệp
bị thua thiệt hoặc thậm chí bị đẩy ra khỏi dòng chảy sôi động của thương mại và
đầu tư quốc tế (2) Ngày nay, muốn tránh thua thiệt và được hưởng lợi trong cạnh
tranh quốc tế, thì vấn đề cốt lõi là phải tăng cường thực lực kinh tế và chủ động

hội nhập.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 17
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Động lực của toàn cầu hóa chính là lợi ích mà các lực lượng tham dự có thể thu
được nhờ vào sự mở rộng thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công nghệ đang thay đổi,
làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc quốc tế, tạo điều kiện cho việc
khuyếch trương các hoạt động sản xuất và tiếp thị trên khắp thế giới. Song, do
khởi điểm mà các nước gia nhập quá trình này rất khác nhau, lợi ích mà họ thu
được từ toàn cầu hóa và tự do hóa không thể ngang nhau. Những nước kém phát
triển nhất hoặc những nhóm xã hội yếu thế do hạn chế về năng lực cung ứng các
nguồn lực, họ không được lợi trong thương mại. Trong lúc nhiều quốc gia thuộc
nhóm đang phát triển đã mạnh dạn áp dụng chính sách mở cửa, thu hút FDI và
đẩy nhanh thương mại, nhờ đó đã rút ngắn được khoảng cách so với các nước
phát triển.
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, chúng ta đang trong quá trình hội
nhập WTO, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi đan xen với
những thách thức khó lường. Đây là thách thức không nhỏ đối với một nước đang
phát triển như Việt Nam, đòi hỏi phải quyết tâm và nỗ lực rất lớn, nhất là từ phía
Chính phủ và các ngành kinh tế chủ chốt. Trong lĩnh vực ngân hàng, ngành ngân
hàng đã chủ động thực hiện các chủ trương chính sách của Chính phủ về đổi mới
kinh tế và đã có nhiều chuyển biến tích cực, đã xây dựng được những cơ sở quan
trọng cho một nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng phù hợp dần với cơ chế thị
trường, hiện đại hóa công nghệ và tự do hóa hoạt động kinh doanh tiền tệ, góp
phần củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng. Trong đó, thể chế hoạt động ngân
hàng đã được hoàn thiện đáng kể, cơ chế điều hành chính sách tiền tệ được đổi
mới căn bản, các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về hoạt động của các ngân
hàng thương mại đang từng bước được áp dụng, chất lượng tín dụng vì thế đã
được cải thiện đáng kể.
Nhằm chủ động trong quá trình hội nhập, ngành ngân hàng cần nhận thức đầy đủ

những lợi thế có thể phát huy và những khó khăn thách thức phải vượt qua.
4. Cơ hội và những mối đe dọa đối với hệ thống ngân hàng
Việt Nam
a. Cơ hội đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 18
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam,
nhất là trên thị trường tài chính khu vực.
Hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân hàng trong nước
phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn
tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ
quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Trong quá trình hội nhập và
mở cửa thị trường tài chính trong nước, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù
hợp dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình
đẳng và từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng
cân bằng hơn, thị phần của NHTMNN có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm
ngân hàng khác, nhất là tại các thành phố và khu đô thị lớn. Tuỳ theo thế mạnh
của mỗi ngân hàng, sẽ xuất hiện những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên
môn hóa như ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời
hình thành một số ngân hàng qui mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu
quả. Kinh doanh theo nguyên tắc thị trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải
có cơ chế quản lý và sử dụng lao động thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và
đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu
quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường tài chính.
- Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài
chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính –
ngân hàng, các NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư
vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ
chức tài chính quốc tế. Vì thế, các ngân hàng cần tăng cường hợp tác để chuyển
giao công nghệ, phát triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiên tiến, khai thác thị

trường. Trong quá trình hội nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của các
ngân hàng trong nước sẽ tạo điều kiện phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế,
tài trợ thương mại, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công
nghệ.
- Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính
quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên,
góp phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 19
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
sẽ phản ứng, điều chỉnh và hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị
trường trong nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
b. Những khó khăn và thách thức đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam
- Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh
về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo
lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về
mở chi nhánh và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng
khách hàng và tiền gửi được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ ngân
hàng, trong khi các tổ chức tài chính Việt Nam còn nhiều yếu kém:
+ Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt động
và sức cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém, vốn
nhỏ, năng lực tài chính thấp, chất lượng tài sản chưa cao;
+ Hoạt động tín dụng được mở rộng nhanh chóng nhưng rủi ro tín dụng
chưa được kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với chuẩn mực
quốc tế và yêu cầu hội nhập;
+ Sản phẩm và dịch vụ còn đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, chất lượng
dịch vụ thấp. Qui trình quản trị trong các TCTD Việt Nam chưa phù hợp với các
nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, tính minh bạch thấp, chưa hình thành môi
trường làm việc và văn hóa kinh doanh lành mạnh do vai trò và trách nhiệm của
các vị trí công tác chưa rõ ràng, hệ thống thông tin quản lý và quản lý rủi ro chưa
hiệu quả;

+ Hạ tầng công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán lạc hậu và có nguy
cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát
triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, năng lực quản lý điều hành của NHNN và
khả năng chống đỡ rủi ro của các NHTM còn nhiều hạn chế;
+Thể chế của hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, hệ thống pháp luật về
ngân hàng thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu cải cách và lộ trình hội nhập.
Vì thế, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng
và hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn chế nêu trên và
sự phân biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả
năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 20
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
hàng nước ngoài cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân
hàng Việt Nam có thể tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát
một số tổ chức tài chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần,
liên kết kinh doanh; một số tổ chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy
cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro
khi tham gia các hoạt động ngân hàng quốc tế.
- Mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác động từ bên
ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị
trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với
các cơn sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp
đó, thị trường vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ
thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây lên.
III. phân tích môi trường bên trong tại ngân hàng ACB
1. Chuỗi giá trị của ngân hàng ACB
a. Đầu vào:
Năm 1994, vốn điều lệ của ACB tăng từ 20 tỷ đồng lên 70 tỷ đồng từ việc phát
hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu. Năm 1998, vốn điều lệ được nâng lên 341 tỷ
đồng từ nguồn vốn cổ đông trong nước và các tổ chức nước ngoài. Năm 2005

Standard Chartered Bank trở thành cổ đông chiến lược của ACB.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 21
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Phần vốn thặng dư từ việc phát hành cổ phiếu cho cổ đông nước ngoài và lợi
nhuận giữ lại hàng năm được dùng để tăng vốn điều lệ. Đầu năm 2006, vốn điều
lệ ACB tăng đến 1.100,05 tỷ đồng.
Kể từ ngày 25/05/2007 vốn điều lệ của ACB là 2.530.106.520.000 đồng. đó là
một con số khổng lồ, vốn điều lệ nhiều tạo điều kiện để đầu tư cho ngân hàng trên
mọi mặt
b. Nghiên cứu và phát triển
Với mục tiêu thu hút tạo sự khác biệt và là ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam,
ngân hàng ACB đã là ngân hàng tiên phong trong việc cung ứng nhiều sản phâm,
dịch vụ hiện đại đầu tiên trong nước như việc ACB là ngân hàng tiên phong trong
cung cấp các dịch vụ địa ốc cho khách hàng tại Việt Nam, vào tháng 11/2003,
ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên tại Việt Nam phát hành thẻ ghi nợ
quốc tế ACB-Visa Electron. Trong năm 2003, các sản phẩm ngân hàng điện tự
phone banking, mobile banking, home banking và Internet banking được đưa vào
hoạt động trên cơ sở tiện ích của TCBS. Vào tháng 12/2006, đưa sản phẩm quyền
chọn vàng, quyền chọn mua bán ngoại tệ, ACB trở thành một trong các ngân hàng
đầu tiên của Việt Nam được cung cấp các sản phẩm phát sinh cho khách hàng. Để
làm được những điều đó, ngân hang ACB đã phải có một quá trình nghiên cứu kỹ
thị trường trong và ngoài nước, trên cơ sở đó đưa ra và phát triển các sản phẩm.
c. Dịch vụ cung ứng:
 Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn dưới các hình thức tiền gửi
có kỳ hạn, không kỳ hạn, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các
tổ chức trong nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác;
 Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu
và giấy tờ có giá; hùn vốn và liên doanh theo luật định;
 Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
 Thực hiện kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và thanh toán quốc tế, huy động

các loại vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ
với nước ngoài khi được NHNN cho phép;
 Hoạt động bao thanh toán.
d. Marketing:
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 22
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
Slogan của ngân hàng Á Châu ACB là:”Ngân hàng của mọi nhà” nghe rất thân
thiện. Người tiêu dùng còn có thể nhận biết ra thương hiệu Ngân hàng ACB qua
bài hát được quảng cáo rất quen thuộc. Quảng cáo và PR đang được ngân hàng sử
dụng triệt để. Ngân hàng sử dụng nhiều công cụ khác nhau như quảng cáo trên ti
vi, báo chí, đặt pano tấm lớn trên các tuyến đường sầm uất , tài trợ cho nhiều sự
kiện liên quan đến giáo dục, đầu tư, hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và là nhà
hảo tâm đóng góp trong nhiều hoạt đông. Đặc biệt là việc tài trợ cả một đội bóng
đá, đó là đội bóng đá ACB Hà Nội, ngoài ra đăng báo viết và hàng loạt hình thức
khác. Về mức chi phí của các chương trình có khi lên đến hàng tỷ chi ra đồng.Tất
cả những hoạt động đó đã làm nổi bật lên vai trò của ACB
e. Dịch vụ khách hàng:
Các chuyên viên tư vấn tài chính cá nhân (PFC) của ACB sẽ hỗ trợ tối đa những
khách hàng có nhu cầu vay tiền, gửi tiền hay làm thẻ… nhưng không có điều kiện
tới ngân hàng.
Đội ngũ PFC của ACB đến tận nơi tư vấn trực tiếp, hướng dẫn các thủ tục cần
thiết. Với khách hàng có nhu cầu làm thẻ hay vay tiền, PFC sẽ tư vấn các sản
phẩm dịch vụ thẻ và cho vay phù hợp với nhu cầu, khả năng tài chính của từng
khách hàng, hướng dẫn làm thủ tục nhanh, tiết kiệm chi phí đi lại. Bên cạnh đó,
các chuyên viên PFC cùng phối hợp với khách hàng lập kế hoạch trả lãi và vốn
vay hợp lý cho ngân hàng dựa trên nguồn thu nhập, chi phí sinh hoạt hàng tháng
của gia đình và bản thân khách hàng nhằm đảm bảo cuộc sống của khách hàng khi
vay vốn tại ACB.
Với khách hàng có nhu cầu gửi tiền, PFC sẽ tư vấn trong việc lựa chọn kỳ hạn gửi
tiền thích hợp, linh hoạt sử dụng số tiền gửi tại ACB phục vụ cho kế hoạch đầu tư

hay những khoản tiêu dùng đột xuất nhưng vẫn nhận tiền lãi cao. Ngoài ra, đội
ngũ PFC còn hướng dẫn khách hàng có các quyết định đầu tư, cung cấp các thông
tin tài chính hữu ích, hỗ trợ khách hàng xây dựng kế hoạch sử dụng vốn và kinh
doanh
ACB không thu phí đối với dịch vụ Tư vấn tài chính cá nhân do xác định đây là
dịch vụ gia tăng giá trị cho khách hàng khi giao dịch tại ngân hàng. ACB là ngân
hàng Việt Nam đầu tiên triển khai đội ngũ PFC tư vấn sản phẩm ngân hàng tận
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 23
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
nơi với quy mô rộng. ACB đã xây dựng đội ngũ PFC với hơn 500 chuyên viên
triển khai tại 170 đơn vị trên tổng số 220 chi nhánh, phòng giao dịch trên toàn
quốc
g. Đầu ra:
Trong huy động vốn, ACB là ngân hàng có nhiều sản phẩm tiết kiệm cả về nội tệ
lẫn ngoại tệ và vàng thu hút mạnh nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Các sản phẩm
huy động vốn, của ACB rất đa dạng thích hợp với nhu cầu của dân cư và tổ chức.
Một ví dụ điển hình: ACB là ngân hàng đầu tiên tung ra thị trường sản phẩm tiết
kiệm ngoại tệ có dự thưởng, trị giá của giải cao nhất lên đến 350 triệu đồng. Hình
thức này đã thu hút mạnh nguồn vốn từ dân cư và tạo nên sự khác biệt rất lớn của
ACB vào những năm 1990 và đầu 2000.
Các dịch vụ ngân hàng do ACB cung cấp có hàm lượng công nghệ cao, phù hợp
với xu thế ứng dụng công nghệ thông tin và nhu cầu khách hàng tại từng thời kỳ.
h. Cơ sở hạ tầng:
Với định hướng “Hướng tới khách hàng”- năng động trong tiếp cận khách hàng và
đa dạng hóa kênh phân phối - kể từ khi thành lập ACB không ngừng mở rộng
mạng lưới kênh phân phối đa năng nhưng vẫn có thể cung cấp cho khách hàng các
sản phẩm chuyên biệt. Đến tháng 10/2006, ngoài Hội sở chính tại TP. Hồ Chí
Minh, ACB đã có một Sở giao dịch, 69 chi nhánh và phòng giao dịch tại những
vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc:
- Tại TP. Hồ Chí Minh: Sở giao dịch, 25 chi nhánh và 16 phòng giao dịch.

- Tại khu vực phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh): 6 chi nhánh
và 8 phòng giao dịch.
- Tại khu vực miền Trung (Đà Nẵng, Daklak, Khánh Hòa, Hội An, Huế): 5 chi
nhánh và 1phòng giao dịch.
- Tại khu vực miền Tây (Long An, Cần Thơ, An Giang, Cà Mau): 4 chi nhánh.
- Tại khu vực miền Đông (Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu): 3 chi nhánh và 1
phòng giao dịch.
i. Hệ thống thông tin:
ACB đã xây dựng Dự án đổi mới công nghệ ngân hàng từ năm 1999 bởi vì ý thức
rõ việc đầu tư sớm để nâng cao trình độ công nghệ tin học của mình là rất quan
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 24
QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC GVHD:Th.S SÁI THỊ LỆ THỦY
trọng. Giai đoạn I của Dự án này là triển khai áp dụng hệ quản trị nghiệp vụ ngân
hàng bán lẻ có tên là TCBS. Đặc điểm của hệ chương trình này là hệ thống mạng
diện rộng, trực tuyến, có tính an toàn và năng lực tích hợp cao, xử lý các giao dịch
tại bất kỳ chi nhánh nào theo thời gian thực với cơ sở dữ liệu quan hệ (relational)
và tập trung (centralised), cho phép ngân hàng thiết kế được nhiều sản phẩm hơn
và tạo ra nhiều tiện ích hơn để phục vụ khách hàng. Tất cả chi nhánh và phòng
giao dịch đều được nối mạng với toàn hệ thống và khách hàng có thể gửi tiền
nhiều nơi rút tiền nhiều nơi. Hệ thống này cho phép Hội sở có thể kiểm tra kiểm
soát hoạt động của từng nhân viên giao dịch, tra soát số liệu của hệ thống một
cách tức thời phục vụ công tác quản lý rủi ro.
Từ giữa năm 2004, ACB khởi động giai đoạn II của Dự án, gồm có các cấu phần
nâng cấp máy chủ, thay thế phần mềm xử lý giao dịch thẻ ngân hàng bằng một
phần mềm mới có khả năng tích hợp với nền công nghệ tin học hiện nay của
ACB, và lắp đặt hệ thống máy ATM.
Có thể nói ACB đã có bước đột phá đầu tiên ở giai đoạn I là chuyển mình từ một
hệ thống gồm các mạng cục bộ sang một hệ thống mạng diện rộng, và ở giai đoạn
II tiến thêm một bước nâng cao tính an toàn, bảo mật và năng lực tích hợp.
Một điều rất quan trọng là ACB làm chủ hoàn toàn được các ứng dụng TCBS.

Đây là một loại năng lực cốt lõi mà không phải ngân hàng nào ở Việt Nam cũng
có được.
ACB là thành viên của Hiệp hội SWIFT (Society for Worldwide Interbank
Financial Telecommunication), sử dụng công cụ viễn thông bảo đảm phục vụ
khách hàng trên toàn thế giới trong suốt 24 giờ mỗi ngày.
Ngoài ra, ACB cũng sử dụng các thiết bị chuyên dùng của Reuteurs, gồm có
Reuteurs Monitor, dùng để xem thông tin tài chính, và Reuteurs Dealing System,
dùng để thực hiện giao dịch mua bán ngoại tệ với các tổ chức tài chính.
k. Quản trị vật tư:
Ngân hàng đã ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại trong việc quản lý vật tư trong
các khâu quản lý vật tư, nhân sự. Việc quản lý vật tư một cách có hiệu quả giúp
cho ngân hàng từ đó đưa ra các kế hoạch, quyết định và chiến lược kinh doanh
hợp lý giúp giảm chí phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
NHÓM 13- LỚP K12KDN4 Trang 25

×