Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tầm quan trọng của các thuật ngữ kinh tế potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.59 KB, 10 trang )

Tầm quan trọng của các thuật ngữ kinh tế
Bài viết của ông Nguyễn Ngọc Bích Từ sự sai lầm
ngữ nghĩa đến sai lầm hiện thực (DNSGCT 377) đã
cho độc giả một phân tích rất có giá trị về sự tách biệt
giữa hai khái niệm quản lý và quản trị doanh nghiệp.
Ở đây chúng ta đang tạm dùng chữ “quản lý” thay
cho “management” và “quản trị” thay cho
“administration”.

Hai khái niệm này cho thấy rõ hai phân tầng riêng biệt
trong quá trình điều hành doanh nghiệp. Tại tầng 1, ta
chỉ có thể giải quyết các vấn đề thuộc về
“management”, trong khi tại tầng 2, ta phải đối mặt
với các vấn đề thuộc về “aministration” được ông
Bích dịch là tầng Kỷ Cương, và dẫn chiếu đến khái
niệm “corporate governance”.
Tôi muốn được đi sâu hơn nữa vào khái niệm
“governance”, một khái niệm hiện chưa được tiếng
Việt biết đến vì… quá mới. Việc dịch lại nó theo nghĩa
“quản trị” hay “quản lý” đều không diễn tả được nội
hàm của thuật ngữ. Trong trường hợp bắt buộc phải
sử dụng, cần phải có một hình thức dẫn chiếu khác
để người đọc có thể hiểu được cốt lõi của vấn đề. Tôi
lựa chọn cách tiếp cận kinh tế học, bởi thuật ngữ đã
bắt rễ sâu vào trong nhiều khái niệm kinh tế.
Bản chất của Governance
Thuật ngữ Governance trong tiếng Anh la một biến
thể của government, chỉ hành động to govern mà
chúng ta vẫn hiểu trong tiếng Việt là “cai trị”, “chỉ huy”,
hoặc “lãnh đạo”. Government có một nghĩa để chỉ
chính phủ, trong bối cảnh mô tả bộ máy nhà nước.


Nó còn có một nghĩa khác là hành động lãnh đạo,
mặc dù nghĩa này rất ít được sử dụng. Còn
governance tuy cùng mang nghĩa lãnh đạo, nhưng
không có cùng nội hàm. Khác biệt ở đâu?
Government là sự lãnh đạo trong một tổ chức mà vai
trò và nhiệm vụ của mỗi thành viên được phân định
rõ ràng. Nói cách khác, government chỉ có thể áp
dụng được trên những tổ chức có cấu trúc kim tự
tháp, nghĩa là có một người quyết định tuyệt đối. Đó
là mô hình của chính phủ với người đứng đầu là thủ
tướng, dưới đó là các bộ, các sở, các vụ… Trong một
doanh nghiệp, đó là tổng giám đốc, giám đốc, phụ
trách các đơn vị… Đặc điểm của cơ cấu mang tính
hành chính này là nó được xây dựng trên mệnh lệnh
thông qua các mối quan hệ chiều dọc.
Phương Tây đã sớm phải đối mặt với những cơ cấu
quản lý không phải kim tự tháp. Điển hình nhất là các
tổ chức chính trị, quốc hội hoạt động trên nền tảng
thỏa hiệp giữa các đảng, do đó để thông qua quyết
định, sẽ có ít nhất là hai luồng ý kiến, hai trung tâm ra
quyết định. Đối với các doanh nghiệp, tình hình tương
tự cũng hoàn toàn có thể xảy ra. Ví dụ như khi hai
doanh nghiệp khác nhau muốn hợp tác trên một hạng
mục nhất định. Cần thiết phải có một hình thức tổ
chức linh động, cho phép mỗi bên có thể nhượng bộ,
có thể đạt hiệu quả kinh tế, nhưng vẫn giữ được
quyền tự quyết về phía mình. Nếu không giữ được
quyền tự quyết ở mức tối thiểu, có nghĩa la doanh
nghiệp đã hoàn toàn bị nuốt chửng bằng một quá
trình sáp nhập.

Thuật ngữ governance vậy là được sử dụng trong
một bối cảnh mà người ta không muốn làm
government một cách truyền thống (chí ít là tuyên bố
như vậy). Governance về mặt lịch sử xuất hiện trước
nhất trong chính trị. Đó là một hành động lãnh đạo
như government, nhưng cho phép những người có
liên quan không nằm trong tổ chức được tham gia
đóng góp ý kiến. Nói cách khác, vào thời điểm, nó
đánh dấu bằng việc một chính phủ (phong kiến vào
thời điểm đó) thay vì không chuyên quyền quyết định,
sẽ lắng tai nghe những ý kiến đóng góp của người
dân: một hình thức lãnh đạo nửa công quyền – nửa
dân quyền. Tại các nước nói tiếng Anh và theo đuổi
các chính sách kinh tế thị trường tuyệt đối, tư duy này
đi cùng với của quá trình “New Public Management”,
ngụ ý rằng nhà nước chỉ tham gia vào điều hành nền
kinh tế với một vai trò tối thiểu. Việc nhà nước ra
quyết định cần phải đi cùng với một sự tham vấn tối
đa của thị trường. Tại các nước không theo đuổi cùng
chính sách, đặc biệt là những nước mà nhà nước có
tham gia sâu rộng vào việc điều hành nền kinh tế như
Pháp, thuật ngữ Governance chỉ việc lãnh đạo của
nhà nước đi cùng với sự tham vấn tối đa của các
công dân và các tổ chức phi hành chính.
Cùng với quá trình phát triển của xã hội dân sự, thuật
ngữ governance dần được gắn liền với các mô hình
quản trị mà tổ chức ra quyết định phải tham khảo
những ý kiến đến từ bên ngoài. Trong một số vấn đề,
các doanh nghiệp không thể tự mình ra quyết ịnh mà
phải tham khảo ý kiến dối tác do bị ràng buộc bởi

nhiều điều khoản hợp đồng. Corporate governance là
một trường hợp đặc biệt, tại đó hội đồng quản trị
(phần administration) tham khảo tổ chức quản lý công
ty (phần management) và của những cổ đông không
nằm trong hội đồng quản trị để ra quyết định. Việc
này đưa lại một kết quả hết sức quan trọng là nó dảm
bảo quyền lợi của cả những người không có quyền
và nghĩa vụ quyết định, nhưng có quyền lợi trực tiếp
bị ảnh hưởng bởi những quyết định này: những nhân
viên công ty, những cổ đông không có mặt trong hội
đồng quản trị…
Có thể nói governance là một hình thức quản trị đặc
biệt, nơi người quản lý hoặc điều hành phải tìm cách
ra quyết định trong bối cảnh biết rằng quyết định
chung còn phải tính đến ý kiến những người ra quyết
định và những người liên quan khác. Người tham gia
quyết định không thể áp đặt mối quan hệ “cấp trên –
cấp dưới” lên những người liên quan. Anh ta không
có quyền quyết định tối cao tuyệt đối. Corporate
governance là một trường hợp đặc biệt của
governance trong doanh nghiệp. Nhưng ngoài trường
hợp này, doanh nghiệp còn biết đến nhiều hình thức
governance khác, với các đối tác và khách hàng.
Cần xem lại các thuật ngữ kinh tế
Governance là một hình thức quản lý/ quản trị ngày
càng được nhấn mạnh trong khoa học quản lý hiện
đại. Nội hàm của thuật ngữ rất rộng, có lien quan tới
nhiều lĩnh vực của xã hội và vượt ra ngoài khuôn khổ
của vấn đề quản trị doanh nghiệp. Thuật ngữ này
chưa được phổ biến tại Việt Nam. Có thể tạm hiểu là

một dạng quản trị với hình thức tổ chức quyết định có
nhiều hơn một người ra quyết định, với những người
tham gia không hoàn toàn nằm tron tổ chức ra quyết
định, từ đó dẫn đến cơ cấu quyết định không có dạng
kim tự tháp. Về mặt kinh tế, nó có thể biến thể từ một
hợp đồng hợp tác kinh doanh lâu dài giữa hai công ty,
cho tới các hình thức góp vốn đầu tư (joint-stock) đa
dạng nhưng không phải sáp nhập, do chỉ thực hiện
trên một số hạng mục kinh doanh nhất đinh thông qua
hợp đồng.
Trong trường hợp các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) tại Việt Nam, việc đưa khái niệm này vào áp
dụng trong điều kiện hiện nay dường như chưa thích
hợp. Ngay đến bây giờ, trong nhận thức của chúng ta
cũng chưa phân định rõ rang đâu là ranh giới giữa
tính hành chính và hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp. Người quản lý DNNN vẫn chưa biết quản trị
minh bạch với tư cách là đại diện doanh nghiệp, tức
là độc lập với các quyền lợi và quyền lực do vai trò
hành chính của DNNN đem lại. Ngay tron một doanh
nghiệp thông thường, việc phân định chuyện này tại
Việt Nam cũng đã gặp khó khăn, huống hồ là trong
DNNN. Vì vậy, việc áp dụng khái niệm governance
cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, nếu không
sẽ dẫn tới những sự lãng phí lớn khác: những chi phí
giao dịch khổng lồ mà người làm quản trị không tính
tới – do chưa có thói quen, hoặc do không phải chịu
trách nhiệm.
Nói như vậy không có nghĩa là bào chữa cho các
DNNN. Không có sư phân định rạc ròi giữa vai trò

hành chính và vai trò doanh nghiệp, giữa tính nhà
nước và tính thị trường là một nguyên nhân khiến các
DNNN không có tính cạnh tranh. Tuy nhiên đây chắc
chắn không phải là yếu tố duy nhất, cũng không phải
yếu tố chính gây nên các thảm họa kinh tế như
Vinashin. Thủ phạm chính cho các thảm họa này nằm
tại các cá nhân và ở cơ cấu quản lý nhà nước dung
túng sự vô trách nhiệm của các cá nhân. Sự nhân
định rạch ròi các khái niệm chỉ có thể giúp hạn chế
những thiệt hại ở mức độ nhất định.
Xin được mở ngoặc để nói thêm về việc dịch thuật
các thuật ngữ của khoa học kinh tế và quản trị. Do
thiếu vắng các công trình nghiên cứu, và chuẩn hóa
giảng dạy nên chúng ta dường như bị tụt hậu khái
niệm so với thế giới ở một khoảng cách lớn. Bài viết
của ông Vũ Thành Tự Anh đăng trên mạng web Tuần
Việt Nam gần đây về khái niệm nợ công và nợ chính
phủ là một bằng chứng khác cho thấy tiếng Việt thiếu
một cơ sở thống nhất về các khái niệm này. Đây chắc
chắn không phải một trường hợp cá biệt.
Một thực tế là nếu thiếu cơ sở ngôn ngữ về các khái
niệm khoa học cơ bản, chúng ta sẽ bị tụt hậu, gặp
phải rủi ro. Còn thiếu cơ sở ngôn ngữ về các khái
niệm luật pháp và kinh tế thì chúng ta phải đối mặt
với các thiệt hại vật chất nặng nề cho mỗi cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp, do mất rất nhiều thời gian để có
thể thống nhất và hiểu đối tượng ký kết trong hợp
đồng. Thiệt hại lớn nhất là trong các mối quan hệ
quốc tế khi ta muốn bảo vệ quyền lợi trước đối tác
nước ngoài bằng các khái niệm dịch từ tiếng Việt

nhưng hóa ra lại tự làm cho mình hớ to, do ngữ nghĩa
dẫn chiếu tới cách hiểu quốc tế lại hoàn toàn khác,
Ngôn ngữ, nhìn từ góc độ kinh tế định chế, chính là
một dạng định chế đặc biệt liên kết những con người
cùng nằm trong một cộng đồng. Chuẩn hóa ngôn ngữ
là một biện pháp làm giảm chi phí giao dịch giữa
người với người. Chúng làm cho quá trình hiểu nhau,
xích lại gần nhau được thuận lợi hơn, ít chịu “ma sát”
hơn. Tại Pháp, Viện hàn lâm – Académie – là nơi các
nhà ngôn ngữ, nhà văn, nhà triết học cùng nhau làm
việc với các nhà khoa học chuyên môn để quyết định
thống nhất việc sử dụng ngôn ngữ như thế nào, để
đưa các từ mới vào trong từ điển. Tại Việt Nam, liệu
chúng ta có thể có một cấu trúc tương đương, để
“hiện đại hóa” tiếng Việt? Có lẽ đã đến lúc chúng ta
cần nhìn nhận lại vai trò các nhà văn, nhà triết học,
nhà ngôn ngữ học còn hiếm hoi của đất nước. Và
đến lúc chính thức trao cho họ cái sứ mệnh thiêng
liêng là gìn giữ ngôn ngữ tiếng Việt?

×