Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Một số biện pháp tăng cường công tác thu ngân sách của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2006-2010.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.42 KB, 102 trang )

MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG, DANH MỤC HÌNH
IV
DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
V
MỞ ĐẦU
VI
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1
I LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1
1. Khái niệm ngân sách, chức năng, vai trò của ngân sách 1
1.1. Khái niệm NSNN và phân loại thu NSNN 1
1.2. Chức năng của thu ngân sách nhà nước 4
1.2.1 Chức năng phân bổ nguồn lực 4
1.2.2 Chức năng phân phối lại thu nhập 5
1.3 Vai trò của NSNN 7
2. Các nhân tố tác động đến Thu ngân sách 8
2.1. Thực trạng của nền kinh tế 8
2.2. Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thu NSNN 10
2.3. Tổ chức, quản lý thực hiện thu ngân sách 12
II. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ THU NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
15
1. Khái quát quá trình xây dựng Luật ngân sách 15
2. Các quy định hiện hành trong lĩnh vực thu ngân sách 17
2.1 Luật ngân sách 2002 17
2.1.1 Quy định về các khoản thu ngân sách địa phương 17
2.1.2 Phân cấp quản lý thu ngân sách 19
2.2 Tổ chức bộ máy thu và phân cấp quản lý thu ngân sách của thành
phố Hà Nội


19
2.3 Một số Luật Thuế hiện hành 23
2.3.1 Luật thuế GTGT 24
2.3.2 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 25
2.3.3 Thuế xuất nhập khẩu 25
2.3.4 Thuế thu nhập doanh nghiệp 26
2.3.5 Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 27
2.4. Phí và lệ phí 28
Chương II: THỰC TRẠNG THU NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2001-
2005 CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
30
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
GIAI ĐOẠN 2001-2005
30
1. Kinh tế Thủ đô chia theo ngành kinh tế 30
Lớp Kế hoạch 44
i
2. Kinh tế Thủ đô chia theo thành phần kinh tế 33
II. THỰC TRẠNG THU NGÂN SÁCH THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN
2001-2005
36
1. Đánh giá tổng quát kết quả thu ngân sách 2001-2005 36
2. Kết quả thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội theo từng
khoản mục
39
3. Kết quả thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội chia theo sắc thuế 52
4. Kết quả phân cấp thu ngân sách thành phố giai đoạn qua 55
5. Đánh giá chung lại tình hình thu NS giai đoạn qua, tổng hợp tồn
tại và nguyên nhân chính
57

III. ĐÁNH GIÁ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG CƯỜNG NGUỒN
THU CỦA HÀ NỘI
58
1. Nhân tố tăng trưởng kinh tế 58
2. Nhân tố cơ chế, chính sách 60
3. Nhân tố tổ chức thực hiện thu 62
Chương III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THU
NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2006-2010
66
I. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỦ ĐÔ, NHỮNG QUAN ĐIỂM,
ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU THU NGÂN SÁCH THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN
2006-2010
66
1.
Dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến sự phát triển của
Hà Nội
66
2. Kế hoạch phát triển kinh tế Thủ đô và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu 68
II. NHỮNG THUẬN LỢI KHÓ KHĂN VÀ XU THẾ VẬN ĐỘNG CỦA CÁC
NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NGÂN SÁCH Ở HÀ NỘI GIAI ĐOẠN
2006-2010
74
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THU NGÂN
SÁCH
76
1. Nuôi dưỡng nguồn thu 77
2. Kiện toàn hệ thống cơ chế, chính sách thu ngân sách 80
3. Các biện pháp hành thu nhằm xây dựng hệ thống quản lý thu thuế
hiệu quả, trong sạch
83

3.1 Xây dựng bộ máy hành thu tinh giản, hiệu quả 84
3.2 Đẩy mạnh cải cách hành chính - hiện đại hóa công tác thu 85
3.3 Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra 86
3.4 Tăng cường biện pháp quản lý đối tượng chịu thuế 87
3.5 Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền thuế 88
3.6 Các biện pháp quản lý con người, phòng chống tiêu cực trong
công tác hành thu NSNN trên địa bàn
89
Lớp Kế hoạch 44
ii
KẾT LUẬN IX
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO XI
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1 Tổng sản phẩm nội địa Hà Nội chia theo thành phần kinh tế 35
Bảng 2: Tốc độ tăng tổng sản phẩm nội địa Hà Nội chia theo thành
phần kinh tế
35
Bảng 3: Kết quả thu NSNN trên địa bàn Hà Nội 2001-2005 38
Bảng 4: Kết quả thu NS trên địa bàn Hà Nội theo từng khoản mục 40
Bảng 5: Thu NSNN trên địa bàn từ hoạt động sản xuất kinh doanh 43
Bảng 6: Tốc độ tăng thu NSNN trên địa bàn từ hoạt động sản xuất
kinh doanh
43
Bảng 7: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa theo thành phần
kinh tế
44
Bảng 8: Thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội theo sắc thuế 52
Bảng 9: Tốc độ tăng thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội theo
sắc thuế

53
DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Kết quả thu NSNN trên địa bàn Hà Nội 38
Hình 2:
Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng thu ngân
sách
39
Hình 3: Cơ cấu nguồn thu ngân sách 41
Hình 4: Biểu đồ tốc độ tăng thu NS từ kinh tế ngoài nhà nước và 50
Lớp Kế hoạch 44
iii
tốc độ tăng trưởng sản phẩm nội địa khu vực này
Lớp Kế hoạch 44
iv
DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
NSNN Ngân sách nhà nước
NS Ngân sách
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NN Nhà nước
TƯ Trung ương
ĐP Địa phương
VĐT Vốn đầu tư
GDP Tổng sản phẩm nội địa
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
ODA Viện trợ nước ngoài
HĐ SXKD Hoạt động sản xuất kinh doanh
XNK Xuất, nhập khẩu

GTGT Giá trị gia tăng
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
Lớp Kế hoạch 44
v
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, câu hỏi nghiên cứu
Điều 1 của Luật ngân sách 2002 quy định: “Ngân sách nhà nước là
toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Một thực trạng đối với Ngân sách Việt
Nam là luôn ở trong tình trạng bội chi với mức thâm hụt lớn. Cân bằng cán
cân Thu - Chi ngân sách luôn là một trong những mục tiêu phấn đấu của Đảng
và Nhà nước. Để cân bằng Thu - Chi, có hai hướng đặt ra giải pháp là tăng
thu và giảm chi. Nhiều năm qua, Chính phủ đã có nhiều cố gắng để giảm
thiểu chi hành chính, sự nghiệp, tăng cường chi cho đầu tư phát triển và xây
dựng cơ bản, chi đúng chỗ, chi hiệu quả, tiết kiệm. Bởi đầu tư của Nhà nước
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã
hội, đặc biệt đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, nên tình trạng
thâm hụt ngân sách là không tránh khỏi, nhưng thâm hụt mức độ nào là hợp lý
đòi hỏi nhiều nỗ lực. Nhằm đảm bảo cho nhu cầu chi rất lớn, tăng cường thu
NSNN là rất cần thiết. Nguồn thu ngân sách chủ yếu từ Thuế (ngoài ra là từ
phí, lệ phí, và một số nguồn thu khác). Thuế lại là một phương tiện điều tiết
rất quan trọng của nhà nước, một thay đổi về thuế có thể gây biến động đến
nền kinh tế - xã hội. Vừa đảm bảo cho tăng trưởng, phát triển kinh tế cùng
nhiều mục tiêu khác, vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách là nhiệm vụ vô cùng
nan giải và có nhiều điều đáng bàn. Thực hiện nhiệm vụ này phải bắt đầu từ
mỗi đơn vị thu ngân sách nhà nước, từ cấp tỉnh, thành phố.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị lớn của cả nước. Thành
phố có tốc độ phát triển kinh tế hàng năm cao, đạt 11-13%/năm, đóng góp vào

ngân sách nhà nước mỗi năm đạt khoảng 14-16%, là một trong những nguồn
thu lớn của NSNN. Là thành phố có cơ sở hạ tầng hiện đại bậc nhất cả nước,
Lớp Kế hoạch 44
vi
có điều kiện thuận lợi về nhiều mặt, Hà Nội luôn có trình độ phát triển kinh tế
- xã hội hàng đầu Việt Nam, là trung tâm kinh tế của vùng. Có thể nói nguồn
thu ngân sách trên địa bàn Hà Nội là tương đối lớn, tuy nhiên thực tế thu còn
chưa tương xứng. Với vai trò là Thủ đô, là trung tâm kinh tế lớn, trước nhiệm
vụ đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, Hà Nội cần phải tiên phong trong
việc cải cách, tăng cường công tác thu.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn lĩnh vực thu ngân sách, lấy Hà Nội
làm địa bàn nghiên cứu, với đề tài: “Một số biện pháp tăng cường công tác
thu ngân sách của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2006-2010”.
Sau một thời gian tìm hiểu công tác thu ngân sách của Thành phố, tôi
nhận thấy vấn đề bức xúc nóng bỏng trong thời gian qua là số thu chưa tương
xứng với tiềm năng. Nguyên nhân có rất nhiều, trong đó những nguyên nhân
chính nằm ở cơ chế chính sách, và tổ chức thực hiện thu còn nhiều bất cập,
dẫn đến tình trạng trốn thuế và gian lận thuế còn khá phổ biến. Qua đề tài này,
tôi muốn kiểm chứng lại những nhận định trên thông qua phân tích thực trạng
thu ngân sách của thành phố giai đoạn 2001-2005, từ đó đưa ra những biện
pháp để hoàn thiện công tác thu trong giai đoạn tới 2006-2010.
2. Phương pháp, phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu:
- Dựa trên số liệu thống kê, số liệu trong các Báo cáo quyết toán thu
ngân sách hàng năm của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (thực tế đã thu
được kết quả tốt), để tiến hành phân tích những biến động của thu, và các
thành phần thu.
- Thu thập tài liệu về tình hình phát triển kinh tế Thủ đô giai đoạn
2001-2005 vừa qua. Chủ yếu trên những nội dung: tình hình tăng trưởng
chung của nền kinh tế; cơ cấu thành phần, tốc độ tăng trưởng của một số

ngành, thành phần chủ chốt. Từ đó chỉ ra tiềm năng thu ngân sách thành phố.
- Tiến hành đối chiếu thực trạng thu và tiềm năng thu để thấy được vấn đề
đặt ra hiện tại. Phân tích sâu để tìm ra nguyên nhân dựa trên 2 tiêu chí: cơ chế
Lớp Kế hoạch 44
vii
chính sách, và tổ chức thực hiện thu, đồng thời qua đó đề xuất các giải pháp.
- Quá trình phân tích tìm hiểu sẽ kết hợp với phỏng vấn, xin ý kiến các
chuyên gia, các cán bộ am hiểu thuế, về thu ngân sách.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác thu ngân
sách của thành phố Hà Nội trên địa bàn trong giai đoạn vừa qua 2001-2005,
đặt trong mối tương quan với quá trình phát triển kinh tế Thủ đô. Từ đó phân
tích nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác thu ngân
sách của thành phố trong giai đoạn tới 2006-2010.
Đề tài hy vọng phân tích đúng, và đề ra được những giải pháp có tính
khả thi, có ý nghĩa thực tiễn để tăng cường công tác thu ngân sách cho không
chỉ thành phố Hà Nội, mà còn có thể vận dụng cho nhiều địa phương khác
cũng như cả nước.
3. Nội dung chính của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được chia thành 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về thu Ngân sách nhà nước.
- Chương II: Thực trạng thu ngân sách giai đoạn 2001-2005 của thành
phố Hà Nội.
- Chương III: Giải pháp tăng cường công tác thu ngân sách giai đoạn
2006-2010.
Lớp Kế hoạch 44
viii
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm ngân sách, chức năng, vai trò của ngân sách

1.1. Khái niệm NSNN và phân loại thu NSNN
Từ “ngân sách” xuất phát từ một thuật ngữ tiếng Anh thời Trung cổ
“budjet” chỉ một chiếc túi của nhà vua, trong đó có chứa những khoản tiền
cần thiết cho những khoản chi tiêu công cộng như: đắp đê phòng chống lũ
lụt, xây dựng đường xá và chi tiêu cho bản thân hoàng gia không có sự tách
biệt nhau. Khi giai cấp tư sản lớn mạnh từng bước khống chế nghị viện và
đòi hỏi tách bạch hai khoản chi tiêu này, từ đó nảy sinh khái niệm ngân
sách nhà nước.
Trong thực tiễn, khái niệm ngân sách thường để chỉ tổng số thu và chi
của một đơn vị trong một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí
để thực hiện một kế hoạch, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất
định của một chủ thể nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là ngân
sách Nhà nước.
Từ điển tiếng Việt thông dụng định nghĩa: “Ngân sách: Tổng số thu và
chi của một đơn vị trong một thời gian nhất định”.
Điều 1 của Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội khóa XI nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ hai, năm 2002
khẳng định: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Như vậy, khái niệm ngân sách được hiểu khá nhất quán, chuyên đề sử
dụng khái niệm ngân sách, tìm hiểu về ngân sách theo những căn cứ của Luật
ngân sách nhà nước 2002.
Trong khái niệm, ngân sách được hiểu là toàn bộ các khoản thu, chi. Về
bản chất, đằng sau những con số thu, chi đó là các quan hệ lợi ích kinh tế giữa
Lớp Kế hoạch 44
1
nhà nước với các chủ thể khác như: doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân trong và
ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách.
Ngân sách Nhà nước được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết

định, điều này thể hiện tính hệ thống của ngân sách nhà nước, bao gồm: ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm
ngân sách của đơn vị hành chính cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân. Phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền Nhà nước ta hiện nay, ngân
sách địa phương gồm: ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(gọi chung là ngân sách cấp tỉnh), ngân sách cấp quận, huyện, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện) và ngân sách cấp xã,
phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Thu ngân sách nhà nước là quá trình nhà nước sử dụng quyền lực để
huy động một bộ phận giá trị của cải xã hội hình thành quỹ ngân sách nhằm
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thu ngân sách bao gồm rất nhiều loại,
ngoài các khoản thu chính từ thuế, phí, lệ phí, còn có các khoản thu từ hoạt
động kinh tế của nhà nước, từ đóng góp của các cá nhân trong và ngoài nước,
hay các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Để cung cấp thông tin một cách có hệ thống, công khai minh bạch, đảm
bảo trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu quản lý của các đối tượng thì việc phân loại
các khoản thu theo những tiêu thức nhất định là rất cần thiết. Hiện nay, trong
quản lý thu ngân sách thường dùng hai cách phân loại chính, đó là phân loại
theo phạm vi phát sinh và theo nội dung kinh tế.
- Căn cứ vào phạm vi phát sinh, các khoản thu NSNN được chia thành:
Thu trong nước và thu ngoài nước.
Thu trong nước là các khoản thu ngân sách phát sinh tại Việt Nam, gồm:
Thu từ các loại thuế như (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao...). Ngoài
ra còn có các khoản thu từ phí, lệ phí, tiền thu hồi vốn ngân sách, thu hồi tiền
cho vay (cả gốc và lãi), thu từ vốn góp của Nhà nước, thu sự nghiệp...
Thu ngoài nước là những khoản thu phát sinh không tại Việt Nam bao
gồm: các khoản đóng góp tự nguyện, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ
các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho
Chính phủ Việt Nam.

Lớp Kế hoạch 44
2
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu chi, chính phủ có thể vay nợ trong nước,
ngoài nước thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vay ODA,...
Việc phân loại theo các khoản thu ngân sách trên cho phép đánh giá
được mức độ huy động các nguồn thu ở các khu vực kinh tế khác nhau trong
nền kinh tế; cũng như tổng quan thu trong nước, ngoài nước. Từ đó có chính
sách, biện pháp khai thác các nguồn thu hợp lý ở các khu vực, cân đối trong
và ngoài nước.
- Căn cứ vào nội dung kinh tế, các khoản thu NSNN ở nước ta gồm:
+ Thuế, phí, lệ phí do tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước theo quy định của
pháp luật (tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế; thu hồi tiền
cho vay; thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế…).
+ Thu từ hoạt động sự nghiệp; tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản
và đất công ích; Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước; thu từ bán hoặc cho thuê
tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
+ Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, các cá nhân trong và
ngoài nước.
+ Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ
chức, cá nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam, các cấp chính quyền và
các cơ quan, đơn vị nhà nước.
+ Thu từ Quỹ đất dự trữ tài chính; thu kết dư ngân sách.
+ Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
Cách phân loại này giúp cho việc xem xét từng nội dung thu theo tính
chất và hình thức động viên vào ngân sách, đánh giá tính cân đối, bền vững,
hợp lý về cơ cấu các nguồn thu. Trên cơ sở đó giúp cho việc hoạch định chính
sách cũng như tổ chức điều hành ngân sách phù hợp với các mục tiêu nhà
nước theo đuổi trong từng thời kỳ.
Ngoài ra trong quản lý NSNN, trong các biểu mẫu về thu NSNN người

ta thường phân loại thu ngân sách theo nguồn hình thành nguồn thu thành các
nhóm lớn là: Thu cân đối ngân sách; thu vay để cân đối ngân sách trung ương;
thu để lại đơn vị chi quản lý qua ngân sách; thu chuyển giao giữa các cấp
ngân sách; các khoản tạm thu và vay khác của NSNN.
Lớp Kế hoạch 44
3
1.2. Chức năng của thu ngân sách nhà nước
NSNN là thành phần chủ đạo trong tài chính công, gắn liền với vai trò
và chức năng của nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế. Đó là ba chức
năng, phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập và điều chỉnh kiểm soát. Trong
đó, thu NSNN tham gia rõ nét vào chức năng phân bổ và phân phối thu nhập.
Đặc biệt là chức năng phân phối thu nhập.
1.2.1. Chức năng phân bổ nguồn lực
Chức năng phân bổ nguồn lực của NSNN là khả năng khách quan mà
nhờ vào đó các nguồn tài lực thuộc quyền chi phối của Nhà nước được tổ
chức, sắp xếp, phân phối một cách có tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội của
việc sử dụng các nguồn tài lực đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững
chắc và ổn định theo các tỷ lệ cân đối đã định của chiến lược và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội.
Trong đó, hình thành chức năng này của NSNN, quá trình thu đóng vai
trò huy động, tập trung một phần những nguồn lực mà xã hội sử dụng một
cách hợp lý có tính đến khả năng của các đối tượng huy động cũng như thể
hiện thái độ của Nhà nước với những thành phần đó.
Ở nước ta, trong những năm trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế vận
hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp
nguồn tài chính từ ngân sách cho phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hội. Bởi
vậy, ngân sách nhà nước được hiểu như là ngân sách của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Toàn bộ nguồn lực xã hội đều tập trung trong tay nhà nước, và việc
sử dụng các nguồn lực này không mang lại hiệu quả như mong muốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước xóa bỏ dần những can

thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh tế - xã hội, chủ yếu thực hiện chức năng
quản lý và điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, việc bao cấp cho các hoạt động kinh
tế - xã hội cũng giảm dần. Bởi vậy, thể hiện chức năng phân bổ nguồn lực,
thu NSNN chỉ tập trung vào một phần những nguồn lực của xã hội để phục vụ
cho những mục tiêu trọng điểm, những gì mà thị trường còn chưa tính đến.
Kết quả trực tiếp của việc vận dụng chức năng phân bổ nguồn lực là
các quỹ ngân sách được tạo lập, được phân phối và sử dụng. Việc tạo lập,
phân phối và sử dụng một cách đúng đắn, hợp lý các quỹ ngân sách đó chính
Lớp Kế hoạch 44
4
là sự phân bổ một cách tối ưu các nguồn lực tài chính thuộc quyền chi phối
của các chủ thể công, nó tác động mạnh mẽ tới việc sử dụng hiệu quả các
nguồn lực tài chính của toàn xã hội: thúc đẩy hoàn thiện cơ cấu sản xuất, cơ
cấu kinh tế xã hội bằng việc tính toán, sắp xếp các tỷ lệ cân đối quan trọng
trong phân bổ các nguồn tài chính. Một sự phân bổ như thế sẽ là nhân tố quan
trọng ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững và ổn định của nền kinh tế.
Chức năng phân bổ của thu NSNN, thể hiện ở việc thu ngân sách phải
trên cơ sở thực lực nguồn lực tài chính của toàn xã hội, có cân nhắc cho phù
hợp với đặc điểm, tình hình của đất nước trong từng thời kỳ và theo sát các kế
hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước cũng là một tiêu
chuẩn quan trọng. Phân bổ nguồn lực tài chính phải nhằm đạt được những
mục tiêu kinh tế vĩ mô là hiệu quả, ổn định và phát triển kinh tế.
1.2.2. Chức năng phân phối lại thu nhập
Chức năng phân phối lại thu nhập của thu NSNN là khả năng khách
quan mà nhờ vào đó ngân sách được sử dụng vào việc phân phối và phân phối
lại các nguồn tài chính trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội
trong phân phối và hưởng thụ kết quả của sản xuất xã hội.
Trong chức năng này, chủ thể phân phối là Nhà nước trên tư cách
người có quyền lực chính trị, còn đối tượng phân phối là các nguồn tài chính
đã thuộc sở hữu công cộng hoặc đang là thu nhập của các pháp nhân và thể

nhân trong xã hội mà Nhà nước tham gia điều tiết.
Công bằng về phân phối được biểu hiện trên hai khía cạnh: công bằng
về mặt kinh tế và công bằng về mặt xã hội. Như đã biết, công bằng về kinh tế
là yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường. Do giá cả thị trường quyết định
mà việc đưa ra các yếu tố đầu vào (chi tiêu) và việc thu nhận thù lao các yếu
tố (thu nhập) là tương xứng với nhau, nó được thực hiện theo sự trao đổi
ngang giá trong môi trường cạnh tranh bình đẳng. Chẳng hạn, việc phân phối
vật phẩm tiêu dùng cá nhân được thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo
lao động, trong đó, cá nhân bằng việc bỏ ra sức lao động mà có được thu nhập,
nhưng thu nhập mà họ nhận được (thù lao cho lao động) là tương xứng với số
lượng và chất lượng lao động mà họ bỏ ra. Đó là sự công bằng về kinh tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, do những yếu tố
Lớp Kế hoạch 44
5
sản xuất của các chủ thể kinh tế hoặc các cá nhân không giống nhau, sức
khỏe, trình độ, hoàn cảnh,... không giống nhau mà thu nhập của các chủ thể
kinh tế hoặc của các cá nhân có sự chênh lệch. Sự chênh lệch thu nhập này
vượt quá giới hạn nào đó sẽ dẫn đến bất công bằng xã hội. Như vậy, mặc dù
đạt đến sự công bằng về mặt kinh tế thì vẫn có sự bất công bằng về mặt xã
hội. Yêu cầu công bằng xã hội là duy trì sự chênh lệch trong phạm vi hợp lý,
thích ứng với từng giai đoạn mà xã hội có thể chấp nhận được.
Trong lĩnh vực này, thu NSNN được sử dụng làm công cụ để điều
chỉnh lại thu nhập mà các chủ thể trong xã hội đang nắm giữ. Sự điều chỉnh
này được thực hiện theo hai hướng là điều tiết bớt các thu nhập cao và hỗ trợ
các thu nhập thấp. Đối với những thu nhập do thị trường hình thành như tiền
lương của người lao động, lợi nhuận doanh nghiệp, thu nhập về cho thuê, thu
nhập về tài sản, thu nhập về lợi tức cổ phần... thì chức năng của thu NSNN là
thông qua việc phân phối lại để điều tiết. Những nhu cầu như y tế, bảo vệ sức
khỏe, phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội... thì được đáp ứng thông qua phân phối
tập trung từ nguồn thu NSNN.

Trong việc điều tiết thu nhập, thu thuế là biện pháp chủ yếu. Thông qua
các thứ thuế gián thu để điều tiết tương đối giá cả của các loại hàng hóa, từ đó
điều tiết sự phân phối các yếu tố sản xuất của các chủ thể kinh tế. Thông qua
thuế thu nhập doanh nghiệp để điều tiết lợi nhuận của doanh nghiệp. Thông
qua thuế thu nhập cá nhân để điều tiết thu nhập lao động và thu nhập phi lao
động của cá nhân (thu nhập về tài sản, tiền cho thuê, lợi tức...). Thông qua
công cụ thuế, các thu nhập cao được điều tiết bớt một phần và được tập trung
vào NSNN.
Trong việc hỗ trợ thu nhập, chi tiêu công là biện pháp chủ yếu. NSNN
sử dụng các nguồn tài chính đã tập trung được, trong đó có một phần là nguồn
tài chính điều tiết từ các thu nhập cao, để chi cho các biện pháp văn hóa xã
hội kể trên nhằm hỗ trợ thu nhập cho những người có thu nhập thấp. Như vậy,
với tư cách là chủ thể của chức năng tái phân phối thu nhập, Nhà nước đóng
vai trò như người trung gian trong việc điều hòa thu nhập giữa các tầng lớp
dân cư, hạ thấp bớt các thu nhập cao và nâng cao thêm các thu nhập thấp
nhằm rút ngắn độ chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân.
Lớp Kế hoạch 44
6
Khác với chức năng phân bổ nguồn lực, chức năng phân phối lại thu
nhập được đề cập với sự quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh xã hội của sự
phân phối. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần nhận thức và xử lý hợp lý mối quan
hệ giữa mục tiêu công bằng và mục tiêu hiệu quả của kinh tế vĩ mô. Trong
nhiều trường hợp, để đạt mục tiêu công bằng, sự phân phối lại làm tổn hại tới
mục tiêu hiệu quả. Chẳng hạn, một sự đánh thuế quá cao vào thu nhập sẽ hạn
chế tác dụng thúc đẩy tăng tiết kiệm và tăng đầu tư của tư nhân, đồng thời, có
thể dẫn đến hiện tượng tìm cách trốn thuế do tình trạng quá tải của thuế mang
lại. Hay một sự trợ cấp xã hội tràn lan, thiếu tính toán cân nhắc dễ dẫn đến
tâm lý chờ được cứu tế, giảm tính tích cực lao động, đồng thời làm giảm tác
dụng tăng tiết kiệm của khu vực công...
Do đó, một sự tính toán cân nhắc trong chính sách phân phối và tái

phân phối thu nhập để có thể đạt tới mục tiêu công bằng trên cơ sở đảm bảo
tính hiệu quả kinh tế là rất quan trọng nhằm sử dụng có hiệu quả NSNN trong
thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
1.3. Vai trò của thu NSNN
Vai trò của thu NSNN được xem xét trên hai khía cạnh: là công cụ tập
trung nguồn tài lực đảm bảo duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy nhà
nước và là công cụ của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường.
Thu NSNN là để đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy
nhà nước: Để duy trì sự tồn tại và hoạt động, bộ máy nhà nước cần phải có
nguồn tài chính đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu. Các nhu cầu chi tiêu của bộ
máy nhà nước được đáp ứng chủ yếu bởi các nguồn thu NSNN. Vai trò trên
được thể hiện ở việc khai thác, động viên và tập trung các nguồn lực tài chính
để đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho các nhu cầu chi tiêu đã được Nhà nước dự
tính cho từng thời kỳ phát triển. Các nguồn lực này có thể được tập trung ở cả
trong và ngoài nước, từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, có bắt buộc và
tự nguyện, trong đó bắt buộc là nét đặc trưng.
Vai trò trong hệ thống tài chính, và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô: Gắn liền với vai trò lãnh đạo của Nhà nước, thu NSNN chi phối hoạt
động của nền kinh tế. Thu ngân sách là một công cụ thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Hoạt động thu
Lớp Kế hoạch 44
7
cùng với chi như tấm gương phản ánh các định hướng phát triển đó. Ví dụ,
Nhà nước thông qua chính sách thu của mình thể hiện sự ưu đãi với các ngành
nghề cần bảo hộ hay khuyến khích phát triển, hoặc tỏ thái độ đối với những
ngành nghề gây thiệt hại lợi ích chung của toàn xã hội,… Thông qua công cụ
thuế, với các mức thuế suất, chính sách ưu đãi khác nhau, NSNN có vai trò
định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo các định hướng
phát triển của Nhà nước cả về cơ cấu ngành và cơ cấu vùng lãnh thổ kích
thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh theo ngành hoặc theo sản phẩm... Hỗ

trợ tài chính cho các doanh nghiệp cần nâng đỡ, khuyến khích,... sẽ góp phần
tạo điều kiện sản xuất thuận lợi, hoàn thiện cơ cấu sản xuất, đảm bảo tính cân
đối của nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền vững,...
Thu NSNN đóng vai trò tạo nguồn đảm bảo giải quyết các vấn đề xã
hội, thực hiện công bằng xã hội. Trong đó, thực hiện công bằng xã hội thể
hiện ở chức năng phân phối lại thu nhập. Điều tiết chênh lệch thu nhập của
các tầng lớp dân cư bằng cách đánh thuế thu nhập cao, giảm thuế tiêu thụ với
hàng hóa thiết yếu, trợ cấp,...
Thông qua NSNN chính phủ thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Thể hiện rõ nhất qua việc điều chỉnh chi tiêu của Chính phủ, điều chỉnh mức
thuế, mức lãi suất để kiểm soát lạm phát và hoạt động đầu tư. Trong nền kinh
tế thị trường, những sự mất ổn định trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
là điều không tránh khỏi, do đó, tăng cường sự can thiệp và điều chỉnh của
Nhà nước trở nên cần thiết và tất yếu nhằm giữ vững sự ổn định của quá trình
phát triển.
2. Các nhân tố tác động đến Thu ngân sách
2.1. Mức độ tăng trưởng của nền kinh tế
Toàn bộ nền kinh tế quốc dân chính là nguồn thu của NSNN. Thu của
NSNN được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, cả trong và ngoài nước, từ mọi
lĩnh vực hoạt động khác nhau, cả sản xuất, lưu thông và phân phối. Bởi vậy,
thu NSNN luôn gắn chặt với kết quả của hoạt động kinh tế trong nước và sự
vận động của các phạm trù giá trị khác như: giá cả, thu nhập, lãi suất,... Kết
quả của các hoạt động kinh tế trong nước được đánh giá bằng các chỉ tiêu chủ
yếu như: mức tăng trưởng GDP, tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế... Đó là các
Lớp Kế hoạch 44
8
nhân tố khách quan quyết định mức động viên của NSNN. Sự vận động của
các phạm trù giá trị khác vừa có tác động đến sự tăng giảm mức động viên
của NSNN, vừa đặt ra yêu cầu sử dụng hợp lý các công cụ thu của NSNN để
điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội cho phù hợp với sự biến động của các

phạm trù giá trị.
Như vậy, trong tổng thu của NSNN phải coi trọng nguồn thu trong
nước là chủ yếu, mà quan trọng hơn cả là nguồn của cải mới được sáng tạo ra
trong các ngành sản xuất. Khái niệm sản xuất ngày nay được hiểu bao gồm
không chỉ các hoạt động sản xuất vật chất, mà còn do các hoạt động dịch vụ
tạo ra. Ở các nước phát triển và các xã hội văn minh, các hoạt động dịch vụ
phát triển rất mạnh và nguồn của cải xã hội được tạo ra ở đây cũng có xu
hướng ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng cao. Đối với Việt Nam, xu hướng đó
cũng là tất yếu. Như vậy, cùng với các hoạt động sản xuất vật chất, các hoạt
động dịch vụ là nơi tạo ra nguồn thu chủ yếu của NSNN.
Thu nhập của NSNN có thể được huy động từ nền kinh tế bằng nhiều
hình thức khác nhau, có bắt buộc, có tự nguyện, có hoàn trả và không hoàn
trả, ngang giá và không ngang giá,... nhưng nét đặc trưng là luôn gắn liền với
quyền lực chính trị của Nhà nước, thể hiện tính cưỡng chế bằng hệ thống luật
lệ do Nhà nước quy định và mang tính không hoàn trả là chủ yếu. Mặc dù
vậy, do có sự tác động ngược trở lại nền kinh tế của việc thu NSNN, mà sự
cưỡng chế thu này phải đặt trong sự phù hợp với tăng trưởng phát triển, nhằm
mang lại hiệu quả cao nhất. Ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức đầy đủ đặc
điểm này là ở chỗ, việc sử dụng các hình thức và phương pháp động viên của
NSNN đòi hỏi phải xem xét đến tính chất đặc điểm của các hoạt động kinh tế
- xã hội và yêu cầu phát huy vai trò đòn bẩy của các công cụ tài chính trong
phân phối lại các nguồn tài chính phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng
thời kỳ phát triển xã hội.
Do đó, để tăng thu cho NSNN, về lâu dài, con đường chủ yếu là phải
nâng cao trình độ phát triển, tìm cách mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả
sản xuất của nền kinh tế.
Đối với công tác thu NSNN của một tỉnh, thành phố, nhân tố quyết
định tới nguồn thu NSNN trên địa bàn cơ bản vẫn là thực trạng phát triển của
kinh tế trong phạm vi lãnh thổ. Tuy nhiên, khác với NSNN, nguồn thu trên
Lớp Kế hoạch 44

9
địa bàn tỉnh còn chịu sự tác động của phạm vi địa giới, những chính sách, quy
định riêng và nhiều đặc điểm khác. Chẳng hạn, tuy sự hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp không nằm trên địa bàn, nhưng trụ sở doanh
nghiệp nằm trên phạm vi lãnh thổ tỉnh cũng mang lại nguồn thu theo quy
định, và do đó, nguồn thu này không gắn với sự tăng trưởng kinh tế trên địa
bàn. Vì lý do trên, khi xem xét sự tác động của nhân tố sự tăng trưởng nền
kinh tế trên địa bàn tới nguồn thu NSNN phải loại bỏ các tác nhân đó.
Có thể khẳng định, nhân tố sự tăng trưởng kinh tế vừa là nguồn để thu
NSNN lại vừa là đối tượng tác động của các chính sách thu. Nhận thức đầy đủ
sự ảnh hưởng của nhân tố này, trong công tác thu, phải tránh tình trạng thu theo
chủ quan, thu tách rời thực trạng tăng trưởng của nền kinh tế, phải đặt lợi ích
kinh tế lên hàng đầu, thực hiện thu phải tạo được điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế.
2.2. Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thu NSNN
Nếu như kết quả hoạt động của nền kinh tế tạo ra nguồn thu cho ngân
sách, thì cơ chế, chính sách về nguồn thu và tổ chức thu chính là căn cứ, là
quy định để chúng ta biết thu như thế nào, thu những gì ở nguồn thu ấy.
Như trên đã nói, thu ngân sách có thể lấy về từ nhiều nguồn, dưới nhiều
hình thức, nhưng nét đặc trưng là luôn gắn liền với quyền lực chính trị của
Nhà nước, thể hiện tính cưỡng chế và mang tính không hoàn trả là chủ yếu.
Đối tượng thu là mọi lĩnh vực, mọi thành phần trong nền kinh tế. Các luật lệ
do Nhà nước quy định về nguồn thu và tổ chức quản lý thu là căn cứ cho quá
trình động viên vào NS. Các quy định về nguồn thu bao gồm các luật thuế,
các quy định về phí, lệ phí, về bán tài nguyên, tài sản quốc gia, về các doanh
nghiệp nhà nước...
Yêu cầu đối với các chính sách huy động nguồn thu ngân sách là phải
đảm bảo tập trung một bộ phận nguồn lực tài chính quốc gia vào tay Nhà
nước để trang trải các khoản chi phí cần thiết cho việc vận hành bộ máy cũng
như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Đồng thời đảm bảo

khuyến khích, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn thu ngày càng lớn. Đặc
biệt, coi trọng yêu cầu công bằng xã hội, điều tiết thu nhập giữa các thành
phần trong nền kinh tế. Trước những yêu cầu đó, hệ thống pháp luật trong
Lớp Kế hoạch 44
10
lĩnh vực thu ngân sách được xây dựng dựa trên những tiêu chí nhất định.
Thứ nhất, đó là nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tùy thuộc chức năng,
nhiệm vụ mà Nhà nước đảm nhận, quy mô của hệ thống bộ máy nhà nước,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, quan điểm phát triển,... mà hình
thành nên nhu cầu chi tiêu thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và chi cho
các vấn đề xã hội của mỗi quốc gia.
Thứ hai, đó là khả năng tạo ra nguồn thu ngân sách của nền kinh tế.
Khả năng này này thể hiện qua nhiều tiêu chí, ví dụ như: Mức thu nhập GDP
bình quân đầu người; tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế; khả năng khai thác và
xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên; tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân để đầu tư...
Việc căn cứ trên nhu cầu chi tiêu và khả năng tạo nguồn thu của nền
kinh tế chính là khắc phục tư tưởng thu đơn thuần, thu thoát ly thực trạng kinh
tế. Căn cứ trên hai tiêu chí này, đòi hỏi việc xây dựng hệ thống pháp lý để huy
động các nguồn tài chính vào NSNN phải luôn luôn phân tích, đánh giá thực
trạng kinh tế, thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó để ra các chính
sách, chế độ, biện pháp chỉ đạo thu thích hợp. Không vì yêu cầu đảm bảo nhu
cầu trang trải các khoản chi phí của Nhà nước mà gia tăng các khoản thu một
cách phi thực tế, gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh, làm hạn chế
nguồn thu NSNN trong tương lai. Xây dựng hệ thống pháp lý trong lĩnh vực
thu NS phải coi mục tiêu bồi dưỡng nguồn thu làm mục tiêu có tích chất
quyết định đến sự ổn định và phát triển của thu ngân sách.
Thứ ba, đó là căn cứ trên quan điểm của Nhà nước về công bằng xã
hội. Thu NSNN xét ở một góc độ nào đó là sự phân phối lại thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư thông qua bộ máy quyền lực của Nhà nước. Sự phân phối đó
là cần thiết cả về khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Tuy vậy, sự phân phối

đó cũng luôn chứa đựng trong nó những mâu thuẫn về mặt lợi ích. Một sự
động viên thiếu công bằng sẽ khoét thêm những mâu thuẫn đó. Khi mức độ
mâu thuẫn đạt đến cực điểm sẽ bùng nổ những cuộc đấu tranh xã hội làm
phương hại đến tính ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia.
Chính vì lẽ đó, huy động nguồn tài chính vào ngân sách phải luôn luôn coi
trọng khía cạnh công bằng xã hội. Nó đòi hỏi việc tổ chức động viên phải
bám sát khả năng đóng góp của người dân theo nguyên tắc công bằng ngang
và dọc. Đối với mỗi quốc gia, quan điểm về sự công bằng xã hội có những
Lớp Kế hoạch 44
11
khác biệt nhất định, cho nên tùy thuộc những quan điểm riêng đó mà cơ chế,
chính sách thu cũng có những nét đặc trưng riêng.
Qua những phân tích trên đây, có thể khẳng định kết quả thu NSNN
phụ thuộc rất lớn vào hệ thống pháp lý trong lĩnh vực thu. Đây là nhân tố vừa
mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan. Mang tính chủ quan là ở chỗ,
Nhà nước chính là chủ thể ra các quyết định này. Còn khách quan là ở chỗ, hệ
thống pháp luật được xây dựng trong mối quan hệ chặt chẽ với nhân tố “thực
trạng nền kinh tế” đã phân tích ở trên, nhằm xác lập một hệ thống chính sách
thu đồng bộ, phù hợp đảm bảo lợi ích lâu dài.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn, do được nghiên cứu kỹ và xây dựng có hệ
thống, có tính chất lâu dài, nên sự tác động của nhân tố này tới thực trạng thu
cũng như những vần đề còn tồn tại trong công tác thu ngân sách là không
nhiều. Tính ổn định của hệ thống pháp lý về thu là tương đối cao. Bởi vậy,
chuyên đề quan tâm nhiều hơn tới nhân tố thứ ba, “tổ chức, quản lý thực hiện
thu ngân sách”, là nhân tố mang nhiều tính chủ quan, nguyên nhân chính của
những tồn tại trong công tác thu ngân sách, và cũng là yếu tố cần được quan
tâm cải cách mạnh mẽ trong thời gian tới.
2.3. Tổ chức, quản lý thực hiện thu ngân sách
Cách thức tổ chức thực hiện, phân cấp, quản lý thu ngân sách chính là
trả lời cho câu hỏi thu như thế nào. Đó là quá trình thực hiện, cụ thể hoá các

cơ chế, chính sách thu đối với nền kinh tế. Quá trình này quyết định số thu
thực tế mà NSNN huy động được, đồng thời cho phép nhìn nhận lại các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế, chính sách thu ngân sách, từ đó đưa ra
các điều chỉnh, biện pháp tổ chức thu thích hợp. Đây chính là yếu tố quan
trọng, tác động lớn tới thực tế kết quả thu ngân sách. Thu không đúng tiềm năng,
thất thu chủ yếu là do sự tác động của nhân tố này. Bao gồm yếu tố: tổ chức bộ
máy thu, tổ chức giám sát, thanh tra kiểm tra, phương tiện thông tin, kỹ thuật,...
và rất quan trọng nữa là yếu tố con người, năng lực và đạo đức cán bộ.
Bộ máy quản lý thu ngân sách vừa là chủ thể chi phối công tác thu lại
vừa chính là đối tượng của quá trình quản lý. Bản thân bộ máy quản lý thu
NSNN cũng là đối tượng thụ hưởng, tiêu dùng nguồn tài chính huy động
được. Vì thế, xác lập, tổ chức bộ máy quản lý thu ngân sách phải vừa đảm bảo
Lớp Kế hoạch 44
12
đạt kết quả công tác thu vừa phải gọn nhẹ, hợp lý.
Việc xây dựng bộ máy quản lý thu NSNN phải căn cứ vào sự hình
thành hệ thống các cấp chính quyền và quá trình thực hiện phân cấp quản lý
kinh tế - xã hội các cơ quan Nhà nước. Quá trình hình thành hệ thống chính
quyền các cấp là một tất yếu khách quan của mọi thể chế chính trị, nhằm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ. Sự ra đời
của hệ thống chính quyền nhiều cấp là tiền đề cần thiết xuất hiện hệ thống
NSNN nhiều cấp. Phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống ngân sách nước ta gồm NS
trung ương và NS các cấp chính quyền địa phương.
Để đảm bảo công tác thu đạt hiệu quả, tổ chức bộ máy phải đảm bảo
một số những yêu cầu nhất định. Thứ nhất, phải đảm bảo thống nhất, tập
trung dân chủ. Tức là phải làm sao để vừa phát huy được sức mạnh sáng tạo
của mọi cấp vừa đảm bảo thống nhất, tập trung nguồn tài lực quốc gia. Yêu
cầu này đòi hỏi việc phân chia trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý thu ngân
sách phải rõ ràng, mang lại hiệu quả cao nhất. Chính quyền các cấp có trách

nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, đảm bảo thực hiện nghiêm
túc các chính sách, chế độ thu ngân sách. Thứ hai, tổ chức bộ máy thu ngân
sách phải đảm bảo kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và
vùng lãnh thổ, tức là phải phát huy tính tích cực sáng tạo của địa phương trên
cơ sở có tính đến nét đặc trưng của từng ngành. Những nét đặc thù của ngành,
những điều kiện đặc trưng riêng của từng địa phương đòi hỏi phải có sự khác
biệt trong tổ chức nhất định, nhằm đạt hiệu quả thu cao nhất. Chuyên môn
hóa theo ngành đảm bảo việc quản lý thu theo nguồn hình thành phù hợp đặc
điểm kinh tế, kỹ thuật của từng lĩnh vực. Tổ chức quản lý thu theo phân cấp
chính quyền đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng địa
phương, đồng thời nâng cao hiệu quả thu nhờ hiểu biết, sát thực tình hình
kinh tế trong phạm vi lãnh thổ của địa phương đó. Ngoài ra, tổ chức thu tốt
cũng còn thể hiện ở việc nhiệm vụ và quyền hạn được giao phù hợp cho từng
bộ phận. Điều này sẽ đảm bảo tính khả thi trong công tác thu ngân sách.
Một cách thức tổ chức khoa học, sự phân cấp quản lý phù hợp sẽ là tiền
đề đảm bảo hiệu quả công tác thu. Điều đó cũng đồng nghĩa việc tổ chức quản
lý quyết định đến kết quả thu có đúng như mong đợi hay không.
Lớp Kế hoạch 44
13
Yếu tố kỹ thuật, công nghệ, phương tiện thông tin phục vụ cho việc
quản lý thu, giám sát, thanh tra kiểm tra cũng tác động không nhỏ tới kết quả
thu ngân sách. Cơ chế, chính sách thu không, hoặc ít có những thay đổi, trong
khi tình hình kinh tế xã hội vận động và biến đổi hàng ngày. Trong hoàn cảnh
đó, kỹ thuật công nghệ đóng vai trò quan trọng giúp việc quản lý thu theo sát
thực tế, thu đúng, thu đủ. Trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, các quan hệ
kinh tế diễn ra ngày càng phức tạp, trình độ gian lận thuế, các thủ thuật trốn
thuế cũng ngày càng tinh vi, yếu tố thông tin, kỹ thuật rất cần được chú trọng.
Hiệu quả của công tác thu, kết quả của việc chống trốn và gian lận thuế bị tác
động nhiều ở yếu tố này.
Cuối cùng, cũng giống mọi hoạt động quản lý, hoạt động kinh tế khác,

công tác thu ngân sách cũng là công việc của con người, do con người thực
hiện. Bởi vậy, nhân tố con người có ý nghĩa quyết định. Nhân tố con người
được xem xét trên hai khía cạnh; năng lực và đạo đức. Dù có cơ chế chính
sách tốt, có cách thức tổ chức phù hợp, nhưng nếu cán bộ không hội đủ
chuyên môn, công tác thu cũng không thể hoàn thành tốt được. Những hành
vi trốn thuế, gian lận thuế là những hành động ở thế chủ động, trong khi công
việc phòng chống lại luôn ở thế bị động. Do vậy, để thực hiện tốt công việc
của mình, các cán bộ chuyên trách rất cần có năng lực cao. Tuy nhiên, trên
thực tế, gây tác hại nhiều hơn tới kết quả thu ngân sách lại không phải chủ
yếu do năng lực cán bộ yếu. Vấn đề bức xúc từ xưa đến nay vẫn là đạo đức
cán bộ. Việc quản lý một khối lượng lớn nguồn tài chính quốc gia đã tạo cơ
hội cho những cán hộ tha hóa, biến chất vi phạm pháp luật. Lợi ích cá nhân
luôn là động cơ thúc đẩy các hành vi vi phạm pháp luật, để các cán bộ thu
ngân sách bắt tay với đối tượng thu, gây phương hại đến lợi ích quốc gia. Bởi
vậy, nhân tố con người có tác động lớn tới kết quả thu ngân sách.
Qua những phân tích trên, có thể khẳng định, phương thức tổ chức
quản lý và quá trình tổ chức thực hiện có ý nghĩa quyết định tới kết quả thu
ngân sách. Quá trình thu vừa là hiện thực hóa các cơ chế chính sách huy động
nguồn lực tài chính vào NSNN, vừa là sự kiểm nghiệm tính đúng đắn của các
chính sách đó, để rồi thông qua những nảy sinh trong thực tiễn mà có những
gợi mở để hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực thu.
Lớp Kế hoạch 44
14
II. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ THU NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ
1. Khái quát quá trình xây dựng Luật ngân sách
Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
củng cố và xây dựng pháp luật về ngân sách phù hợp với vai trò và tính chất
của nhà nước cách mạng nhằm kế thừa những tiềm lực tài chính của chế độ
cũ, huy động sự đóng gớp của đồng bào dưới các hình thức quỹ “Tuần lễ vàng

hay “Quỹ Độc lập”. Cùng với việc bãi bỏ các thứ thuế hà khắc, Chính phủ
lâm thời đã ban hành hàng loạt các sắc lệnh để tạo lập, quản lý và sử dụng
ngân sách nhà nước nhằm phục vụ cho nhà nước cách mạng còn non trẻ trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập. Trong thời kỳ trước 1954, Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài
chống thực dân Pháp. Vì vậy, NSNN trong giai đoạn này chủ yếu phục vụ cho
nhiệm vụ kháng chiến, đồng thời nhằm duy trì bộ máy chính quyền kháng
chiến các cấp. Dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, NSNN được thiết
lập vào Tháng 1 năm 1946. Một số văn bản pháp luật đầu tiên về NSNN được
ban hành, đó là Sắc lệnh số 11 ngày 7-9-1945 quy định thống nhất chế độ
thuế trong cả nước, bãi bỏ thuế thân; Sắc lệnh ngày 27-9-1945 điều chỉnh thuế
môn bài nhằm khuyến khích tiểu thương và những người buôn bán nhỏ; Sắc
lệnh hủy bỏ các thứ cống nạp vô lý của chế độ thuộc địa... NSNN trong giai
đoạn này bao gồm: NS trung ương, NS địa phương, NS hỏa xa, NS trong 3 kỳ
(Bắc, Trung, Nam) và NS của 2 thành phố Hà Nội, Hải phòng. Nguồn thu
ngân sách được huy động khá tùy tiện từ các địa phương, việc sử dụng cũng
theo cách tùy tiện.
Trong giai đoạn 1955-1975, miền Bắc tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa, giải phóng miền Nam, đấu tranh thống nhất đất nước. NSNN được
chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế phân cấp theo hướng tăng
thêm một số quyền hạn cho địa phương. Địa phương có dự toán độc lập, được
giao những khoản thu đích danh cho các chương trình trong khuôn khổ địa
phương. Văn bản quan trọng được ban hành trong giai đoạn này là: Điều lệ
lập, chấp hành ngân sách nhà nước năm 1961 (Nghị định 168/CP ngày 20-10-
1961), Điều lệ phân cấp quản lý tài chính - ngân sách cho các cấp chính
Lớp Kế hoạch 44
15
quyền quy định tại Nghị Định số 119/CP ngày 118/67.
Từ sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, cùng với quá trình
phục hồi và đi lên của đất nước, hệ thống pháp luật về NSNN cũng dần được

hoàn thiện. Nghị quyết 108/CP (ngày 13-5-1978) nhằm hoàn thiện cơ chế
phân cấp quản lý ngân sách. Nghị định 138/HĐBT năm 1983 nhằm tăng
cường quản lý thống nhất của trung ương về các chính sách, chế độ thu, chi
tài chính ở địa phương. Nghị quyết này quyết định số thu vào ngân sách địa
phương được xác định không phải khống chế theo số chi ngân sách địa
phương do trung ương ấn định, mà căn cứ vào số thu thực tế trên địa bàn.
Ngoài việc được trích một phần để lại cho ngân sách địa phương theo tỷ lệ
điều tiết quy định đối với mỗi khoản thu, địa phương còn được trích thẳng
khoản 35-50% trên số thu kế hoạch nộp vào NS trung ương. Nghị quyết số
186/HĐBT (ngày 27/11/1989), Quyết định số 168/HĐBT (ngày 16/5/1992).
Tuy nhiên, đây đều là những văn bản dưới luật.
Ngày 20-3-1996, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật
Ngân sách nhà nước có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 1997 (gọi tắt là
Luật Ngân sách nhà nước năm 1996). Ngày 20-5-1998, Quốc hội đã thông
qua Luật Ngân sách sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà
nước (gọi tắt là Luật Ngân sách nhà nước năm 1998). Ngày 16-12-2002, tại
kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Ngân sách nhà nước (mới)
thay thế Luật Ngân sách nhà nước năm 1996, và Luật Ngân sách nhà nước
năm 1998, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 (gọi tắt là Luật Ngân
sách nhà nước năm 2002).
Như vậy, từ những năm đầu độc lập, trải qua 20 năm đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, những năm đầu thống nhất đất nước cho đến gần 20 năm đổi
mới, luật ngân sách nhà nước đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử. Từ chỗ
chỉ là những văn bản, quy định, điều lệ, hệ thống pháp luật về NSNN đã dần
được hoàn thiện và đến năm 1996 đã có bộ Luật đầu tiên. Qua một lần sửa đổi
năm 1998, đến năm 2002, Luật NSNN mới một lần nữa được ban hành và cho
đến nay là Luật hiện hành trong lĩnh vực ngân sách ở nước ta.
2. Các quy định hiện hành trong lĩnh vực thu ngân sách
Lớp Kế hoạch 44
16

2.1. Luật ngân sách 2002
Luật NSNN mới được ban hành năm 2002 và có hiệu lực thi hành từ năm
ngân sách 2004, Luật NSNN điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá
trình quản lý và điều hành các bộ phận chủ yếu là thu, chi, phân cấp, lập, chấp
hành, quyết toán ngân sách nhà nước tổ chức bộ máy quản lý ngân sách nhà
nước. Khung pháp luật về NSNN ngoài Luật NSNN còn có hệ thống các Nghị
quyết của Quốc hội, Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan khác.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra cơ chế quản lý ngân sách mới,
vừa thể hiện sự tập trung, thống nhất, vừa phân cấp mạnh mẽ theo hướng tăng
quyền chủ động tài chính cho các địa phương, các ngành, các cấp, các đơn vị
sử dụng ngân sách. Đồng thời cũng tăng cường kỷ cương, kỷ luật bằng các
quy định cụ thể gắn quyền hạn với trách nhiệm, hướng tăng cường công khai,
minh bạch thông qua cải cách hành chính, thanh gọn nhẹ các khâu thủ tục từ
dự toán đến quyết toán.
2.1.1. Quy định về các khoản thu ngân sách địa phương
Các khoản thu, nguồn thu của Ngân sách thành phố Hà Nội được quy
định tại Điều 10 Chương 2, Quyết định số 134/2003/QĐ-UB của UBND
thành phố Hà Nội, căn cứ vào điều 32, chương 3, Luật Ngân sách Nhà nước
2002 qui định về các khoản thu của ngân sách địa phương.
Các khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Hà Nội được để lại
100%: (18 khoản)
- Thuế nhà, đất;
- Thuế tài nguyên, không kể thuế tài nguyên thu từ dầu, khí;
- Thuế môn bài;
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
- Tiền sử dụng đất;
- Tiền cho thuê đất;
- Tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu của Nhà nước;
- Lệ phí trước bạ;

- Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
Lớp Kế hoạch 44
17

×