Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Thảo luận vấn đề công nghiệp hóa Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.52 KB, 7 trang )

Thảo luận_Con đường công nghiệp hóa
của Việt Nam
Friday, 18th September 2009
Kỳ 1: Biến động Đông Á và lợi thế so sánh của Việt Nam Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là chiến lược dài hạn của Việt Nam với mục tiêu đến năm 2020 sẽ trở thành một
nước công nghiệp hiện đại. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, con đường công nghiệp
hóa của Việt Nam đang mở ra trong một bối cảnh khu vực và quốc tế như thế nào? Để
thành công trên con đường này Việt Nam cần một chiến lược như thế nào? Những
biện pháp, chính sách để thực hiện chiến lược đó là gì? Kinh nghiệm thực hiện chính
sách công nghiệp của Nhật Bản Hiện tại, Nhật Bản đang có khó khăn trong việc phát
triển kinh tế, nhưng trong quá khứ, họ đã thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đưa đất nước đứng vào hàng đầu trong đội ngũ các cường quốc. Sự thành
công của Nhật Bản đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các nước khu vực
ASEAN, nhất là những nước bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hoá muộn hơn. I. Chính
sách công nghiệp Nhật Bản, việc lựa chọn đầu tư phát triển cho ngành nghề, lĩnh vực
và các biện pháp cơ bản để phát triển. Thông thường, chính sách công nghiệp sẽ thiết
kế theo hướng bắt đầu từ các ngành sử dụng nhiều sức lao động (ví dụ ngành Dệt-
may, Da-giầy, Than ) tiến tới các ngành sử dụng nhiều vốn, kỹ thuật công nghệ đắt
tiền (ví dụ ngành sản xuất ô tô, đóng tàu, máy cái), từ lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp,
đến các lĩnh vực có Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chiến lược dài hạn của Việt
Nam với mục tiêu đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Nhưng
trong giai đoạn hiện nay, con đường công nghiệp hóa của Việt Nam đang mở ra trong
một bối cảnh khu vực và quốc tế như thế nào? Để thành công trên con đường này Việt
Nam cần một chiến lược như thế nào? Những biện pháp, chính sách để thực hiện
chiến lược đó là gì? Thách thức và cơ hội ở Đông Á Trong nửa sau thế kỷ XX, dòng
thác công nghiệp đã lan nhanh cả bề sâu và bề rộng tại Đông Á và các nước trong
vùng này nối đuôi nhau trong quá trình phát triển. Vì điều kiện lịch sử, Việt Nam đã
mất phần lớn của nửa sau thế kỷ này về phương diện phát triển kinh tế. Công cuộc đổi
mới đã đưa Việt Nam hội nhập vào làn sóng công nghiệp trong khu vực từ đầu thập
niên 1990 nhưng vào đầu thế kỷ XXI, giữa Việt Nam và các nước lân cận còn một
khoảng cách lớn về trình độ phát triển. Mặt khác, hiện nay vẫn còn hơn 60% lực


lượng lao động còn trong nông nghiệp, công nghiệp mới thu hút chỉ hơn 10% số lao
động có việc làm trên toàn quốc. Ngoài ra còn có hơn 400.000 lao động đang làm việc
ở nước ngoài, trong đó nhiều người làm việc trong những điều kiện khó khăn nên nếu
trong nước có nhiều cơ hội làm việc, đa số họ sẽ không chọn con đường lao động ở
xứ người. Như vậy, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hóa để phát triển nhanh
hơn, để thu hút lao động nhiều hơn, tạo tiền đề rút ngắn khoảng cách với các nước.
Công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên tạo ra công ăn việc làm còn góp phần lớn vào
việc thực hiện công bằng xã hội. Nhưng công nghiệp hóa Việt Nam sẽ trực diện
những thách thức nào và cơ hội nếu có sẽ đến từ đâu? Thương trường của Việt Nam
đang mở rộng ra khắp thế giới. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, khuynh hướng này
sẽ càng mạnh hơn. Tuy nhiên, có thể nói trong giai đoạn trước mắt, thách thức trực
tiếp và cũng là cơ hội đối với công nghiệp Việt Nam là ở vùng Đông Á. Tại đây, hai
trào lưu đang nổi cộm và sẽ tác động đến sự phát triển của công nghiệp Việt Nam, đó
là sự biến động trong làn sóng công nghiệp Đông Á và khuynh hướng tự do thương
mại trong vùng. Hiểu đúng tính chất và tác động của hai trào lưu này để xác định
được phương hướng chiến lược cho công nghiệp hoá trong giai đoạn tới là vấn đề tối
quan trọng của kinh tế Việt Nam hiện nay. Vấn đề khẩn cấp đối với Việt Nam hiện
nay là xác định được những lĩnh vực mà nhu cầu thế giới đang tăng đồng thời xét ra
Việt Nam có lợi thế so sánh động như đồ điện, điện tử gia dụng và các loại máy móc
liên quan công nghệ thông tin như máy tính cá nhân, điện thoại di động và từ đó đưa
ra các chính sách tạo ra các tiền đề, các điều kiện để tiềm năng biến thành hiện thực.
Phân tích bản đồ kinh tế Đông Á cho thấy Việt Nam đang đi sau khá xa các nước
chung quanh về trình độ phát triển công nghiệp, thể hiện trong sự cách biệt về tỷ lệ
hàng công nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ sản phẩm máy móc các loại trong tổng xuất khẩu,
thể hiện trong chỉ số cạnh tranh của những ngành công nghiệp chủ yếu và trong cơ
cấu phân công lao động giữa Việt Nam với các nước này. Ngoài ra, Việt Nam phải
nhập siêu nhiều với hầu hết các nước đó. Không kể một số nước mới gia nhập
ASEAN, Việt Nam là nước đi sau cùng trong quá trình công nghiệp hóa ở vùng Đông
Á. Nhưng chiến lược đuổi bắt của Việt Nam trong quá trình đó đang trực diện hai
thách thức lớn: Thứ nhất là ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc. Kinh tế Trung Quốc

vừa lớn về quy mô vừa nhanh về tốc độ tăng trưởng, giai đoạn phát triển và cơ cấu tài
nguyên, cơ cấu kinh tế lại tương đối gần với Việt Nam. Trung Quốc ngày càng cạnh
tranh mạnh trong hầu hết các loại hàng công nghiệp. Thách thức thứ hai là mặc dù cơ
cấu và sức cạnh tranh của công nghiệp còn yếu, Việt Nam phải sớm thực hiện tự do
hóa thương mại với các nước trong khu vực. Đến nửa sau của năm 2006 về căn bản
phải hoàn thành chương trình cắt giảm thuế trong khuôn khổ thực hiện Khu vực
thương mại tự do ASEAN (AFTA) và chậm lắm là năm 2015 phải hoàn thành chương
trình tự do thương mại với Trung Quốc trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do
(FTA) giữa nước này với khối ASEAN. Đối với Việt Nam, sự lớn mạnh của kinh tế
Trung Quốc đang trở thành một thách thức lớn và FTA Trung Quốc-ASEAN sẽ làm
cho thách thức đó càng mạnh hơn. Mặt khác, AFTA và sự trỗi dậy của kinh tế Trung
Quốc không phải chỉ là thách thức mà còn là cơ hội cho thị trường của hàng xuất khẩu
Việt Nam (năm 2004, ASEAN nhập khẩu hơn 450 tỷ và Trung Quốc nhập khẩu 561
tỷ USD), nhất là trong thể chế tự do thương mại. Tuy nhiên, hiện nay, Nhật Bản, Hàn
Quốc và các nước ASEAN đã phát triển là những nước chủ yếu tận dụng được cơ hội
của thị trường Trung Quốc. ASEAN thì là nơi tranh giành thị phần giữa Nhật, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Đài Loan Việt Nam mới chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc và
ASEAN hàng nguyên liệu và nông phẩm; hàng công nghiệp thì rất ít. Để giảm thách
thức và tận dụng được cơ hội do Trung Quốc và ASEAN mang lại, Việt Nam phải
chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu sang các nước này, phải có khả năng cung cấp
ngày càng nhiều mặt hàng công nghiệp cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế
giới. Muốn vậy phải xác định được những ngành có lợi thê so sánh, chuyển hướng
chiến lược cho phù hợp với tình hình mới va tận dụng ngoại lực để vừa làm tăng nội
lực vừa nhanh chóng tăng năng lực cạnh tranh. Tìm lợi thế so sánh động và chuyển
hướng chiến lược Lợi thế so sánh tĩnh là lợi thế có ngay bây giờ, có ngành đã được
phát huy, cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế nhưng cũng có ngành chưa
được phát huy do môi trường hoạt động của Doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Lợi thế
so sánh động là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai gần hay xa khi các điều
kiện về công nghệ, về nguồn nhân lực và khả năng tích lũy tư bản cho phép. Nếu có
chính sách tích cực theo hướng tạo ra nhanh các điều kiện đó sẽ làm cho lợi thế so

sánh động sớm chuyển thành sức cạnh tranh hiện thực. Việt Nam cần chuyển chiến
lược từ thay thế nhập khẩu sang xúc tiến xuất khẩu những sản phẩm nguyên chiếc mà
biện pháp cụ thể là giảm giá thành những sản phẩm đó bằng cách bãi bỏ thuế nhập
khẩu linh kiện, bộ phận. Để dễ phân tích, ta có thể chia các ngành công nghiệp thành
năm nhóm: Nhóm A là những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động
giản đơn, như vải vóc, quần áo, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v Nhóm B là những
ngành vừa có hàm lượng lao động cao vừa sử dụng nhiều nguyên liệu nông lâm thủy
sản như thực phẩm gia công các loại, đồ uống, v.v Nhóm C là những ngành có hàm
lượng tư bản cao và dựa vào nguồn tài nguyên khoáng sản như thép, hóa dầu, luyện
nhôm Nhóm D là những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động
lành nghề, lao động có kỹ năng cao với nhiều trình độ khác nhau, như đồ điện, điện tử
gia dụng, xe máy, máy bơm nước và các loại máy móc khác, các loại bộ phận, linh
kiện điện tử, v.v Nhóm E là những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao
như máy tính, xe hơi, máy công cụ, các linh kiện, bộ phận điện tử cao cấp v.v Mỗi
ngành lại có thể chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn (up-stream) gồm các
công đoạn nghiên cứu - triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận linh kiện chính;
trung nguồn (mid-stream) là công đoạn lắp ráp, gia công; hạ nguồn (down-stream) là
tiếp thị, xây dựng mạng lưới lưu thông, khai thác và tiếp cận thị trường. Ba giai đoạn
này kết hợp thành một chuỗi giá trị (value-chain) của một sản phẩm. Trên thị trường
thế giới, Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh trong nhóm A và các sản phẩm lắp ráp
trong nhóm D. Thái Lan và các nước ASEAN đã phát triển có lợi thế trong nhóm B
và các sản phẩm lắp ráp trong nhóm D. Cả Trung Quốc và các nước ASEAN phát
triển đang tiến lên khá cao ở thượng nguồn của chuỗi giá trị trong các ngành thuộc
nhóm D. Nhật và các nền kinh tế công nghiệp hóa mới (NIEs) như Hàn Quốc, Đài
Loan còn duy trì lợi thế so sánh trong nhóm E nhưng tăng cường mạng lưới sản xuất
khắp cả vùng Đông Á, do đó Trung Quốc và các nước ASEAN cũng tham gia ngày
càng sâu vào các ngành trong nhóm này. Nói chung, các nhóm D và E gồm những
ngành liên quan đến các loại máy móc, và đang ngày càng đóng vai trò chủ đạo trong
sự phân công ở khu vực Đông Á. Nhóm A và nhóm B là những ngành Việt Nam đang
có lợi thế so sánh. Nhưng trong hai ngành chủ lực là may mặc và giày dép, hiện nay

Việt Nam mới tập trung ở trung nguồn của chuỗi giá trị và chủ yếu dựa vào lao động
giản đơn. Các giai đoạn cao hơn trong chuỗi giá trị phần lớn phụ thuộc nước ngoài.
Việt Nam cần nỗ lực tiến về thượng và hạ nguồn mà việc liên kết chiến lược với các
công ty nước ngoài như sẽ nói dưới đây là một trong những biện pháp hữu hiệu.
Nhưng dù sao các ngành này vẫn là nhóm thuộc các ngành Việt Nam có lợi thế so
sánh tĩnh. Vấn đề quan trọng hơn là Việt Nam phải xác định được những lĩnh vực mà
nhu cầu thế giới đang tăng đồng thời xét ra Việt Nam có lợi thế so sánh động. Phát
triển các ngành này sẽ làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất và xuất khẩu trong
tương lai không xa. Vấn đề khẩn cấp đối với Việt Nam hiện nay là xác định được
những ngành hội đủ hai điều kiện đó và từ đó đưa ra các chính sách tạo ra các tiền đề,
các điều kiện để tiềm năng biến thành hiện thực. Phân tích nhu cầu thế giới và tham
khảo sự đánh giá của các công ty đa quốc gia về tiềm năng của Việt Nam, tôi cho rằng
các ngành thuộc nhóm D và một phần trong nhóm E, đặc biệt là đồ điện, điện tử gia
dụng và các loại máy móc liên quan công nghệ thông tin như máy tính cá nhân, điện
thoại di động là những ngành có đủ hai điều kiện nêu trên. Nhưng để đẩy mạnh phát
triển các ngành này, Việt Nam phải giải quyết vấn đề cơ bản hiện nay là sự yếu kém
của các ngành công nghiệp phụ trợ. Phải xem đây là mũi đột phá chiến lược và dồn tất
cả các năng lực về chính sách cho mũi đột phá này. Chẳng hạn, rà soát lại các doanh
nghiệp nhà nước để tìm ra các đơn vị sản xuất có tiềm năng cung cấp các bộ phận,
linh kiện, phụ kiện với chất lượng và giá thành cạnh tranh, từ đó tăng cường hỗ trợ về
vốn, công nghệ, v.v., để tiềm năng trở thành hiện thực; xây dựng chế độ tưởng thưởng
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, kể cả doanh nghiệp tư nhân và Doanh nghiệp có
vốn nước ngoài, thành công trong việc sản xuất và cung cấp sản phẩm công nghiệp
phụ trợ, v.v Nhưng quan trọng hơn cả là phải chuyển hướng chiến lược lien quan
đến các ngành nhóm D và E. Chính sách hiện nay của Việt Nam là bảo hộ các sản
phẩm nguyên chiếc (tivi, tủ lạnh, xe máy, xe hơi, v.v. ) với thuế quan cao và buộc các
công ty lắp ráp tăng dần tỷ lệ nội địa hoá đối với các sản phẩm công nghiệp phụ trợ.
Nói chung, đây là chiến lược thay thế nhập khẩu mà biện pháp là thiết lập hàng rào
quan thuế khá cao ở cả sản phẩm nguyên chiếc và bộ phận, linh kiện. Nhưng với việc
thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA, Việt 53 Nam sẽ phải thực hiện tự do

hóa thương mại với ASEAN từ nửa sau năm 2006. Tại các nước ASEAN đã phát
triển, đặc biệt là Thái Lan và Malaixia, quy mô sản xuất của các loại hàng công
nghiệp đó rất lớn nên giá thành rẻ hơn Việt Nam nhiều. Một khi được tự do nhập khẩu
vào Việt Nam, sản phẩm cùng loại của ta sẽ bị đẩy lùi. Bộ phận, linh kiện nhập từ
ASEAN cũng sẽ rẻ vì được miễn thuế nhưng những linh kiện, bộ phận nhập từ các
nước khác vẫn chịu phí tổn cao nếu chính sách của Việt Nam không thay đổi. Tình
hình này có hể đưa đến khả năng các công ty đa quốc gia di chuyển những cơ sở ắp
ráp tại Việt Nam sang các nước ASEAN khác. Để tránh trường hợp này, Việt Nam
cần chuyển ngay hiến lược từ thay thế nhập khẩu ang xúc tiến xuất khẩu những sản
phẩm nguyên chiếc mà biện pháp cụ thể là giảm giá thành những sản phẩm đó bằng
cách bãi bỏ thuế nhập khẩu linh kiện, bộ phận. Nói cách khác, nên dùng cơ chế thị
trường hay cho chính sách cưỡng chế nội địa hoá để xây dựng ngành công nghiệp phụ
trợ. Tại sao như vậy? Để xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ, trong quá khứ
cũng có nhiều nước đã áp dụng biện pháp nâng cao thuế suất linh kiện nhập khẩu,
nhưng chính sách này phải đồng thời đi liền với chính sách bảo hộ sản phẩm nguyên
chiếc. Việt Nam ngày nay không thể bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc thì phải theo một
chiến lược khác. Chính sách tối ưu hiện nay là phải nhanh chóng tăng năng lực cạnh
tranh để xuất khẩu được sản phẩm nguyên chiếc, từ đó quy mô sản xuất trong nước
tăng nhanh, tạo điều kiện để các công ty cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ đầu
tư lớn. Đồ điện, điện tử gia dụng là những loại máy móc gồm nhiều công đoạn nên có
sự phân công hàng ngang giữa các nước trong việc sản xuất và cung cấp cho nhau các
linh kiện, bộ phận. Tuy nhiên, phần đông công nghệ sản xuất đã tiêu chuẩn hóa và ít
sai biệt về độ sâu lao động hay tư bản. Do đó, các doanh nghiệp có khuynh hướng tích
cực nội địa hóa linh kiện, bộ phận khi lượng sản xuất đạt quy mô kinh tế. Thêm vào
đó, khi sản phẩm nguyên chiếc sản xuất cả cho thị trường thế giới thì các công ty lắp
ráp phải thường xuyên thay đổ cơ năng, mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm. Điều này
buộc họ phải luôn bảo đảm một sự cơ động, nhu nhuyến trong việc quản lý dây
chuyền cung cấp các sản phẩm phụ trợ và do đó phải tăng tỷ lệ nội địa hóa, chủ động
tham gia xây dựng các cụm công nghiệp. Tóm lại, ngay từ bây giờ Việt Nam phải chủ
động chuyển sang chiến lược hướng ngoại, cho tự do nhập khẩu linh kiện, bộ phận và

đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm nguyên chiếc. Sau khi hoàn thành chương trình thực
hiện AFTA, chính sách thay thế nhập khẩu hiện nay sẽ phả thay đổi nhưng đó là thay
đổi thu động và chỉ áp dụng với các nước ASEAN. Gia nhập WTO cũng không bắt
buộc Việt Nam thay đổ chính sách bảo hộ bằng thuế. Va như đã phân tích, chính sách
bảo hộ hiện nay sẽ không đối phó được với thách thức AFTA. Chỉ có con đường là
chủ động thay đổi chính sách từ bây giờ. Trong thời đại toàn cầu hoá và khu vực hoá,
phải co chiến lược mới và chính sách, biện pháp thích hợp. phủ rất ít khi xác định các
ngành mà xí nghiệp tư nhân cần phát triển, trừ các ngành công nghiệp quân sự.) Với
chiến lược như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ II – từ những năm 1950, khi đất nước
đang phải gánh chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, Nhật Bản bắt đầu xây dựng
những kế hoạch và chiến lược để khôi phục, phát triển đất nước theo một “chính sách
công nghiệp” gồm 6 nội dung: - Điều chỉnh sản xuất, đầu tư - hiện đại hoá và sắp xếp
lại ngành nghề lĩnh vực; - đẩy mạnh xuất khẩu; - Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu
phát triển (R&D) hiệu quả; - Triển khai chính sách về tài nguyên, năng lượng; - Xây
dựng và thực hiện đúng chính sách đối với doanh nghiệp, xí nghiệp vừa và nhỏ. Thực
hiện 6 nội dung này, Chính phủ Nhật Bản đã đặt trọng tâm vào việc hướng dẫn các
hoạt động công nghiệp bằng cách cung cấp thông tin về thị trường tiêu thụ hàng công
nghiệp, chú trọng đến vấn đề cung cấp, sức cạnh tranh các mặt hàng công nghiệp
Trên cơ sở đó, đưa ra được bức tranh toàn cảnh, cụ thể, dự báo được triển vọng các
mặt hoạt động công nghiệp. Để cụ thể hoá chính sách công nghiệp đề ra, người Nhật
đã xác định một loạt các biện pháp thực hiện. Trước hết, Nhật Bản có chính sách ưu
đãi thuế quan, miễn thuế nhập khẩu đối với các loại máy móc quan trọng, tiên tiến,
mới (mà trong nước không sản xuất được) khi đã xác định rõ ngành, lĩnh vực, thời
gian dành cho nó phát triển ; Có chính sách ưu đãi hoặc miễn thuế đối với các sản
phẩm của những ngành mới ra đời như cơ khí cơ bản, phụ tùng cơ khí, hoá dầu, cơ
khí điện tử…; Thực hiện giảm thuế khấu hao luỹ tiến đối với các thiết bị sản xuất;
Thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu phát triển; Thiết lập sự phối hợp, liên thông chặt
chẽ giữa Chính phủ và giới công nghiệp. Cụ thể là thúc đẩy các doanh nghiệp phát
triển như nới lỏng các hạn chế nhập khẩu đối với các hàng sơ chế và vốn cần thiết cho
xuất khẩu, giảm các hạn chế đối với các ngành (hạn chế số lượng nhập khẩu một số

loại vật tư, hạn chế về thu hút vốn và công nghệ, kỹ thuật nước ngoài, hạn chế sử
dụng ngoại tệ…), nhất là những ngành mũi nhọn cần phát triển, là một biện pháp tích
cực, tạo cú hích mạnh cho các ngành đi lên mạnh mẽ (Vì chưa có công nghệ nguồn,
nên từ năm 1950 – 1974, Nhật Bản có hơn 15.000 vụ nhập khẩu kỹ thuật với gần 70%
nhập từ Mỹ, tiết kiệm được hàng trăm tỷ USD, nâng ngành công nghiệp chế tạo lên
tầm cỡ thế giới), cho vay vốn với lãi suất thấp để phát triển các ngành: Khai thác than,
gang thép, điện lực, đóng tàu…, thu hút công nghệ, kỹ thuật mới, xoá bỏ sự lạc hậu,
chênh lệch về kỹ thuật so với thế giới; tăng cường khả năng nghiên cứu và phát triển
(R&D) của các xí nghiệp. Đồng thời, Nhật Bản cho phép ưu đãi thuế đối với tập thể
liên doanh các xí nghiệp bỏ vốn nghiên cứu, thí nghiệm; trợ cấp vốn cho xí nghiệp tư
nhân có dự án, công trình có giá trị kinh tế - xã hội cao; cấp vốn cho các nghiên cứu
uỷ thác về lĩnh vực năng lượng, máy tính, vật liệu mới, công nghệ sinh học; Cung cấp
cho doanh nghiệp những thông tin về định hướng cơ cấu công nghiệp và những thay
đổi trong quan hệ quốc tế. Nhờ sự hướng dẫn, dự báo kịp thời của Chính phủ, nên
nhiều doanh nghiệp tránh được sự phá sản. Ví dụ Công ty Thép Nippon Steel, nhờ
tham khảo các báo cáo, nghiên cứu định hướng đó đã chuyển ngay sang kinh doanh
máy tính điện tử, hàng chục ngàn công nhân đáng lẽ bị thất nghiệp lại được đào tạo
lại, chung sức xây dựng thành hãng máy tính mạnh… II. Bài học về kinh nghiệm thực
hiện chính sách công nghiệp Nhật Bản đối với các nước trong khối ASEAN. Thực
chất việc thiết lập và thực hiện chính sách công nghiệp là xây dựng một lộ trình để
đẩy mạnh công nghiệp hoá, phát triển kinh tế vững chắc. Là những nước đi sau và
trình độ chênh lệch, nên các nước asean phải tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của mình để
lựa chọn ngành nghề phát triển. Ví dụ, các nước ASEAN không cần máy móc theo
thứ tự lựa chọn ngành nghề phát triển mà có thể đồng thời ưu tiên một lúc nhiều
ngành nghề liền, tuỳ theo khả năng của nguồn lực và sức cạnh tranh sản phẩm của
quốc gia. Chẳng hạn, trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam và các nước nghèo như Lào,
Campuchia, có thể đồng thời phát triển ngành hàng sản xuất thay thế nhập khẩu có
hiệu quả, tiết kiệm ngoại tệ và các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao
động, thu nhiều ngoại tệ. Tuy nhiên, phải chú ý để một số nước ASEAN không sản
xuất trùng lặp mặt hàng, dẫm chân lên nhau, trong khi có nước đã có thương hiệu nổi

tiếng, thị trường ổn định mà cứ cố tình sản xuất cùng mặt hàng sẽ khó cạnh tranh. Mặt
khác, là những nước đi sau, khi tính toán, lĩnh vực nào nếu nhập khẩu còn rẻ hơn bỏ
vốn ra đầu tư sản xuất, thì phải cân nhắc để tránh lãng phí vô ích. Đối với một số
ngành, lĩnh vực sản xuất khi cung đã vượt quá cầu trong nước, thì không nên coi trọng
mở rộng đầu tư cho sản xuất mà phải chuyển sang vấn đề tiêu thụ, tức là liên quan
nhiều đến các khâu trung gian như vận chuyển, chế biến, bảo quản, bán buôn, bán lẻ,
dịch vụ tư vấn, quảng cáo, xây dựng thương hiệu. Do đó, để có thể đi đúng hướng
cũng như phát triển nền kinh tế, bước vào CNH – HĐH, các nước ASEAN cần lưu ý
những vấn đề sau: * Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách công nghiệp đã
được Nhật Bản tiến hành trong môi trường, điều kiện văn hóa - xã hội tương thích. Vì
vậy, các nước ASEAN với những đặc thù về văn hóa - xã hội đa dạng, cần tính đến
bài học của Nhật Bản là xã hội tuân thủ luật pháp, mọi chính sách đều triệt để, chuẩn
bị kỹ cả khâu nhận thức đối với doanh nghiêp, nhà chức trách, công chúng, tạo một
niềm tin thống nhất trong mọi người. Thiếu những yếu tố này, chắc chắn dù chính
sách công nghiệp tốt đến mấy cũng khó thành công. Do vậy, đối với các nước
ASEAN mà tính thống nhất của nhận thức xã hội chưa cao, vẫn còn biểu hiện của sự
manh mún, cục bộ, vị kỷ… có thể trong chính sách công nghiệp, nên lồng ghép một
chính sách nhỏ hơn nhưng gắn kết lại với nhau, đó là chiến lược truyền thông để
quảng bá sâu rộng, giáo dục nâng cao và thống nhất nhận thức toàn xã hội. Song cần
chú ý rằng, khi lập ra MITI (Bộ Công nghiệp - Thương mại), Nhật Bản đã gắn ngay
lĩnh vực phát triển công nghiệp, sản xuất với thương mại, nghĩa là công nghiệp hóa
gắn buôn bán, xuất khẩu gắn nhập khẩu. Trong chính sách công nghiệp, Nhật Bản
thường thiết kế cơ cấu nhập khẩu sao cho phù hợp với định hướng xuất khẩu. Cơ cấu
nhập khẩu hiệu quả của họ gồm 5 nhóm hàng hóa là :Bằng phát minh sáng chế; Máy
móc thiết bị, công nghệ; Nhiên liệu, nguyên vật liệu; Hàng tiêu dùng và các dịch vụ
khác * Một nền kinh tế hướng ngoại thường có cơ chế nhập khẩu đủ cả 5 nhóm
hàng, dĩ nhiên là tỷ trọng các nhóm có thể khác nhau, tuỳ từng giai đoạn. Thực tế cho
thấy, nếu nước nào chỉ dùng ngoại tệ do xuất khẩu tài nguyên để mua công nghệ, máy
móc thì dễ rơi vào tình trạng phải mua máy móc cũ và dần thành “bãi rác công
nghiệp” của các nước bán máy, thiết bị. Vì thế cần phải gạt bỏ chính sách nhập 3

nhóm mà các nước mới phát triển hay dùng: máy móc, nguyên vật liệu - nhiên liệu,
hàng tiêu dùng, học bài học Nhật Bản khi mới phát triển sau chiến tranh thế giới thứ
II: Tích cực nhập khẩu bằng sáng chế, phát minh, các dịch vụ nên các máy móc, thiết
bị, nguyên vật liệu được sử dụng hết công suất, nhanh chóng có sức cạnh tranh quốc
tế. Vấn đề nhập hàng tiêu dùng cũng phải được chú ý, không nên để ở tỷ lệ thấp và
thuế cao trong tổng giá trị hàng nhập khẩu, vì sẽ dẫn đến tình trạng buôn lậu, tham
nhũng. Trong nhập khẩu, phải tính đến các dịch vụ gắn liền với phát triển công nghiệp
như dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn, viễn thông… * Muốn xây dựng
và thực hiện tốt chính sách công nghiệp, cần chú ý xây dựng một cách đồng bộ các
luật, quy định liên quan đến phát triển công nghiệp phù hợp với khu vực và quốc tế.
Trong tình hình hiện nay, từ năm 2003-2008, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN cơ bản
được hoàn thành, thị trường mỗi nước trong ASEAN và cả khu vực với các đối tác
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc sẽ có những bước phát triển, vì vậy, các nước
ASEAN, nhất là những nước phát triển cần nhanh chóng xây dựng đầy đủ, hoàn thiện
các luật, quy đinh theo chuẩn quốc tế về thuế quan, hải quan, xuất nhập cảnh, luật
kiểm soát độc quyền, luật về thị trường bất động sản, thị trường vốn, luật chống bán
phá giá, luật đầu tư, thương quyền… Ngoài ra, các nước ASEAN phải dùng các lĩnh
vực khác để hỗ trợ, thúc đẩy công nghiệp phát triển và cần có lĩnh vực riêng, mang
đặc thù mỗi nước. Bài học kinh nghiệm từ chính sách công nghiệp Nhật Bản đến nay
vẫn có thể tham khảo, đó là chính sách về thuế, thuế quan, nới lỏng, tiến tới xoá dần
các hạn chế hạn ngạch, phối hợp tốt giữa Chính phủ với doanh nhân… và đặc biệt là
phát huy vai trò cung cấp thông tin, phân tích, dự báo của các chương trình trong
chính sách công nghiệp. * Hiện nay, trong các nước ASEAN, có nước đã thực hiện
đến đoạn cuối của Bộ chính sách công nghiệp, bước vào thời kỳ chọn lĩnh vực phát
triển là các ngành sản xuất hàng xuất khẩu kỹ thuật mũi nhọn. Singapore chẳng hạn,
đã chọn công nghiệp mũi nhọn là công nghiệp sinh học. Năm 2002, sức sản xuất của
ngành này ở Singapore tăng 48%, đạt 9,7 tỷ Đô la Singapore (tương đương 5,61 tỷ
USD). Dự báo đến năm 2005, Ngành trên sẽ đạt 12 tỷ đô là Singapore, trong đó công
nghiệp sinh học phục vụ ngành Dược sẽ đạt 8 tỷ Đô la Singapore. Và vì vậy, trong
chính sách công nghiệp, họ sẽ giảm thị phần của ngành công nghiệp chế tạo máy, thay

vào đó là công nghiệp sinh học. Trong lúc đó, một số nước ASEAN đã tiến đến giữa
lộ trình và cũng có những nước vẫn ở thời kỳ đầu. Do không đồng đều, nên mỗi nước
phải áp dụng kinh nghiệm của Nhật Bản tùy theo hoàn cảnh của mình, lại có thể học
tập lẫn nhau để hoàn thiện, cải tiến chính sách công nghiệp của cả khối ASEAN tạo
thuận lợi cho sự điều phối, hợp tác, hỗ trợ, cùng phát triển.
Powered by Vnweblogs.com

×