Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tiểu luận về bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ nền kinh tế mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.43 KB, 7 trang )


Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận
dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam



2

Mục lục
Lời mở đầu
Chương 1 Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến 4
1.1 Sự ra đời của phép biện chứng 4
1.2 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến 5
1.2.1 Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến 5
1.2.2 Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến 6
Chương 2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam
8
2.1 Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường 8
2.2 Môi trường đang bị huỷ hoại do các chính sách tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam 9
2.2.1 Trong công nghiệp 9
2.2.2 Trong nông nghiệp 11
2.2.3 Trong du lịch - biển 11
2.2.4 Gia tăng mức tiêu thụ 12
2.3 Hậu quả của ô nhiễm môi trường 13
2.4 Giải pháp giải quyết vấn đề 13
Tài liệu tham khảo 17



3



Lời mở đầu
Chúng ta đang sống trong một mạng lưới sụ sống rộng lớn. Giống như một mạng nhện,
càng có nhiều mối liên hệ thì mạng lưới càng bền vững. Chúng ta đã biết tất cả những
mối liên kết trong sự sống sẽ không tồn tại và phát triển được nếu không được hỗ trợ bởi
môi trường. Với tốc độ phá hoại môi trường như hiện nay của con người, môi trường của
chúng ta đang dần bị suy thoái, mối liên kết của các mạng lưới sự sống đang dần bị phá
vỡ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một mặt nó nâng cao đời sống của người
dân nhưng mặt khác nó đang gây một sức ép mạnh mẽ lên môi trường tự nhiên. Cũng
như các nước đang phát triển khác, để có những kết quả về kinh tế trong giai đoạn trước
mắt, chúng ta phải trả giá là mất đi ssự bền vững của các nguồn tài nguyên về lâu dài.
Một thập kỷ phát triển nhanh chóng ở việt nam đã dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm đất,
không khí, nước và quan trọng hơn là gia tăng mưc tiêu thụ, phân hoá giầu nghèo…
mạng lưới đang dần mất đi sưc mạnh của nó. Chính vì vậy tôi quyết chọn đề tài này để
nghiên cứu.
Nghiên cứu "Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam "’. Tôi muốn góp
một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc tìm kiếm con đường phát triển của việt nam
trong những năm tới nhằm đưa việt nam trở thành một nước phát triển trong khu vực và
trên thế giới. Hoàn thành tiểu luận này tôi đã gia tăng được tri thức cũng như hiểu biết về
các vấn đề cấp thiết của Việt Nam.


4
Chương 1 Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1.1 Sự ra đời của phép biện chứng
Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng. Trải qua hàng
ngàn năm tồn tại và phát triển có phồn vinh có suy vong. Khởi đầu là phép biện chứng tự
phát cổ đại, thể hiện rõ nét trong thuyết “âm - dương” của Trung Quốc, đăc biệt là trong
nhiều học thuyết của Hi Lạp cổ đại. Đến khoảng thế kỷ 17 nửa đầu thế kỷ 18, phương

pháp siêu hình thống trị trong tư duy triết học mà đại diện là Đêcactơ – ông được coi là
linh hồn của phương pháp siêu hình. Trong khoảng nửa sau thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đây
là thời kỳ tổng kết các lịch sử triết học nhân loại và hình thành hệ thống lớn đó là phương
pháp biện chứng duy tâm mà đại diện là Hêgen ông được coi là tiền đề của phương pháp
biện chứng duy vật sau này. Ngày nay phép biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là
phép biện chứng duy vât. Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những
phạm trù, những nguyên lý, những quy luật được khái quát từ hiện thực phù hợp với hiện
thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Nhờ vậy nó đã khắc phục được những hạn chế vốn có của phép biện chứng
tự phát cổ đại cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, giữa các bộ phận của nó có
mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và chịu ảnh hưởng lẫn nhau, thế giới
và các bộ phận cấu thành thế giới ấy không ngừng vận động và phát triển. Tuy nhiên sự
hạn chế của phương pháp biện chứng này là tuy nó cho chúng ta thấy một bức tranh về sự
tác động qua lại, sự vận động và phát triển nhưng chưa làm rõ được cái gì đang liên hệ
cũng như những quy luật nội tại của sự vận động và phát triển. Hơn nữa phép biện chứng
duy vật còn sửa được sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cổ đại mà đại
biểu là Hêgen - đại diện lỗi lạc của phép biện chứng. Hêgen cho rằng sự phát triển biện
chứng của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối
”mà thôi. Phép biện chứng duy vật đã chứng minh rằng : những ý niệm trong đầu óc của
chúng ta chẳng qua là sự phản ánh của các sự vật hiện thực khách quan, do đó bản thân
biện chứng của ý niệm chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận động biện
chứng của thế giới hiện thực khách quan.Như vậy phép biện chứng duy vật đã khái quát
một cách đúng đắn những quy luật vận động và sự phát triển chung nhất của thế giới. Vì


5
vậy P.Ăngen đã định nghĩa: “phép biện chứng…là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.”
1.2 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
1.2.1 Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

Phép biện chứng duy vật có vai trò làm sáng tỏ những quy luật của sự liên hệ và phát
triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy. Vì vậy ở bất kỳ cấp độ phát triển nào
của phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vẫn được xem là một
trong những nguyên lí có ý nghĩa khái quát nhất. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến cho
rằng các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa
có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.Trong đó liên hệ là sự tác động
qua lại lẫn nhau, là điều kiện tiền đề tồn tại cho nhau, là sự quy định lẫn nhau, là sự
nương tựa lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau của các mặt, các yéu tố, các thuộc tính cấu
thành sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Ngoài ra những người theo quan điểm
duy vật biện chứng còn khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện
tượng chính là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các
hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng
cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Các mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với nhau, trong toàn bộ vũ trụ,
trong mọi không gian và thời gian. Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định
tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá
trình mà nó còc nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó. Tính đa dạng của sự liên hệ
do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vật và hiện
tượng quy định. Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật, nó
giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Có mối liên hệ
bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó không
có nghĩa quyết định, hơn nữa nó thường phải thông qua các mối liên hệ bên trong mà
phát huy. Tuy nhiên mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi còn giữ vai
trò quyết định. Ngoài ra còn có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, có mối liên


6
hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một số
lĩnh vực riêng biệt của thế giới. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà

trong đó sự tác động qua lại được thực hiện thông qua một hay một số khâu trung gian.
Có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất yếu và mối liên
hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự sự vật khác nhau, có mối liên hệ khác nhau của
cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn
khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển
hiện thực của các sự vật và các quá trình tương ứng. Quan điểm duy vật biện chứng về sự
liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác
nhau có thể chuyển hoá cho nhau. Sự chuyển hoá đó có thể diễn ra hoặc do thay đổi
phạm vi bao quát khi xem xét hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật hiện
tượng ấy.
1.2.2 Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến xét dưới góc độ thế giới quan thì nó phản ánh tính
thống nhất của vật chất và thế giới. Các sinh vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng,
có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng khác nhau của
một thế giới duy nhất đó là thế giới vật chất. Xét dưới góc độ nhận thức lí luận, nó là cơ
sơ lí luận của quan điểm toàn diện. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận
trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có nhận thức
đúng về sự vật chúng ta cần xem xét nó: một là : trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó, hai là : trong mối
liên hệ qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác, kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Hơn
thế nữa quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức đúng sự vật, chúng ta cần xem xét nó
trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Quan điểm toàn diện đòi hỏi
chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát
để rút ra bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Nhưng
quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những quy định
khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó, nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản nhất, cái
quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. Với tư cách là nguyên tắc phương pháp
luận trong hoạt động thực tiễn, nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được



7
sự vật, chúng ta phải bằng hoạt động thực tiiễn của mình biến đổi những mối liên hệ nội
tại của sự vật cũng như mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Muốn vậy
phải sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tac động
nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng. Để tránh những phưng pháp luận sai lầm trong
việc xem xét sự vật, hoạt động cần tránh chủ nghĩa chiết trung, thuật nguỵ biện. Mọi sự
vật hiện tượng đều tồn tại trong không gian thời gian nhất định và mang dấu ấn của
không gian thời gian đó. Do đó chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xet và
giải quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra.

×