Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

MỘT SỐ MÔ HÌNH KHUYẾN NÔNG CÓ HIỆU QUẢ CẦN NHÂN RỘNG potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.27 KB, 7 trang )

MỘT SỐ MÔ HÌNH KHUYẾN
NÔNG CÓ HIỆU QUẢ CẦN
NHÂN RỘNG

Thực hiện chương trình khuyến nông quốc gia và chương trình
khuyến nông địa phương, năm 2007, Trung tâm Khuyến nông tiếp tục, đồng
thời triển khai mới nhiều mô hình, dự án khuyến nông đáp ứng nhu cầu
chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho nông dân tỉnh nhà. Nội dung,
chủ yếu là trình diễn giống triển vọng, kỹ thuật tiến bộ, mô hình sản xuất có
hiệu quả để qua đó chuyển giao, khuyến khích bà con ứng dụng vào thực tế
để nâng cao lợi nhuận. Qua báo cáo tổng kết, đánh giá của các huyện, thị,
nhiều mô hình đã được thực hiện, trình diễn thành công. Trong đó, không ít
mô hình được khẳng định có hiệu quả kinh tế, khuyến cáo nông dân thực
hiện, nhân rộng để nâng cao lợi nhuận. Điển hình như một số mô hình sau
đây.
1. Mô hình trồng Đậu nành trên đất ruộng: đây không phải là mô
hình sản xuất mới. Liên tục các năm trước, ngành nông nghiệp nói chung,
khuyến nông nói riêng từ nguồn kinh phí trung ương, địa phương đã hỗ trợ
giống, kỹ thuật cho bà con chuyển lúa - đối tượng cây trồng độc canh trên
đất ruộng từ bấy lâu sang trồng đậu nành. Hiệu quả kinh tế trong những vụ
đầu đã thấy rõ. Nhưng do ảnh hưởng thị trường nên lợi nhuận của cây màu
ngắn ngày này không ổn định. Tuy nhiên, qua đánh giá chung thì đậu nành
được xem là cây màu luân canh với lúa khá hiệu quả và bền vững so với một
số loại màu khác. Sản phẩm sau khi thu hoạch có thể tồn trữ trong thời gian
khá dài. Năm nay, với giá 6.000 – 7.000 đồng 1 kg đậu sô (đậu chưa qua
khâu lựa) bán trong vụ Xuân Hè thì 1 ha, nếu trồng đạt, năng suất bình quân
2-3 tấn/ha, bà con thu được khoảng 14 – 16 triệu đồng, trong đó số lời bình
quân là khoảng 7 triệu – 9 triệu đồng. Ngoài hiệu quả kinh tế trước mắt, cây
đậu nành còn mang lại cho người trồng nhiều cái lợi nữa trong vụ sản xuất
sau đó, đặc biệt đối với lúa, thể hiện rõ nhất là phân bón sử dụng giảm số
lượng, chủ yếu là phân đạm, sâu, bệnh hại hạn chế đáng kể do bị cắt đứt


nguồn thức ăn, …Những cái lợi này góp phần giúp nông dân sản xuất lúa
hoặc loại cây trồng khác hiệu quả hơn. Trong vụ Đông Xuân 2007 - 2008,
với sự hỗ trợ của Trung tâm khuyến nông, một số địa phương trong tỉnh đã
triển khai mô hình đậu nành giống, mục đích nhằm chủ động nguồn giống
tốt cho kế hoạch mở rộng diện tích sản xuất loại màu triển vọng này trong vụ
Xuân Hè 2008 sắp tới.
2. Mô hình sản xuất lúa giống chất lượng cao: với mục tiêu đẩy
mạnh công tác xã hội hoá giống lúa, đáp ứng nhu cầu sản xuất lúa lương
thực hàng vụ cho các địa phương, góp phần giúp nông dân nâng hiệu quả
kinh tế, nhiều năm qua, Trung tâm đã triển khai dự án “Sản xuất giống lúa
chất lượng cao”. Theo kết quả điều tra một số hộ tham gia dự án và một số
hộ sản xuất lúa lương thực trong 2 vụ Hè Thu và Thu Đông 2006 của Trung
tâm, mô hình sản xuất lúa giống nói chung, nguyên chủng nói riêng tuy chi
phí cao, nhiều công nhưng lợi nhuận cao khoảng gấp đôi so lúa lương thực.
Cụ thể: vụ Hè Thu, với năng suất bình quân 4,2 tấn/ha, giá bán giống nguyên
chủng 4.000 đồng/kg, lợi nhuận gần 9 triệu đồng/ha; Lúa lương thực bán giá
2.500 đồng/kg, lợi nhuận chỉ khoảng 5,4 triệu đồng/ha. Vụ Thu Đông, do
ảnh hưởng dịch Rầy nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá nên năng suất lúa đạt
không cao. Lúa trong mô hình đạt bình quân 3,35 tấn/ha, lợi nhuận gần 7,2
triệu đồng. Lúa lương thực chỉ khoảng 3 tấn/ha, lợi nhuận gần 3,3 triệu
đồng. Ngoài diện tích sản xuất trong mô hình, trong năm qua, nông dân
trong tỉnh còn tự sản xuất gần 41 ha lúa nguyên chủng. Hiện toàn tỉnh có 4
HTX, 22 câu lạc bộ, 42 tổ sản xuất lúa giống; trong đó có 10 địa chỉ xanh
sản xuất giống nguyên chủng do Sở Nông Nghiệp & PTNT chứng nhận. Tuy
nhiên, nếu đáp ứng đủ nhu cầu cho 100% diện tích sản xuất lúa lương thực
hàng vụ, lượng lúa giống sản xuất ra chưa đáp ứng đủ.
3. Mô hình nuôi heo nái chất lượng cao: mô hình được chuyển giao
thông qua dự án “Phát triển giống heo chất lượng cao”. Hiệu quả kinh tế của
mô hình chăn nuôi này, qua báo cáo đánh giá của nông dân thì heo nái chất
lượng cao đẻ bình quân 2 lứa/năm, so với heo nái địa phương tăng 0,3

lứa/con/năm. Với mức chênh lệch lứa đẻ này thì mô hình đem lại lợi nhuận
cho người nuôi 3 con heo con, tương đương với khoảng 45 kg. Mặt khác, giá
heo con chất lượng cao cũng cao hơn so với heo con địa phương, bình quân
khoảng 200.000 đồng/con. Do đó, mặc dù chi phí đầu tư cho mô hình này có
cao hơn so với mô hình nuôi heo nái địa phương nhưng lợi nhuận tính ra vẫn
cao hơn.
Hiện tại, ngoài trại heo giống Phước Thọ, trên địa bàn tỉnh, còn có
mạng lưới vệ tinh tham gia dự án nêu trên cung ứng con giống heo chất
lượng cao cho người nuôi heo thịt. Theo báo cáo của các trạm khuyến nông
thì toàn tỉnh hiện chỉ có khoảng 40 vệ tinh với qui mô bình quân khoảng 5 -
10 nái/điểm.
4. Mô hình vỗ béo bò: mô hình được triển khai trong toàn tỉnh với
mục đích giúp người chăn nuôi rút ngắn thời gian chăm sóc, đồng thời tăng
thêm thu nhập bằng cách bổ sung thêm thức ăn hỗn hợp đáp ứng đủ nhu cầu
dinh dưỡng cho bò. Bò được chọn vỗ béo là bò đực ốm hoặc bò cái không
còn khả năng sinh sản đã trưởng thành có tuổi từ 12 tháng trở lên, có trọng
lượng bình quân từ 120 – 150 kg/con, không mắc bệnh truyền nhiễm, không
bị bệnh tiêu chảy. Phương thức vỗ béo là bổ sung thức ăn hỗn hợp 14 – 16
% đạm cho bò với số lượng từ 75 – 100 kg trong thời gian từ 2 – 3 tháng,
đồng thời kết hợp thêm 1 số loại thức ăn thông thường khác như: cỏ tươi,
rơm, Tháng đầu vỗ béo (còn gọi là giai đoạn tập ăn hay chuyển tiếp) bổ
sung từ 400 gram – 1,5 kg thức ăn/con/ngày (lượng thức ăn bổ sung tăng
dần khi bò đã quen). Sang tháng thứ 2, 3 tăng lượng thức ăn lên từ 1,6 – 2,5
kg/con/ngày. Trước khi tiến hành vỗ béo, người nuôi phải thực hiện khâu tẩy
nội, ngoại ký sinh cho bò.
Kỹ thuật vỗ béo này đã được triển khai liên tục trong 3 năm: 2005 –
2007. Trong 2 năm đầu, kết quả thực hiện đạt rất tốt. Tất cả các hộ tham gia
mô hình đều có lời. Với thời gian vỗ béo từ 2 – 3 tháng thì bò tăng trọng
bình quân là 60,5 kg/con. Trong đó các giống bò lai như bò lai Sind, lai Ý,,,
có mức tăng trọng cao nhất. Về sức đề kháng của bò, kết quả theo dõi cho

thấy trong thời gian vỗ béo nếu nông dân thực hiện tốt qui trình chăm sóc thì
bò tăng trọng tốt, không bị nhiễm các bệnh thông thường như tiêu chảy,
trướng hơi,… Với mức tăng trọng như vừa nêu, so với bò đối chứng không
được vỗ béo thì tăng gấp 2 - 3 lần. Năm nay, theo báo cáo của trạm khuyến
nông thì mô hình đạt kết quả rất tốt, tiếp tục khẳng định hiệu quả thiết thực
khi ứng dụng. Bò được vỗ béo đều tăng trọng đáng kể: bình quân 54 kg/con
trong 2 tháng vỗ béo. Mức tăng trọng này gấp 2 – 3 lần so với bò không
được vỗ béo. Về hiệu quả kinh tế, bò được vỗ béo cho thu lãi gần 1,2 triệu
đồng/con, cao gấp đôi so bò đối chứng.
5. Mô hình “cá – lúa” kết hợp: trong năm 2007, trung tâm tiếp tục
triển khai trình diễn 21 điểm nuôi tại các huyện, thị. Không như những mô
hình nuôi thuỷ sản khác, mô hình này không đòi hỏi chi phí cao, vì thức ăn
cho cá chủ yếu tận dụng nguồn tự nhiên sẵn có, lượng thức ăn chế biến bổ
sung ít, nên nông dân dễ thực hiện. Sau 7 - 8 tháng nuôi, cá mè vinh đạt
trọng lượng 100 – 120 gram/con, cá rô phi đạt 120 – 150 gram/con, cá chép
đạt 500 – 700 gram/con. Năng suất bình quân đạt 0,8 - 1,2 tấn/ha. Mức lãi
thu được từ 1,5 triệu – 3 triệu đồng/ ha. Đây là mô hình sản xuất không chỉ
có hiệu quả kinh tế, phù hợp điều kiện sinh thái môi trường mà còn có ý
nghĩa xã hội nên được nhận định là một trong những mô hình sản xuất bền
vững. Trên cơ sở này, trong những năm tới, trung tâm sẽ tiếp tục hỗ trợ cho
nông dân làm trình diễn, khuyến khích các địa phương, hộ sản xuất có điều
kiện thực hiện và nhân rộng.

×