Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

hướng dan on thi van len lop 10 hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.75 KB, 32 trang )

Nguyn Thỏi H
2. Phân tích đoạn thơ :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xớc
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật)
Bài làm
Phạm Tiến Duật là một trong những gơng mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ cứu n-
ớc. Ông đợc gọi là "Viên ngọc Trờng Sơn của thơ ca" bởi thi sĩ đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy
Trờng Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về ngời lính lái xe của ông đã để lại ấn tợng thật thú vị, đó là
"Vết xe lăn" nóng bỏng trong những bài thơ Trờng Sơn thời chống Mĩ.
Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về ngời lính lái xe Trờng Sơn của Phạm Tiến Duật,
phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Bài thơ đợc viết năm 1969, in trong tập "Vầng trăng - Quầng lửa". Hình tợng thơ hết sức độc đáo :
những chiếc xe không kính băng băng ra trận bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Để cuối
bài thơ, tác giả đa ra một ý tởng thật bất ngờ - đó là "trái tim cầm lái":
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xớc
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
ở phần đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo : "Không có kính không
phải vì xe không có kính" bởi vì : "Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Thật là đơn giản ! Chiến tranh
bom đạn tàn phá. Xe không kính chắn gió vẫn ra trận thanh thản mà ung dung. Hai câu đầu khi kết, tác
giả một lần nữa tả hình dáng của chiếc xe quân sự thời chống Mĩ :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xớc
Đã không kính - gió, bụi, ma tuôn vào buồng lái, khó khăn chồng chất hơn khi xe lại không có đèn,
rồi không có mui xe thùng xe có xớc. Một hình ảnh trần trụi do chiến tranh gây nên. Ngời lái xe phải
huy động mọi giác quan, năng lực để lái xe trong mạo hiểm, phiêu lu. Tất cả đều vợt qua bởi :
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trớc


Chỉ cần trong xe có một trái tim
Đây là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng và thiêng liêng mà cả bài thơ vui nhộn
cha hé lộ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại : Xẻ dọc Trờng sơn đi cứu nớc - Mà lòng phơi phới
dậy tơng lai (Tố Hữu). Cả nớc lên đờng đánh Mĩ vì miền Nam ruột thịt. Vậy là trái tim đã giúp những
ngời lính vợt qua gian khổ trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui xe Trái tim rực lửa
căm thù giặc Mĩ và nóng bỏng yêu thơng đồng bào miền Nam ấy chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm
hồn Việt Nam thời đánh Mĩ, là trái tim nhân hậu, thủy chung của cả dân tộc .
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
1
Nguyn Thỏi H
Thơ là thể hiện con ngời và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công
tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nớc trong những năm tháng đánh Mĩ hi sinh gian khổ mà vĩ đại của
dân tộc ta.
Chiến tranh đã lùi xa, nhng thơ Phạm Tiến Duật và những "Vết xe trên dãy Trờng Sơn" sẽ còn
nóng bỏng trong tâm hồn của những ngời Việt Nam yêu nớc. Những chiếc xe độc đáo ấy của một thời
đã góp phần làm nên huyền tích Trờng Sơn.
1. Vẻ đẹp của ngời lính trong khổ thơ cuối bài Đồng chí (Chính Hữu)

Bài làm
Là ngời lính thuộc trung đoàn thủ đô rồi trở thành nhà thơ quân đội, Chính Hữu chủ yếu viết về
ngời lính và hai cuộc kháng chiến. Đồng chí đợc sáng tác năm 1948, là bài thơ thành công nhất của
ông. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn của những chiến sĩ quân đội nhân
dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân chất khi tác giả giới thiệu về quê hơng
của các anh bộ đội. Các anh mỗi ngời một quê - những vùng quê nghèo khó - song đã về đây để cùng
tham gia kháng chiến, cùng chịu đựng gian khổ, chung lng đấu cật bên nhau
Cuộc sống ngời lính vất vả biết bao nhiêu. Nào : áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá Lại nữa,
những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay những cơn sốt rét rừng hành hạ Vợt lên trên tất

cả những khó khăn đó để "Thơng nhau tay nắm lấy bàn tay". Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên ý
nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của tình đồng đội, của ý chí quyết tâm đánh giặc
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc :
Đêm nay rừng hoang sơng muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của ngời lính, là biểu tợng đẹp về cuộc
đời ngời chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba hình ảnh gắn kết với nhau : Ngời lính, khẩu súng,
vầng trăng giữa cảnh rừng hoang sơng muối phục kích giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ v-
ợt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sởi ấm lòng
họ. Hình ảnh Đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh tợng
trng
Tác giả Chính Hữu đã từng nói : "Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh, bốn chữ này còn có nhịp
điệu nh lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất
xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc nh treo
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
2
Nguyn Thỏi H
lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng nh một ngời bạn" Đó là hình
ảnh thực của cuộc kháng chiến, của những ngời lính khi chờ giặc tới.
Ngoài tả thực, hình ảnh "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tợng trng. Đó là sự kết hợp giữa
bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang
tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh tợng trng cho tình cảm trong sáng của ngời chiến
sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vơn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo,
gây xúc động bất ngờ, thú vị cho ngời đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tởng
chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Với nhịp chậm, giọng thơ hơi cao, ba câu thơ cuối của bài một lần nữa khắc họa chân thực mà
sâu sắc về hình ảnh ngời lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tình cảm đồng chí, đồng đội là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất của những ngời lính. Đó là
sức mạnh giúp họ vợt qua tất cả mọi khó khăn trở ngại, mọi thiếu thốn để chiến thắng kẻ thù. Bài thơ
Đồng chí đặc biệt là ba câu kết nh một lời nhắn nhủ với mọi ngời : Hãy biết nâng niu và gìn giữ những
tình cảm đẹp trong cuộc sống, phải biết kính trọng những ngời lính
Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã cho thấy hành trang mang
theo con đờng ra trận là trái tim yêu nớc. Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ nhận định trên.
Bài làm
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng
chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trờng Sơn, tác giả cảm thông và hiểu rõ tâm tình ngời lính,
nhất là ngời chiến sĩ vận tải dọc Trờng Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phơng lớn ra tiền tuyến lớn.
Cùng với thế hệ thanh niên hăng hái "Xẻ dọc trờng sơn đi cứu nớc / Mà lòng phơi phới dậy tơng lai"
Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trờng. Nhà thơ đã tạo cho mình một
giọng điệu thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tơi vui mà giàu suy tởng.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.
Kết cấu của bài thơ là hành trình của con đờng ra trận. Hành trình đó có những lúc dãi dầu nắng ma,
có những ngày vợt suối băng đèo và có tiếng reo cời trong tình thân chan hòa đồng đội, trong một mái
ấm gia đình giữa đất trời bao la. Kết cấu đó trớc hết thể hiện qua số lợng chữ trong câu :
Mở đầu chặng đờng hành quân là những khó khăn. Vì vậy khổ 1, câu thơ đầu dài ra 10 chữ và kết
thúc bằng thanh trắc - hoàn toàn trái quy luật phối thanh bình thờng của thơ vần nhịp. Nó là điệu nói :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Ba câu tiếp theo, khó khăn dần rút lại, tạo nên sự ung dung phong thái đỉnh đạc với số lợng chữ
rút dần xuống và đằm lại về thanh điệu : 8- 6- 6, bằng- bằng - trắc.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
3
Nguyn Thỏi H
Hai câu thơ cuối khổ, thanh bằng chiếm tỉ lệ nhiều hơn, khoảng 2/3. Chính sự thắng thế của
thanh bằng đã tạo nên sự thanh thản, ung dung cho khổ thơ mặc dù kết thúc của nó lại là thanh trắc.
Chính thanh trắc này lại mở đờng cho xe đi tới : Nhìn thẳng.

Năm khổ thơ tiếp theo, số lợng câu chữ trở lại bình thờng, hoán đổi đều đặn ở hai kiểu kết hợp :
7- 8- 8- 7- và 7- 7- 8- 7 . Đờng ra trận đẹp lắm, nên xe không kính cứ chạy bon bon, ngời lái xe đã
nhìn thấy, nhìn thấy và thấy. Thấy gió xoa mắt đắng, thấy con đờng chạy thẳng vào tim. Quan trọng
nhất, thấy đợc nụ cời rạng rỡ của nhau. ấy cũng chính là thấy đợc lòng dũng cảm tiềm ẩn đằng sau
những câu đùa vui và hành động tếu táo :
Gặp bạn bè suốt dọc đờng đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Khổ thơ có một sự thay đổi đặc biệt so với toàn bài ở số lợng chữ trong câu thơ : 8- 8- 8- 8. Bốn
câu thơ 32 chữ chia đều nhau thanh điệu bằng trắc ở bốn chữ cuối và trở lại kiểu phối âm bình thờng
bằng- trắc- trắc- bằng. Câu kết của bài thơ mở rộng bằng thanh bằng :
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Đây là câu thơ mấu chốt của cả khổ thơ và cả bài thơ. Hóa ra tất cả khó khăn thử thách ở phía trên
kia chẳng là gì cả, dù cho bom rơi, pháo thả, dù xe không kính, dù đờng ra mặt trận có khi đồng nghĩa
với cái chết thì ngời lính lái xe ra trận cũng luôn cảm thấy bình yên, an toàn bởi vì có một trái tim. Đó
là trái tim biết thức vì Miền Nam, biết khát khao chân lí, hòa bình. Hành trang ra trận cần biết bao một
trái tim nh thế.
Bài thơ đã khắc họa đậm nét hình ảnh ngời chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam : Đời chúng ta
đâu có giặc là ta cứ đi. Bài thơ không chứa đựng một ẩn ý sâu xa nào khiến ngời đọc phải suy luận,
nêu giả thiết hoặc là thế này hoặc là thế kia. Tạo dựng hình ảnh thơ bằng ngôn ngữ thô mộc của đời
sống thờng nhật, không sử dụng các loại mĩ từ, mĩ cảm, ẩn dụ, hình ảnh thơ thể hiện đạt tới độ chân
thực cao mà vẫn rất thơ, đó là tài nghệ của Phạm Tiến Duật trong lao động sáng tạo. Bài thơ có đầy đủ
yếu tố cách tân và hiện đại nhng vẫn mang đậm bản sắc của thơ ca dân tộc, nối tiếp truyền thống của
thơ ca cách mạng viết về anh bộ đội trong hai cuộc trờng chinh cứu nớc vĩ đại của dân tộc ở thế kỉ XX
II. tự luận
Hình ảnh ngời lính qua hai bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không
kính (Phạm Tiến Duật)
Bài làm
Lớp cha trớc lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành
(Tố Hữu)

Trải qua ba mơi năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích hào hùng : đánh thắng
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung tâm của thời đại đã làm nên huyền thoại, đó
là anh bộ đội Cụ Hồ.
Hình tợng anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cảm hứng đẹp trong thơ ca hiện đại. Trong số những bài
thơ viết về đề tài này phải kể đến Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của
Phạm Tiến Duật. Hai bài thơ gắn với hai giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ sẽ giúp chúng
ta cảm nhận đầy đủ hơn về hình ảnh ngời lính.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
4
Nguyn Thỏi H
Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 ông nhập ngũ, là lính trung đoàn Thủ đô. Đầu năm 1948 bài
thơ Đồng chí ra đời khi ông là chính trị viên đại đội. Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, năm 1964 gia
nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đờng Trờng sơn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính sáng tác năm
1969.
Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trờng chinh của dân tộc. Hai thi phẩm
mà chúng ta đề cập tới là hai trong những tác phẩm tiêu biểu của mỗi thời kì văn học. Hay sự thể hiện
hình tợng anh bộ đội Cụ Hồ. Ngời lính trong hai bài thơ này là những hình ảnh tiêu biểu của thơ Việt
Nam 1945 - 1975 sẽ còn sống mãi trong lòng ngời đọc.
Đọc Đồng chí, cảm nhận chung của chúng ta là, ngời lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp
xuất thân từ nông dân. Hình ảnh họ đợc Chính Hữu mô tả chân thực, giản dị mà cao đẹp. Khác với
khuynh hớng lãng mạn anh hùng mang dáng dấp tráng sĩ trợng phu của thơ ca đầu chống Pháp, cảm
hứng của Chính Hữu trong Đồng chí hớng về chất thực của đời sống, khai thác cái đẹp và chất thơ
trong cái "đời thực" của cuộc chiến đấu và ngời chiến sĩ. Cái đẹp trong khó khăn, thiếu thốn và nhất là
cái đẹp trong tình đồng chí, đồng đội, thắm thiết, sâu nặng :
Quê hơng anh nớc mặn đồng chua
làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi ngời xa lạ
Tự phơng trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !
Đoạn mở đầu này có bảy dòng, theo ba cặp và cuối cùng dồn lại ở một từ : Đồng chí. Một sự lí
giải tình đồng chí của nguời lính. Đó là xuất phát từ sự giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân từ nghèo
khó, là cùng chung mục đích, lí tởng, nhiệm vụ, chia sẻ gian lao (Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm
rét chung chăn thành đôi tri kỉ ) Một chữ chung khiến những ngời vốn xa lạ thành đôi tri kỉ và cao
hơn là thành đồng chí.
Ngời xa đánh giá tình bạn cao nhất bằng tri kỉ. Chính Hữu nhìn thấy ở anh bộ đội Cụ Hồ một tình
cảm còn sâu sắc hơn, gắn bó hơn - tình đồng chí. Tình cảm này không phải chỉ vì sự cảm thông sâu xa
tâm t, nỗi lòng của nhau mà là cái chung lớn lao. Là những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời chiến
đấu. Tất cả diễn đạt bằng lời không đủ, bao nhiêu lời thân thơng, trìu mến nhất cũng trở thành sáo
rỗng, không chuyên chở nổi sức nặng cảm động giữa những ngời lính, ngời đồng đội. Vì thế đoạn thơ
thứ hai có 10 dòng vẫn theo từng cặp tơng ứng để cuối cùng dồn lại một hành động thay cho muôn lời :
"Thơng nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình đồng chí giữa những ngời lính vệ quốc, nói nh Chính Hữu :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run ngời vầng trán ớt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cời buốt giá
Chân không giày
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
5
Nguyn Thỏi H
Là tình cảm của cha ông thuở mới nổi dậy chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX truyền lại. Tình của
những dân ấp, dân lân, "Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm - Tập khiên, tập
súng, tập mác, tập cờ mắt cha từng ngó" (Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu). Những
con ngời ấy vốn dĩ không đi vào cuộc chiến đấu cam go, thiếu thốn này bằng óc lãng mạn. Nhng cuộc

chiến đấu trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ thành oai hùng, lãng mạn. Bức tợng đài cuối bài
thơ là sự phát triển tất yếu từ tình đồng chí :
Đêm nay rừng hoang sơng muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Đó là cuộc đời thực của những ngời lính nông dân nghèo khổ nơi : nớc mặn đồng chua, đất cày lên
sỏi đá, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày đợc tình cảm cách mạng cao đẹp tạc thành
dáng hình mới.
Nếu Đồng chí là hình ảnh của anh lính nông dân cha biết chữ thời kì đầu kháng Pháp thì ngời lính
trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một hóa thân khác. Họ là những thanh niên học sinh đã qua
20 năm dới mái trờng Miền Bắc đi chiến đấu, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nớc. Ngời chiến sĩ
trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính không mang đặc điểm nh đã nói ở trên tuy vẫn cùng bốn phơng
hội tụ, với tất cả sự trong sáng, hồn nhiên, vô t. Họ, những ngời chiến sĩ lái xe, những chiếc xe từ trong
bom đạn : đã về đây họp thành tiểu đội : Không có kính rồi xe không có đèn, không có mui xe Bởi vì
: Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Nên phải chịu bao gian khổ : gió, bụi, ma xối xả song :
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ của Phạm Tiến Duật có cái tên chung là ta, chúng ta. Tất cả
đều là đồng chí : trẻ, khỏe, dũng cảm bất chấp nguy hiểm. Không có kính không phải vì xe không có
kính / bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Nhng : Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời nhìn
thẳng /Bụi phun tóc trắng cời ha ha / Ma tuôn mau thôi / Gặp bè bạn kính vỡ rồi / Họ không
cần nhiều tìm hiểu, không cần phải đồng cảnh ngộ, với họ từ trong bom rơi họp thành tiểu đội. Nếu
hình ảnh ngời chiến sĩ trong bài Đồng chí là một bức tợng đài : Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu
súng trăng treo thì ngời lính trong thơ Phạm Tiến Duật là một tổ hợp của những khuôn mặt trai trẻ,
hồn nhiên. Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là hai
tiêu điểm trong các tiêu điểm của hình tợng ngời lính - Anh bộ đội Cụ Hồ mà thơ ca dựng lên từ 30
năm chiến đấu gian khổ đến ngày toàn thắng 1975.
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ đợc sáng tác năm 1958 nhân
một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn
trên biển, tác giả ca ngợi kiểu lao động mới mẻ của ngời lao động tràn đầy lạc quan tin tởng, làm chủ

thiên nhiên, biển cả bao la. Qua bài thơ ta cảm nhận đợc không khí lao động khẩn trơng, hăng say,
nhộn nhịp của miền Bắc thời kì xây dựng CNXH.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
6
Nguyn Thỏi H
Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh :
Mặt trời xuống biển nh hòn lửa
Giới thiệu một ngày sắp kết thúc, sự vật bắt đầu nghỉ ngơi sau hành trình 12 giờ mệt mỏi. Thế nhng
với con ngời làm nghề đánh cá thì lại khác, dấu hiệu mặt trời xuống biển mở ra một sự bắt đầu với
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Đánh cá trên biển là công việc nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà
những ngời đánh cá "lại" ra khơi với một tinh thần sảng khoái, tràn trề niềm vui, phấn chấn :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Tiếng hát đợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần nh một điệp khúc và nó trở thành âm thanh chủ đạo trong bài
thơ :
- Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng
- Ta hát bài ca gọi cá vào
Tác giả miêu tả những con cá, những đàn cá gợi nên bức tranh sinh động về biển cả. Hình ảnh đàn cá
lóng lánh màu sắc nh một bức tranh sơn mài.
Giữa khung cảnh mênh mông, rộng lớn, hình ảnh ngời lao động xuất hiện với t thế làm chủ thiên
nhiên, biển cả, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh thật khỏe khoắn, rắn chắc :
Sao mờ kéo lới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã tô đậm lên hình ảnh những ngời lao động mới với tầm
vóc ngang tầm vũ trụ và hòa nhập với khung cảnh trời nớc bao la :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lớt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lới vây giăng

Trên cái không gian bát ngát ấy của trăng, gió, trời, biển, hình ảnh con ngời mới hiện lên với chiều
kích của không gian, đó chính là niềm vui hăng say lao động, làm giàu cho Tổ quốc bằng sức lực, trí
tuệ của mình.
Công việc nặng nhọc của ngời lao động đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng
thiên nhiên :
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Tiếng hát làm cho họ đỡ mệt nhọc. Còn trăng làm công việc đỡ vất vả hơn, vì ánh trăng in mặt nớc,
sóng nhịp nhàng xô bóng trăng dới nớc nh gõ vào mạn thuyền. Cái hiện thực đã đợc bút pháp lãng mạn
chắp cánh làm đẹp thêm công việc đánh cá của ngời lao động. Nh vậy con ngời lao động đã chinh
phục đợc tự nhiên. Bài thơ kết thúc với cảnh rạng đông khi đoàn thuyền quay trở về :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
7
Nguyn Thỏi H
Cuối câu thơ là một hình ảnh tô đậm bức tranh sống động, hấp dẫn về thành quả của ngời lao động.
Sau một đêm làm việc vất vả, mệt nhọc, khẩn trơng nay họ đã về bến với hình ảnh mắt cá huy hoàng
cá phơi dài muôn dặm.
Đoàn thuyền đánh cá là khung cảnh lao động đầy khí thế của những con ngời mới, của cuộc sống
mới những tháng ngày hăng say xây dựng CNXH. Bài thơ đã nói về lòng yêu nghề, yêu đời, yêu cuộc
sống, yêu sự nghiệp xây dựng đất nớc của những ngời lao động. Bút pháp lãng mạn, cảm hứng không
gian bất tận, Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay của thơ ca hiện đại sau cách mạng Tháng Tám.
. Hãy chọn một số câu thơ trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận để viết một bài văn có
tên đề : Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn.
Bài làm

Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca tuyệt đẹp của con ngời lao động mới hăng say, khỏe
khoắn giữa thiên nhiên kì ảo. Gam màu chủ yếu của bức tranh thơ này là màu sáng lóng lánh. Để rồi,
khi đọc thi phẩm ta cảm tởng lạc vào đêm hoa đăng chiến thắng trên biển - Hào hùng, tráng lệ và lãng
mạn.
Nh bao bài thơ khác, thiên nhiên xuất hiện trong Đoàn thuyền đánh cá thật quen thuộc : mặt
trời, trăng, sao, gió, mây Tuy nhiên, bằng cái nhìn của một con ngời mới XHCN, đi giữa miền Bắc
hòa bình với ngòi bút miêu tả theo phong cách ấn tợng đầy tài năng của Huy Cận, thiên nhiên đã trở
nên chân thực, sống động mà tráng lệ, rực rỡ kì vĩ, lớn lao mà tinh tế. Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên
ấy, con ngời hiện lên khoáng đạt, lãng mạn, tin yêu cuộc sống và tinh thần hăng hái lao động. Đặt
mình vào t cách con ngời lao động trên biển khơi mênh mông, Huy Cận đã lắng nghe đợc sự hòa hợp
tuyệt diệu giữa thiên nhiên và con ngời.
Bài thơ miêu tả hành trình ra khơi và trở về trong thắng lợi của đoàn thuyền đánh cá gắn với
hình ảnh mặt trời tráng lệ : "Mặt trời xuống biển nh hòn lửa" - "Mặt trời đội biển nhô màu mới". Trong
câu thơ đầu tác giả sử dụng hình ảnh ví von vô cùng biểu cảm, giàu sức gợi và chuẩn xác. Khi mặt trời
xuống biển là lúc có hình dáng quả cầu đỏ sẫm. Những tia sáng phản chiếu dới mặt nớc, lung linh nh
hoa lửa. Vẫn mang nét tráng lệ, nhng khác với hình ảnh mặt trời hoàng hôn ở phần đầu bài thơ, hình
ảnh mặt trời ở cuối bài thơ lại là linh hồn của bình minh và đồng hiện cùng với sự cập bến đầy tốt lành
của đoàn thuyền đánh cá.
Hình ảnh bao quát bài thơ cho ta cảm giác về vũ trụ bao la thơ mộng. Đó là mối quan hệ tơng
hợp giữa con ngời với thiiên nhiên trong lao động, với mặt trời tráng lệ, với đêm trăng huyền ảo, với
mây trời, sóng nớc và với cá - sinh lực, tinh lực của biển.
Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn trong bài chủ yếu là những hình ảnh miêu tả trực tiếp
thiên nhiên nhng đã gián tiếp làm rõ vẻ đẹp khỏe khoắn, khoáng đạt, tinh thần lao động hăng say, nhiệt
tình của con ngời. Chúng ta hãy đọc những vần thơ :
Câu hát căng buồm cung gió khơi
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Ta hát bài ca gọi cá vào
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc

8
Nguyn Thỏi H
Đêm thở : sao lùa nớc Hạ Long
Hàng loạt các hình ảnh thiên nhiên hiện ra cùng với hoạt động và tiếng hát của con ngời cùng đa
con thuyền lao động tiến vào trùng dơng. Trăng, sao, điểm tô cho bức vẽ con ngời xông pha vào đại d-
ơng bao la thêm phơi phới hơn. Nhịp điệu lao động của con ngời đã mang nhịp thiên nhiên, vũ trụ một
cách nhịp nhàng, hài hòa. Trong bài thơ : trời, mây, biển cả đợc tráng lệ hóa để mang hồn lao động,
con ngời lao động đợc cao cả hóa để mang tầm vũ trụ.
Gấp trang thơ của Huy Cận lại, những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn vẫn còn mãi trong trí t-
ởng tợng của chúng ta. Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ,
nhân hóa và thậm xng, Huy Cận đã sáng tạo nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa. Một không gian tráng lệ
tràn ngập niềm vui và câu hát, một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng ngời, vì đối với
Huy Cận "Trời mỗi ngày lại sáng" và "biển đang hát" .
1. Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
Bài làm
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tơng
Đó là tâm trạng của những ngời xa quê. Những cái bình thờng quen thuộc hàng ngày tởng
chừng nh chẳng có gì đáng nhớ nhng đến khi xa rồi mới biết chẳng thể nào quên. Nhng nỗi nhớ quê ấy
ở mỗi ngời có những sắc thái cảm xúc khác nhau : có khi là hình ảnh dung dị một bát canh rau
muống, một chén cà dầm tơng, có khi lại là một ánh trăng quê Còn riêng với Bằng Việt, trong
những năm tháng du học ở Liên xô, nhà thơ nhớ da diết Bếp lửa của bà :
Một bếp lửa chờn vờn sơng sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đợm
Cảm xúc về Bếp lửa của Bằng Việt bắt đầu từ đây. Chúng ta hãy cùng đọc và khẽ ngâm lên từng
lời thơ để hòa nhập hồn mình bâng khuâng theo dòng cảm xúc đang trào dâng của tác giả.
Thật xúc động biết bao ! Từ một đất nớc công nghiệp chỉ toàn bếp điện, bếp hơi, với những ống
khói con tàu, tác giả nhớ về một bếp lửa đang chờn vờn trong sơng sớm. Và từ bếp lửa, nhớ đến kỉ
niệm ấu thơ : Cháu thơng bà biết mấy nắng ma. Cả một hồi ức kỉ niệm hiện về trong tâm trí nhà thơ,
suốt một quãng đời vất vả bà cháu bên nhau : Mới lên bốn tuổi đã quen mùi khói. Làng đói kém, bố đi

đánh xe thật vất vả - Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay. Hồi tởng những năm tháng bà cháu cùng sớm
hôm có nhau. Bà kể chuyện những ngày ở Huế, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, bà dặn cháu viết
th cho bố ở chiến khu, bà sớm chiều nhen bếp lửa Lời kể sao mà ngậm ngùi tha thiết quá ! Nó gợi
trong lòng ngời bao niềm xúc động sâu xa. Làm sao quên đợc : Những năm giặc đốt làng cháy tàn
cháy rụi. Bà đã dặn cháu :
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết th chớ kẻ này kể nọ
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
9
Nguyn Thỏi H
Cứ bảo nhà vẫn đợc bình yên
Hình ảnh ngời bà hiện lên trong lời thơ ấy đẹp làm sao ! Bà lúc nào cũng sẵn sàng chịu đựng. Bà
là thế đấy! Suốt một đời tận tụy vì con, vì cháu. Nhng không chỉ có thế. Vợt lên trên tình thơng ấy, bà
còn là ngời làm việc âm thầm, lặng lẽ, biểu lộ ý thức trách nhiệm của mình với Tổ quốc. Bà đã cùng
chịu đựng gian khổ, cùng chia sẻ hi sinh cho cuộc kháng chiến này. Càng lớn khôn, tác giả càng nhận
thức rõ tấm lòng cao quí của bà. Ngời đã lận đận biết mấy nắng ma để nhen nhóm trong lòng đứa cháu
yêu quí của mình ngay từ tuổi thơ một tình cảm rộng lớn hơn tình bà cháu thông thờng, đó là một ngọn
lửa chứa chan niềm tin dai dẳng đối với đất nớc con ngời :
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đợm
Nhóm niềm thơng yêu khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng bếp lửa
Hình ảnh bếp lửa đợc lặp lại nhiều trong bài thơ có giá trị tu từ độc đáo. Đây là hình ảnh tả thực
trong cuộc sống đời thờng. Song, đối với ngời đi xa quê hơng lại là một dấu ấn khó phai mờ - Bởi vì
chính bên cạnh bếp lửa hồng ấy, hình ảnh ngời bà "còm cõi", "chập chờn", "sơng sớm" in đậm trong
tâm trí tác giả từ tuổi nhỏ. Nhờ bếp lửa mà thời ấu thơ của tác giả êm đềm, ấm áp nh những câu
chuyện cổ tích mà bà thờng hay kể. Bếp lửa và ngời bà chính là nguồn sáng tâm hồn, nuôi dỡng tình

cảm thơng yêu cho ngời cháu.
Điều đáng nói nhất về bài thơ chính là ý nghĩa tợng trng của hình tợng bếp lửa. Đó là ngọn lửa
niềm tin, ngọn lửa tình yêu, ngọn lửa của tâm hồn dân tộc đã nhóm lên trong tâm hồn nhà thơ những
cảm xúc và suy nghĩ chân tình, đẹp đẽ. Hình ảnh bếp lửa trong quá khứ, trong hiện tại đan cài vào
nhau, nâng cảm xúc và t duy nhà thơ bay bổng dạt dào, hớng về gia đình, về nguồn cội, về quê hơng
đất nớc. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở đó. Với giọng thơ ân tình tha thiết, nhà thơ hồi tởng những
năm tháng cùng bà "nhóm lửa". Hình ảnh chim tu hú kêu trên những cánh đồng xa gợi lên không khí
của một buổi sớm tinh mơ, vắng vẻ, quạnh hiu Cùng với hình ảnh chim tu hú, hình ảnh bà cũng hiện
lên còm cõi, đơn côi, vất vả trong tâm trí của nhà thơ. Các vần nối tiếp nhau để diễn tả cảm xúc ấy :
Xa, nhà, huế, thế, về tạo nên một âm hởng kéo dài liên tục không dứt. Nhạc điệu buồn, tha thiết, trầm
lặng thể hiện nỗi nhớ nhung ngời bà :
Giờ cháu đi xa có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên cha ?
Chính tình bà cháu cao đẹp và thiêng liêng kì diệu đã nhen nhóm trong lòng nhà thơ niềm tin
yêu cuộc sống con ngời trên quê hơng đất nớc. Đây là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Tác giả đã khéo
léo sử dụng cách gieo vần, láy điệp từ và những hình ảnh có sức liên tởng độc đáo tạo nên giá trị cho
bài thơ. Ta cảm nhận đợc tấm lòng biết ơn, nỗi nhớ nhung của nhà thơ dành cho ngời bà yêu dấu của
mình. Bếp lửa đã khơi dậy trong ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, quê hơng, đất nớc. Đặc biệt
là lòng biết ơn sâu nặng đối với ngời bà.
2. Bằng một bài văn ngắn, hãy viết cảm nhận của em về hình ảnh ngời bà trong bài thơ Bếp lửa.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
10
Nguyn Thỏi H
Bài làm
Bếp lửa tái hiện hình ảnh ngời bà quen thuộc, yêu thơng mà trong thơ hiện đại không phải dễ
gặp.

Bẳng Việt đã đem đến một biểu tợng tình bà yêu cháu vô cùng sâu nặng. Đó là những tháng
năm xa chỉ còn trong kí ức, mẹ cha bận công tác, giữa thời bom đạn, bà chăm chút, yêu thơng dạy bảo
cháu nên ngời. Bà là nguồn sống gia đình, là những gì tảo tần, nhẫn nại, giàu niềm tin, hết lòng yêu th-
ơng, chăm lo, chi chút cho cháu và gia đình. Bà là ngọn lửa của tình thơng hạnh phúc con cháu. Bà
khơi dậy và làm bùng lên khát vọng. Hành động nhóm bếp không chỉ là hình ảnh đời thờng ấm áp mà
chính là ngọn lửa của sự sống. Khi viết những dòng thơ Bếp lửa, tác giả đang ở xa Tổ quốc và đã trởng
thành. Đây là một bài thơ thật sự sâu sắc về tình yêu đất nớc trong hình ảnh dung dị của ngời bà - quê
hơng.
Hồi ức về những ngời thân yêu bao giờ cũng sinh động, ta càng rời xa tuổi thơ thì kỉ niệm càng
thân thiết, gần gũi, cảm động. Bếp lửa là một hồi ức tuyệt đẹp về ngời bà, nhắc nhở mỗi ngời về tình
yêu cụ thể trong tâm hồn và trái tim những ngời Việt Nam yêu nớc.
Phân tích hình ảnh ngời mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên l ng mẹ của
Nguyễn Khoa Điềm
Bài làm
Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ đợc Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3
năm 1971, là một trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình ảnh ngời mẹ Tà Ôi nh
là biểu tợng về ngời mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con ngời rất mực thơng con nhng cũng vô cùng
yêu nớc. Dờng nh đứa con yêu quí và đất nớc thân thơng nuôi con nên ngời và đánh giặc giải phóng
quê hơng là những gì trọng đại nhất cao quí nhất của ngời mẹ này trong những năm đất nớc phải gồng
mình chống đế quốc Mĩ xâm lợc.
Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình ảnh ng ời
mẹ). Ngời mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim (Lng đa nôi và tim
hát thành lời). Lời ru của tác giả và lời ru của ngời mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm
nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm t, sâu lắng. Vì kết cấu bài thơ nh những khúc
hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại một số khúc giống nhau nh những nét nhạc chủ đạo trong một bài
hát. Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. ở đoạn thơ thứ nhất, ngời mẹ ru con khi
địu con trên lng và giã gạo nuôi bộ đội. Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ
hôi lao động vất cả của mẹ. Ngời mẹ Tà Ôi thơng con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lng
làm nôi và đôi vai gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng
chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình

thơng yêu bộ đội :
Mẹ thơng A Kay, mẹ thơng bộ đội
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
11
Nguyn Thỏi H
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân
Ước mơ của ngời mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thơng yêu sâu sắc
những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên núi Ka Li. Tình thơng
yêu và niềm hi vọng vô bờ của ngời mẹ đối với đứa con đợc thể hiện bằng lời và những hình ảnh độc
đáo :
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lng.
Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho
cây cỏ, làm cho cây cỏ thêm tơi tốt, nh cây ngô bắp to, hạt mẩy. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là ẩn
dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con nh mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quí
con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc,
là tất cả tơng lai của mẹ. Hai câu thơ, hai hình ảnh tôn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình th-
ơng yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của ngời mẹ đối với đứa con. Lời ru của ngời mẹ Tà Ôi ngân
nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hớng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thơng
yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thơng yêu dân làng - những ngời dân lao động
nghèo đói :
Mẹ thơng A Kay, Mẹ thơng làng đói
Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mời Ka Li .
Trong đoạn thơ thứ ba, ngời mẹ địu con trong t thế đang chuyển lán , đạp rừng . Bà mẹ băng
rừng, địu con trên lng đa con đi để giành trận cuối . Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng
yêu nớc : Mẹ thơng A Kay mẹ thơng đất nớc. Ngời mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm khao khát

đợc gặp Bác Hồ và mong đất nớc đợc độc lập tự do :
Con mơ cho mẹ đợc gặp Bác Hồ
Mai sau con lớn thành ngời tự do .
Tiếng hát ru con của ngời mẹ Tà Ôi không phải đợc cất lên bên cánh võng hay trên giờng ấm nệm
êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu con giã gạo, tỉa bắp
trên núi, khi mẹ chuyển lán , đạp rừng hoặc trên đờng ra chiến trờng để giành trận cuối. Nh vậy, bà
mẹ Tà Ôi là một ngời mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình th-
ơng con, thơng bộ đội, thơng dân làng, thơng đất nớc hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một ngời
mẹ miền núi yêu nớc trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.
Theo lời ru (và cũng là tình yêu thơng của mẹ), theo bớc chân của ngời mẹ Tà Ôi, không gian
cũng đợc mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka Li (khi mẹ đi tỉa bắp) rồi đến những
rừng những suối khi mẹ chuyển lán đạp rừng. Và ớc mơ, khát vọng của ngời mẹ gửi gắm qua lời hát ru
tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy cũng mỗi lúc một lớn dần : Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
đến Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều Từ mong muốn Mai sau con lớn vung chày lún sân đến
Mai sau con lớn phát mời Ka Li cuối cùng cũng bùng lên thành một khát vọng cháy bỏng Mai sau
con lớn làm ngời tự do. Tinh thần, không khí sục sôi của đất nớc trong những năm tháng đánh Mĩ đã
đi vào lời hát ru của những bà mẹ. Cuộc chiến tranh nhân dân khiến cả đến những bà mẹ miền núi có
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
12
Nguyn Thỏi H
con nhỏ vào cuộc chiến đấu hi sinh, gian khổ. Biết bao em bé đã lớn trên lng mẹ đi đến chiến tr -
ờng và trong số họ không ít những ngời đã thành những anh hùng dũng sĩ. Qua những khúc hát ru với
những điệp khúc đã trở đi trở lại nhng vẫn có sự biến hoá phát triển, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện
thật sinh động, ám ảnh đầy sức mạnh nghệ thuật khát vọng mãnh liệt độc lập tự do của toàn dân tộc.
Từ bài thơ ánh trăng của Nguyễn Duy em hãy viết lại những suy t của ngời lính sau
chiến tranh.
Bài làm
Cuộc kháng chiến đã qua đi, ngời lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống hàng ngày.

Tởng nh sự bận rộn hôm nay sẽ khiến ngời ta quên lãng quá khứ. Nhng có một lúc nào đó trong đời th-
ờng những kỉ niệm chiến tranh lại nh những thớc phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn
đọc thi phẩm ánh trăng cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp : Không nên sống vô tình, phải biết
thủy chung nghĩa tình cùng quá khứ.
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ .
Hình ảnh những đồng, sông, bể, rừng nguyên sơ, thuần hậu trong khổ thơ đầu này là nơi đã nuôi
dỡng, che chở cho tuổi thơ và năm tháng chiến tranh, cả một quãng đờng dài sống trong tình thơng
yêu, gắn bó với thiên nhiên, với những miền quê ấy, vầng trăng thành tri kỉ. Trăng nh mái nhà, nh ngời
bạn thân thiết của tâm hồn. ở đó tâm hồn tình cảm con ngời cũng đơn sơ thuần phác nh chính thiên
nhiên. Trăng và ngời đã tạo nên mối giao tiếp, giao hoà thủy chung tởng nh không bao giờ có thể quên
đợc.
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gơng
Vầng trăng đi qua ngõ
Nh ngời dng qua đờng .
Khi chiến tranh kết thúc. Ngời lính trở về bị hấp dẫn bởi đô thị, với ánh điện, cửa gơng, những
ánh sáng nhân tạo đã làm họ quên đi ánh sáng tự nhiên hiền dịu của trăng. Cuộc sống hiện đại với
nhiều tiện nghi đã làm cho con ngời thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ, cùng đồng đội, đồng chí
chung một chiến hào mà trăng là biểu tợng.
Vầng trăng đi qua ngõ
Nh ngời dng qua đờng.
Từ hình ảnh vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa trở thành ngời dng qua đờng, Nguyễn Duy
đã diễn tả đợc cái đổi thay của lòng ngời, cái lãng quên, dửng dng đến phũ phàng. Cái so sánh thật
thấm thía: nh ngời dng qua đờng.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc

13
Nguyn Thỏi H
Cũng nh dòng sông có khúc phẳng lặng êm đềm, cũng có khúc ghềnh thác dữ dội. Cuộc đời vốn
cũng nhiều biến động. Ghi lại một tình huống, cuộc sống nơi thị thành, của những con ngời từ rừng về
thành phố, Nguyễn Duy đặt con ngời vào bối cảnh.
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buynh đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn .
Khi ánh trăng nhân tạo vụt tắt, bóng tối bao trùm khắp không gian thì vầng trăng xuất hiện khiến
con ngời ngỡ ngàng trứơc ánh trăng thân thơng của tuổi thơ trên những nẻo đờng ta sống và trong cuộc
chiến gian khổ, ác liệt. Cuộc sống hiện đại làm cho lòng ngời thay đổi Trớc ngời bạn vô tình ấy,
trăng chẳng nói, chẳng trách khiến ngời lính cảm thấy có cái gì rng rng. ánh trăng soi chiếu khiến ng-
ời ta nhận ra độ lệch của nhân cách mình.
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi ngời vô tình
ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình .
ánh trăng trớc sau vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn đầy một cách
trong sáng, vô t, mặc cho thời gian trôi, mặc cho bạn bầu xa ai đó quay lng dù trong quá khứ trăng là
tri kỉ. Nhng trăng cũng khơi gợi niềm xúc động, đánh thức lơng tâm ở con ngời. Cái giật mình đợc
diễn tả trong khổ thơ vô ngôn thể hiện sự bình tĩnh đáng quí. Qua bài thơ Nguyễn Duy đã khám phá
ra vẻ đẹp không bao giờ kết thúc. Dờng nh cuộc sống mới đầy đủ hơn khiến cho con ngời lãng quên
ánh trăng. Hành trình đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con ngời không bao giờ ngơi nghỉ
và việc hoàn thiện mình của chính mỗi con ngời cũng không phải một sớm một chiều.
Cuộc đấu tranh hớng thiện âm thầm mà khốc liệt, nó đòi hỏi lòng dũng cảm của con ngời. Ngời
lính năm xa đã dành trọn quá khứ soi mình trong hiện tại để đấu tranh loại bỏ sự vô tình vô nghĩa của
bản thân, hớng tới sự cao cả, tốt đẹp.
ánh trăng là bài thơ không quên về quá trình hớng thiện, quá trình hoàn thiện mình của mỗi
con ngời trong cuộc sống hôm nay.

Phân tích bài thơ ánh trăng của Nguyễn Duy để cảm nhận đ ợc bài học sâu sắc mà tác giả
muốn gửi gắm.
Bài làm
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nớc. Nguyễn
Duy nổi tiếng với các bài thơ nh : Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn
tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy t.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
14
Nguyn Thỏi H
ánh trăng (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy đợc nhiều ngời a thích bởi tình
cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ :
Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp :
Hồi nhỏ sống với đồng.
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ .
Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở
đâu, đi đâu trăng cũng gắn bó với ngời. Nhng phải đến khi ở rừng nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến
đờng Trờng Sơn xa gia đình, quê hơng vầng trăng mới trở thành tri kỉ. Trăng với tác giả là đôi bạn
không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.
Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình yêu thơng quí trọng của mình với trăng :
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên nh cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa .
Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô t, hồn nhiên.
Trăng tợng trng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hoà vào thiên nhiên, hoà vào cây cỏ. Vầng trăng tình
nghĩa, bởi trăng từng chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là ngời bạn, tri âm, tri kỉ.

ấy mà có những lúc tác giả tự thú nhận là mình đã lãng quên cái vầng trăng tình nghĩa ấy :
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gơng
Vầng trăng đi qua ngõ
Nh ngời dng qua đờng .
Trớc đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng bây giờ môi trờng đã thay đổi. Từ hồi về thành
phố đời sống cũng thay đổi theo : quen ánh điện, cửa g ơng . ánh điện , cửa g ơng tợng trng cho
cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng dần dần cái vầng trăng tình nghĩa ngày nào bị lãng quên.
Vầng trăng ở đây tợng trng cho những tháng năm gian khổ, đó là tình bạn, tình đồng chí đợc hình
thành từ những tháng năm ấy. Trăng bây giờ thành ng ời dng Con ngời ta thờng hay đổi thay nh
vậy. Bởi thế đời vẫn thờng nhắc nhau : ngọt bùi nhớ lúc đắng cay. ở thành phố vì quen với ánh
điện, cửa gơng quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên ngời đã không thèm để ý đến Vầng trăng -
con ngời, mảnh đất từng là tri kỉ một thời.
Phải đến lúc toàn thành phố mất điện :
Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Vầng trăng xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy ngời lính năm xa mới bàng
hoàng trớc vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xa bỗng ùa về làm "Con ngời này" cứ r-
ng rng nớc mắt.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
15
Nguyn Thỏi H
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rng rng "
" ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình .
Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lợng biết bao !

Tấm lòng bao dung độ lợng ấy đủ cho ta giật mình mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tợng
trng cho vẻ đẹp bền vững, phẩm chất cao quí của nhân dân, trăng tợng trng cho vẻ đẹp bền vững của
tình bạn, tình đồng đội trong những tháng năm không thể nào quên. Tợng trng cho "mảnh đất nuôi ta
thành dũng sĩ
ánh trăng của Nguyễn Duy đã gây đợc nhiều xúc động đối với độc giả bởi cách diễn đạt bình
dị nh lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới
lạ ,ánh trăng còn mang ý nghĩa triết lí về sự thuỷ chung khiến cho ngời đọc phải giật mình suy
nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.
2. Viết lời bình cho đoạn thơ sau
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi ngời vô tình
ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình
(ánh trăng, Nguyễn duy)
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
16
Nguyn Thỏi H
Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc trong truyện ngắn
Làng của Kim Lân .
Bài làm
Làng (Kim Lân) thuộc loại truyện có cốt truyện tâm lí, không xây dựng trên diễn biến sự việc
mà chú trọng miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật, từ đó làm nổi rõ tình yêu làng thống nhất trong tình
yêu nớc và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai.
Là một ngời nông dân suốt cuộc đời sống ở quê, gắn bó máu thịt với từng nếp nhà, thửa ruộng ,
vì giặc ngoại xâm ông Hai phải đi tản c nhng lòng vẫn không thôi đau đáu về quê, ông bày tỏ nỗi nhớ,
tình yêu quê của mình trong những câu chuyện hàng ngày.
Cũng vì quá yêu làng, tự hào về làng, ông lại càng chua xót, tủi khổ hơn khi nghe cái tin làng ông
làm Việt gian theo Tây mà chính ông nghe đợc từ miệng những ngời tản c dới xuôi lên. Tin đó quá đột

ngột khiến ông Hai sững sờ cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tởng
nh đến không thở đợc . Trong điều kiện, hoàn cảnh lúc này, ông không thể biết đợc tin này thực h ra
sao. Nhng những ngời tản c đã kể quá rành rọt, họ còn khẳng định vừa ở dới ấy lên, làm ông không
thể không tin, nên càng khiến ông đau buồn, khổ sở. Tin ấy không chỉ làm cho ông cảm thấy đau về
thể xác mà còn xâm chiếm, ám ảnh , day dứt tinh thần. Tiếng cời nói xôn xao của đám ngời mới tản c
lên ấy vẫn cứ dõi theo Cha mẹ tiên s nhà chúng nó ! Cái giống Việt gian bán nớc thì cứ cho mỗi
đứa một nhát! khiến ông đau đớn, xấu hổ cúi gằm mặt xuống mà đi .
Về đến nhà, ông nằm vật ra giờng, nhìn lũ con, cảm thấy tủi thân, nớc mắt cứ giàn ra. Chúng nó
cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ? chúng nó cũng bị ngời ta rẻ rúng hắt hủi ? Tin hay không tin ?
Ông ngờ ngợ nh lời mình nói không đợc đúng lắm ? Nhng rồi nghĩ rằng ngời ta hơi đâu bịa ra những
chuyện ấy. Suốt cả ngày sau, ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn trong gian nhà chật hẹp, lắng tai
nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cời nói xa xa,
ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tởng nh ngời ta đang để ý, ngời ta đang bàn tán đến cái
chuyện ấy . Tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề, biến động dữ dội trong nội tâm nhân
vật, sự sợ hãi ám ảnh tâm trạng ông Hai.
Càng yêu làng, tự hào về làng, thì khi làng theo Tây càng tỏ nỗi đau, nỗi nhục ở ông Hai. Cái đau,
cái nhục ấy cũng chính là lòng yêu làng, yêu nớc của ông Hai. Bao nhiêu ý nghĩ ghê rợn nối tiếp bời
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
17
Nguyn Thỏi H
bời trong đầu óc ông, đẩy ông Hai vào tình huống phải lựa chọn hay là quay về làng ?, về làng tức
là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ. Tình yêu quê và tình yêu Tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Cuối
cùng ông đã lựa chọn Không thể đ ợc ! Làng thì yêu thật, nhng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.
Đối với ngời nông dân thuần phác ấy, tình yêu nớc rộng lớn, hớng về kháng chiến, cụ Hồ đã bao trùm
lên tình yêu quê.
Nỗi lòng đó của ông đợc trút vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ: Thế con có thích về
làng Chợ Dầu không? ; Thế con ủng hộ ai ? Phải chẳng, cũng chính là lời ông Hai tự nhủ với
mình, tự giãi bày nỗi lòng. Ông Hai bày tỏ nỗi lòng sâu xa, chân thành của ngời nông dân với quê, với

Tổ quốc, với cách mạng mà biểu tợng là Cụ Hồ.
Tình yêu làng, lòng tin làng, cùng với nỗi day dứt, đau khổ lo lắng đã đợc giải toả ở tình huống
cuối cùng của câu chuyện. Đó là việc ông chủ tịch làng Dầu lên cải chính cái tin làng Dầu đi làm Việt
gian. Bao sung sớng, hạnh phúc, tự hào về làng trở về với ông Hai. Trên khuôn mặt buồn thiu mọi
ngày bỗng rạng rỡ lên. Mặc dù biết Tây nó đốt cả nhà mình mà ông không xót xa. Cái dáng vẻ lật
đật đi đâu cũng múa tay lên mà khoe tin ấy, tởng nh không bình thờng nhng hoàn toàn chân thực.
Ông Hai đã quên sự mất mát riêng để tự hào sung sớng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của quê hơng
đất nớc. Tình yêu làng của ông đã mở rộng hoà trong tình yêu nớc.
Thành công của Kim Lân là diễn tả diễn biến tâm lý cụ thể ở một con ngời - ông Hai, mang tình cảm
chung của ngời nông dân Việt Nam đối với làng, với nớc. Bên cạnh đó, truyện để lại ấn tợng trong lòng ngời
đọc bởi chính cảm xúc, khát khao, vui buồn của nhà văn, tạo d âm vang vọng cho tác phẩm.
. Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành
Long) để thấy đợc vẻ đẹp trong cách sống, tâm hồn và những suy nghĩ của nhân vật.
Bài làm
Trong cái im lặng của Sa Pa [ ], Sa Pa mà chỉ nghe tên, ngời ta chỉ nghĩ đến chuyện
nghỉ ngơi, có những ngời làm việc và lo nghĩ nh vậy cho đất nớc. Có những ngời làm việc và lo
nghĩ cho đất nớc, đó là những con ngời lao động thầm lặng, hi sinh hạnh phúc cá nhân, tìm
hạnh phúc trong lao động. Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn
Thành Long) là một bức chân dung kí hoạ đẹp đẽ về con ngời này.
Nhân vật anh thanh niên - nhân vật chính của truyện, đợc xuất hiện từ lời giới thiệu của
bác lái xe với ông hoạ sĩ và cô kĩ s : hai mơi bảy tuổi. ngời cô độc nhất thế gian, một mình trên
trạm khí tợng ở đỉnh núi cao 2.600 m, rất thèm ngời Giữa mênh mông đất trời, sơng tuyết,
anh thanh niên yêu đời, yêu nghề, có trách nhiệm với công việc của mình. Trong cuộc sống,
hạnh phúc mà ngời ta có đợc là tự bản thân mình biết tạo ra, tìm ra hạnh phúc từ chính cuộc
sống riêng mình, công việc mình đang làm. Anh thanh niên biết làm chủ, sắp xếp, lo toan cho
cuộc sống riêng mình. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, biết xuống đờng tìm gặp bác lái xe,
hành khách để trò chuyện. Anh đã tìm đợc hạnh phúc cho cuộc sống riêng. Đó là động lực giúp
anh vợt qua nỗi cô đơn vắng vẻ, quanh năm trên đỉnh núi cao, không có bóng ngời. Anh chiến
thắng hoàn cảnh, tìm hạnh phúc trong cuộc sống. Với anh khi làm việc, ta với công việc là đôi,
sao gọi là một mình đợc. Quan niệm sống, niềm say mê nghề nghiệp giúp anh vợt qua thử

Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
18
Nguyn Thỏi H
thách cuộc sống, thử thách trong nghề. Nửa đêm, đúng giờ ốp thì dù ma tuyết, giá lạnh thế
nào cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm công việc đã qui định.
ở ngời thanh niên này còn có những nét tính cách và phẩm chất rất đáng mến nữa. Đó là
sự cởi mở, chân thành, quí trọng tình cảm, khát khao đợc gặp gỡ, trò chuyện với mọi ngời. Sự
chu đáo, tình cảm chân thành, giản dị trong từng lời nói, cách quan tâm. Một củ tam thất đào đ-
ợc, một ổ trứng gà, một bó hoa và những câu chuyện làm quà Tất cả gửi gắm tình cảm chân
thành của ngời lao động trẻ tuổi - thế hệ thanh niên trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
của đất nớc ta.
Với những ngời đã gặp anh, tiếp xúc với anh, anh thanh niên không chỉ đáng yêu vì cách
sống mà đáng yêu ở cả những suy nghĩ, quan niệm về ng ời cô độc, về nỗi thèm ngời, về vị
trí cuộc sống, về ấn tợng mà mỗi ngời tạo ra trong đời, anh luôn cảm thấy mình nhỏ bé, bình th-
ờng so với những ngời khác. Khi ông hoạ sĩ già phác thảo chân dung anh vào sổ tay, anh rất ng-
ợng ngùng, tìm một chân dung khác cho tác phẩm của ông hoạ sĩ mà anh cho là có ý nghĩa hơn
anh. Nào là ông kĩ s vờn rau, ngày này sang ngày khác rình xem ong thụ phấn cho su hào để
nâng cao năng xuất cây trồng, cho đời củ su hào to và ngọt hơn ; một ngời làm công tác nghiên
cứu khoa học, mời năm không một ngày xa cơ quan, luôn trong t thế sẵn sàng đợi sét để lập ra
bản đồ sét ngời tìm ra của chìm dới lòng đất cho đất nớc.
Anh đã gửi gắm tới mọi ngời ý nghĩ : trong im lặng của Sa Pa, nơi ngời ta nghĩ tới nghỉ
ngơi còn có những ngời làm việc, lo nghĩ cho đất nớc.
Chỉ bằng một số chi tiết và sự xuất hiện của anh thanh niên trong khoảnh khắc của truyện
- cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa nhân vật ông hoạ sĩ, cô kĩ s trẻ và anh thanh niên làm công tác khí t-
ợng ở Sa Pa, tác giả đã phác hoạ đợc chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần,
tình cảm, cách sống và cả những suy nghĩ về cuộc sống, ý nghĩa công việc.
Cảm nhận của em về nhân vật ông họa sĩ trong Lặng lẽ Sa Pa
Bài làm

Trong truyện Lặng lẽ Sa Pa của nhà văn Nguyễn Thành Long, ngoài nhân vật chính - anh thanh
niên, các nhân vật khác nh ông già họa sĩ, cô kĩ s, bác lái xe, không chỉ tham gia vào câu chuyện, làm
rõ nét hơn cho nhân vật chính mà còn làm phong phú, sâu sắc hơn chủ đề của truyện. Trong số nhân
vật phụ đó, đáng chú ý nhất là nhân vật ông họa sĩ già. Ngời kể chuyện trong tác phẩm hầu nh nhập vai
vào cái nhìn, suy nghĩ của ông họa sĩ để quan sát, miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính
trong truyện.
Ngay từ phút giây đầu gặp anh thanh niên, cùng trớc đó với những lời giới thiệu của bác lái xe làm
nhà họa sĩ già xúc động mạnh về hình dáng một ngời con trai có tầm vóc nhỏ bé, nhng nét mặt rạng rỡ.
Những phút đầu gặp gỡ, bằng sự từng trải nghề nghiệp, niềm khao khát của ngời nghệ sĩ đi tìm đối t-
ợng của nghệ thuật, khiến họa sĩ già xúc động và bối rối "bắt gặp một điều thực ra ông vẫn ao ớc đợc
biết. Một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị của
một chuyến đi dài".
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
19
Nguyn Thỏi H
ở tuổi già, tuổi của những nghỉ ngơi, trái tim ngời nghệ sĩ này bỗng nh trẻ lại, thấy cuộc sống còn
bao ý nghĩa, khát khao sống, khát khao sáng tạo. Ông họa sĩ muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên
bằng nét bút ký họa : "Ngời con trai ấy đáng yêu thật nhng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm
ngời ta suy nghĩ về anh, và về những điều anh suy nghĩ cuồn cuộn hiện ra khi gặp ngời". Với nhà họa
sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó nhọc, gian nan. Cảm giác "nhọc mệt" mà ngời thanh niên cho ông
chính là niềm vui, hạnh phúc, sung sớng đợc gặp con ngời ngoài đời, chân dung nghệ thuật mà ông
khát khao đi tìm. Một trái tim nghệ thuật, một khát khao tiếp tục đợc sáng tạo, đợc cống hiến sống
dậy, thúc dục ông phải vẽ. Giây phút xúc động ấy, ông nhận ra đợc những âm vang đẹp đẽ, ngọt ngào
của cuộc đời, để rồi vang vọng mãi trong tâm hồn ông, biến thành tac phẩm nghệ thuật.
Những lời nói, suy nghĩ, ứng xử, thái độ chân thành của anh thanh niên đã bắt ông suy nghĩ về
những cái đã làm và cha làm đợc, cái ông dám nghĩ mà không dám làm. Những nghĩ suy về nghệ thuật
với sức mạnh và sự bất lực "có sẵn mà cha rõ hay cha đúng" về mảnh đất Sa Pa mà ông nghĩ đến "nghỉ
ngơi trong giai đoạn cuối đời". Cho nên nhân vật hoạ sĩ già còn là hoá thân bằng xơng thực của một

tuyên ngôn nghệ thuật.
Nhân vật ông họa sĩ già là nét đẹp trong cuộc sống, một con ngời ý thức đợc vị trí, trách nhiệm của
mình trong công cuộc xây dựng đất nớc, là ngời nhạy cảm trớc cái đúng, cái sai, ái đẹp luôn hớng
thiện, mong muốn làm điều tốt đẹp cho cuộc sống. Hình ảnh ông cùng các nhân vật khác để lại cho
Lặng lẽ Sa Pa những vang vọng, tác động mạnh đến t tởng, tình cảm của mỗi ngời.
. Phân tích hình ảnh biểu tợng : Đầu súng trăng treo (Đồng chí - Chính Hữu) ; hình ảnh Trăng
(ánh trăng - Nguyễn Duy)
Bài làm
* Biểu tợng Đầu súng trăng treo.
Đầu súng trăng treo là câu kết bài thơ Đồng chí, cũng là một biểu tợng đẹp về ngời chiến sĩ thời
kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là
nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con ngời chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng. Hình ảnh trăng tạo nên
con ngời thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời ngời lính cách mạng. Hai hình
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
20
Nguyn Thỏi H
ảnh đối lập đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa vô cùng độc đáo. Súng là chiến tranh lạnh lùng, là gợi ra sự
chết chóc, tàn phá, ghê sợ. Còn trăng là tợng trng cho hòa bình, gợi lên sự thanh cao, hạnh phúc, thơ
mộng, dịu dàng. Ngời lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình. Súng và trăng : cứng rắn
và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có ngời còn gọi đây là một cặp đồng chí.
Chính Hữu đã thành công với hình ảnh Đầu súng trăng treo - một biểu tợng thơ giàu sức gợi cảm.
Tác giả đã từng nói : "Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng đi phục kích giặc trong đêm trớc mắt tôi
chỉ có ba nhân vật : Khẩu súng, vầng trăng và ngời bạn chiến đấu. Ba nhân vật quện với nhau tạo ra
hình ảnh đầu súng trăng treo"
Đầu súng trăng treo, đã trở thành một biểu tợng đẹp của ngời lính cách mạng Việt Nam : Hiện thực
và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.
* Hình ảnh trăng trong ánh trăng của Nguyễn Duy
ánh trăng của Nguyễn Duy với hình ảnh trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nớc mà còn

gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao
giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên.
Hình ảnh trăng bắt đầu gắn với cuộc sống bình thờng của con ngời và vầng trăng thời chiến
tranh. Đầy ắp những kỉ niệm về vầng trăng trải rộng trên một thiên nhiên bao la với sông, với đồng, với
bể. Thời chiến tranh máu lửa vầng trăng đã thành tri kỉ với ngời lính. Vầng trăng là biểu tợng đẹp của
những năm tháng ấy, thành tri kỉ, nghĩa tình ngỡ không bao giờ có thể quên.
Thật đáng sợ ấy là sự thay đổi của lòng ngời. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, đợc sống
cuộc sống tiện nghi : ở buynh đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gơng Và vầng trăng tri kỉ, nghĩa tình
đã bị ngời lãng quên, dửng dng. Trăng đợc nhân hóa, lặng lẽ đi qua đờng, nh ngời dng, chẳng còn ai
nhớ, chẳng ai hay.
Bất ngờ một tình huống của nhịp sống thị thành : thình lình đèn điện tắt. Và trăng xa lại đến,
vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với ngời. Nớc mắt rng rng của ngòi lính, cái giật mình của ngời lính
trớc sự im lặng của trăng xa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tợng nghệ thuật mang tính
hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lợng, nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng
mà không hề đòi hỏi đợc đền đáp. Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi
ca, tự hào.
Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình, đó chính là ý nghĩa
sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy.
Khát vọng sống của nhà thơ Thanh Hải qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - Ngữ Văn 9- tập 2 .
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
21
Nguyn Thỏi H
Bài làm
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết :
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình

Lẽ sống cao đẹp ấy đã trở thành lí tởng trong bài ca cuộc đời của biết bao thế hệ những con ngời Việt
Nam anh hùng. Và khi bớc vào ngỡng cửa của thi ca thì Sống là cho và chết cũng là cho cũng chính
là niềm khao khát cháy bỏng trong tâm hồn mỗi thi nhân.Trong số đó, ta không khi nào quên nhắc đến
tiếng hát nhẹ nhàng ,sâu lắng ,tha thiết của khát vọng với cuộc đời, với đất nớc trong thi phẩm Mùa
xuân nho nhỏ đợc thơ Thanh Hải viết tháng mời 11 năm 1980 .
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đợc Thanh Hải sáng tác trớc khi nhà thơ qua đời một tháng .Trong
tâm lí nặng nề, sức khoẻ và bệnh tật mà hồn thơ Thanh Hải vẫn cất cánh bay cao để rồi mang đến cho
cuộc sống một tình yêu, một nỗi niềm thiết tha với quê hơng đất nớc và cùng theo đó là ớc nguyện
chân thành đợc cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Tổ Quốc thân yêu.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Thanh Hải lựa chọn mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Từ
hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên, tác giả đi đến với ớc nguyện đợc làm một Mùa xuân nho nhỏ lặng
lẽ dâng hiến cho cuộc đời, cho đất nớc non sông. Hình ảnh mùa xuân trong bài thơ là một bức tranh
thiên nhiên đẹp đẽ, sinh động với sự hoà quện tuyệt vời giữa sắc màu và âm thanh. Đó là dòng sông
xanh, bông hoa tím biếc, đó là lộc giắt đầy quanh lng và lộc trải dài nơng mạ .Và còn là tiếng hát
trong trẻo của loài chim chiền chiện, loài chim cất tiếng hót báo hiệu tin vui, đem lại cuộc sống ấm no
hạnh phúc cho con ngời. Tất cả mọi sự vật, thiên nhiên đều đợc tác giả nâng niu, trân trọng, không
muốn những gì đẹp đẽ, tinh khiết nhất của mùa xuân tan biến : Tôi đa tay tôi hứng - Hứng những giọt
long lanh trong vắt của tiếng hót say sa từ trời xanh rơi xuống. Tiếng chim hót vang trời xuân kia, bằng
tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, bằng tấm lòng thiết tha yêu mến cuộc sống tơi đẹp này, với Thanh Hải đã
thành giọt long lanh hữu hình cụ thể để mà nâng niu gìn giữ mãi sức sống mãnh liệt của mùa xuân.
Bằng sự kết hợp hài hoà giữa âm thanh và màu sắc cùng lối nói đảo ngữ ẩn dụ, tác giả đã vẽ lên trớc
mắt ngời đọc một bức tranh mùa xuân, rất đặc trng cho đất trời xứ Huế.
Từ xúc cảm say sa ngây ngất trớc mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ bồi hồi nhớ tới mùa xuân của
đất nớc, của cách mạng, đó là mùa xuân của những con ngời cầm súng và ra đồng. Lộc non trên lng
ngời ra trận chính là sức mạnh dân tộc, lộc trải dài nơng mạ là sự hối hả xôn xao cho một mùa màng
mới,cho đồng ruộng vẫn mãi mãi bạt ngàn một màu xanh. Ngời cầm súng và ngời ra đồng là hai lực l-
ợng chính thực hiện nhiệm vụ của đất nớc lúc bâý giờ, đó là chiến đấu bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. ý
thơ càng sâu sắc : Ngời ra trận phải đổ máu, ngời ra đồng phải đổ mồ hôi nớc mắt. Máu, mồ hôi, nớc
mắt của nhân dân đã góp phần giữ lấy mùa xuân mãi mãi cho dân tộc.
Cũng từ đó tác giả tự hào nghĩ về đất nớc thân yêu với bốn ngàn năm trờng kì lịch sử cùng bao

nỗi vất vả gian lao mà nhân dân đã phải trải qua. Song dù có biết bao thử thách, đất nớc Việt Nam, con
ngời Việt Nam vẫn nh vì sao sáng mãi đi lên, mãi tiến lên phía trớc biết ơn và tự hào về biết bao thế hệ
những ngời con anh hùng đã chiến đấu và hy sinh thân mình để giành lấy tự do cho dân tộc, cơm áo
cho nhân dân, nhà thơ Thanh Hải đã đi đến ớc nguyện chân thành :
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
22
Nguyn Thỏi H
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mơi
Dù là khi tóc bạc
Con chim hót một nhành hoa- một nốt nhạc trầm tất cả hoà quện với nhau làm nên một mùa
xuân nho nhỏ. Không ớc ao một điều gì lớn lao to tát, nhà thơ chỉ mong ớc đợc làm những gì có ích, để
cống hiến cho cuộc đời này dù ở bất cứ lứa tuổi nào. Tác giả nói riêng hay những con ngời Việt Nam
nói chung đều luôn sống với khát vọng hiến dâng chân thành tha thiết nhất. Con chim nhỏ cất tiếng hót
vui cho đời, nhành hoa bé khoe sắc làm đẹp cho cuộc sống, nốt nhạc trầm làm xao xuyến lòng ngời,
nhắc ngời ta hãy sống cho tất cả, sống cho tình nhân ái bao la và sống để cống hiến toàn vẹn cho cuộc
đời. ớc nguyện ấy của nhà thơ chân thành, tha thiết quá ! Phải chăng đây chính là điều mong ớc tột
cùng đã đi theo tác giả suốt cuộc đời ? Cho nên đến giây phút cuối cùng dù biết rất có thể ngày mai
đây sẽ từ biệt cõi đời này mãi mãi nhng ở khổ thơ cuối, tiếng hát đợc cất lên bởi một tâm hồn đang
tràn trề tình yêu thơng và hy vọng .
Giai điệu mà nhà thơ muốn cất lên chính là điệu hát truyền thống của xứ Huế văn hiến, thân th-
ơng dịu hiền.
Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam Bình
Nớc non ngàn dặm mình
Nớc non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế .
Khúc Nam ai, Nam bình là điệu nhạc buồn thơng, dịu dàng trìu mến mà tự bao đời nay, ngời
dân xứ Huế vẫn hát để gợi nhắc lòng ngời nhớ về nghĩa tình thuỷ chung, nhớ về tình yêu quê hơng đất
nớc. Non nớc Việt Nam cũng nh đất trời xứ Huế tơi đẹp quá ! Một câu hát truyền thống sẽ đi mãi cùng
trái tim một ngời con đã suốt đời chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, đến giây phút cuối cùng vẫn còn mong
mỏi mãnh liệt hơn bao giờ hết khát vọng cống hiến vẹn toàn cho quê hơng đất nớc.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ vừa tạo nên một bức tranh mùa xuân thiên nhiên tuyệt đẹp với sự nảy
nở sinh sôi, với sức sống bền bỉ mãnh liệt của vạn vật lại vừa là tiếng hát nhẹ nhàng tha thiết, sâu lắng
về khát vọng cống hiến cho đất nớc của nhà thơ Thanh Hải. Có lẽ chính vì sự nhịp nhàng trong ngôn từ
và cái bồi hồi mãnh liệt của khát vọng mà bài thơ vẫn mãi nhẹ nhàng thấm vào lòng ngời và trở thành
một lời nhắn nhủ ân tình với ngời đọc.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
23
Nguyn Thỏi H
Sự thành kính thiêng liêng của Viễn Phơng trong bài thơ Viếng lăng Bác.
Bài làm
Nhà thơ Cu-Ba F.Đờ-ri-gết đã từng ca ngợi : "Hồ Chí Minh - tên ngời là cả một miền thơ".
Vâng, quả đúng vậy ! Đợc viết về Ngời là niềm vinh dự lớn lao cho thế hệ những ngời cầm bút. Một
dòng sông thi ca viết về Con ngời đẹp nhất ấy chảy dạt dào hơn mấy chục năm qua. Ngời đi vào trong
thơ từ buổi đầu Ngời đi tìm hình của nớc - Chế Lan Viên, là ngời lính già trong chiến dịch Việt Bắc
với nhiều đêm hành quân không ngủ trong thơ Minh Huệ. Và Ngời toả sáng làm ấm lòng những đứa
con đất Việt trong giờ phút về "Viếng lăng Bác" - Viễn Phơng. Lăng Bác trở thành nơi lu giữ bóng
dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngỡng thành kính của nhân dân và bè bạn quốc tế. Viếng lăng Bác là
một bài thơ ngắn đầy cảm động, thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn, tự hào,
lẫn nỗi xót xa khi tác giả từ Miền Nam ra viếng Bác.

Đến với khổ thơ đầu tiên, ngời đọc sẽ dễ dàng cảm nhận đợc tình cảm thành kính, thiêng liêng
của nhà thơ đứng trớc lăng Bác:
"Con ở Miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sơng hàng tre bát ngát
Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp ma xa đứng thẳng hàng".
Viễn Phơng xng với Bác là "con", đó là cách xng hô trong gia đình, với ngời lớn tuổi, là lời xng
hô thật gần gũi thân thơng và kính trọng. Các nhà thơ Tố Hữu, Thu Bồn đã từng xng hô nh thế.
"ở miền Nam" - cụm từ định danh tạo cho bài thơ một sắc thái tình cảm mới. Nói rằng đứa con
Bác thơng nhớ nhất, bây giờ mới đợc gặp Ngời đây.
Tác giả nhấn mạnh nỗi nhớ thơng mong chờ, ấp ủ bấy lâu nay, bây giờ đợc gặp, đợc thăm Bác. Tình
cảm thổn thức trào dâng không thể nào diễn tả nỗi trong lòng những đứa con đất thành đồng Tổ quốc.
Nhan đề bài thơ đợc dùng đúng với nghĩa đen của nó, khẳng định Bác đã qua đời. Còn ở câu thơ đầu
tiên lại là "thăm lăng Bác", với ngụ ý nói giảm, Bác trở nên thân mật, gần gũi và sống mãi trong lòng
nhân dân Miền Nam. Quanh lăng Bác trồng rất nhiều tre. Tre là hiện thân cho những gì mộc mạc,
thanh cao, ngay thẳng, bất khuất nhất, cũng nh những con ngời Việt Nam vậy. Dù cho "bão táp ma xa"
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73
Email : hoc
24
Nguyn Thỏi H
vẫn "đứng thẳng hàng", có nghĩa là dù qua bao gian lao vất vả nhng ngời Việt Nam vẫn không bao giờ
chịu khuất phục, luôn đoàn kết với nhau để làm nên những chiến công hiển hách. Chỉ một khổ thơ
ngắn thôi nhng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ đối với Bác
kính yêu.
Chúng ta hãy đọc khổ thơ thứ hai và ba của bài thơ :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng ngời đi trong thơng nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mơi chín mùa xuân

Bác nằm trong lăng, giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Mặt trời trong lăng là một ẩn dụ độc đáo, một cách sáng tạo mới mẻ của Viễn Phơng, cùng với
điệp từ "ngày ngày", "mặt trời trong lăng" đã đợc vĩnh viễn hoá, bất tử hoá thành hình tợng Bác Hồ
trong lòng mọi ngời, giữa thiên nhiên, vũ trụ. Mặt khác để ca ngợi sự vĩ đại, công lao trời bể của Bác
đối với nhân dân Việt Nam. Bác đã chiếu sáng cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của đêm tr-
ờng nô lệ. Tác giả không dùng "đoàn ngời, tốp ngời" mà dùng "dòng ngời", cùng với từ láy "ngày
ngày" thể hiện hình ảnh này đã trở thành qui luật đều đặn, thể hiện tấm lòng thành kính của nhân dân
Việt Nam, của bạn bè bốn phơng đối với Bác. Mỗi ngời thăm Bác lúc bấy giờ là đại diện cho những
tấm gơng điển hình tiên tiến trên mặt trận chiến đấu, là những ngời con u tú, là những bông hoa tơi
thắm kết thành một "tràng hoa" để dâng lên Ngời. "Bảy mơi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ,
khẳng định sự trờng tồn, bất tử nh mùa xuân vĩnh viễn, tràn đầy sức sống.
Sang tới khổ thơ thứ ba, chúng ta thấy hiện lên một giấc ngủ bình yên, thanh thản. "Cả cuộc đời
Bác có ngủ yên đâu". Với Bác đợc ngủ bình yên khi :
"Việc quân, việc nớc bàn xong
Gối khuya yên giấc bên khung trăng nhòm".
Với Viễn Phơng, Bác ngủ bình yên nghĩa là Bác vẫn còn sống, đợc nghỉ ngơi, giấc ngủ đến với
Ngời nhẹ nhàng, thanh thản bởi lúc này, nớc đang tràn ngập niềm vui chiến thắng, ớc nguyện của Ngời
đã trở thành sự thật. "Vầng trăng" là hình ảnh ẩn dụ, tợng trng cho lòng nhân ái, đức độ, tâm hồn Bác.
Đồng thời, gợi vầng trăng tri kỉ đã từng gắn bó với Bác, thể hiện tâm hồn Bác hoà hợp với tình yêu
thiên nhiên. "Trời xanh" cũng là một hình ảnh ẩn dụ, tợng trng cho hình ảnh bất tử của Bác. "Bác còn
sống mãi với non sông đất nớc". Bác đã hoá thân vào thiên nhiên, đất nớc. Cặp từ quan hệ "vẫn biết
mà sao" thể hiện sự đau đớn, tiếc thơng đến cực độ của tác giả - "nhói", tình cảm ấy cũng là tình cảm
chung của nhân dân khi Bác ra đi "đời tuôn nớc mắt, trời tuôn ma". Mạch cảm xúc từ thành kính
chuyển thành tiếc thơng, làm cho thơ Viễn Phơng có lối viết hàm súc, câu chữ để lại nhiều ám ảnh
trong lòng ngời đọc.
Nguyn Thỏi H.Ho an Krụngpk klk.
Nick: th_nhanhlanrung_73

Email : hoc
25

×