HƯỚNG DẪN ÔN LUYỆN THI TUYỂN SINH
MÔN: NGỮ VĂN 9
PHẦN VĂN BẢN
A. PHẦN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
I. Truyện.
1. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG - NGUYỄN DỮ
a. Tác giả:
- Nguyễn Dữ sống khoảng đầu thế kĩ XVI. Đây là thời kì mở đầu cho một chặng dài lịch sử tối tăm của xã
hội nước ta thời phong kiến.
- Ông là học trò giỏi của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, chịu ảnh hưởng tiết tháo của người
thầy, sau khi đỗ hương cống, làm quan được một năm, Nguyễn Dữ lui về ẩn cư ở vùng núi Thanh Hoá.
- “ Truyền kì mạn lục” là tác phẩm duy nhất còn lại của ông. Đây được coi là áng “thiên cổ kì bút” với 20
truyện được viết theo thể truyền kì.
b. Tác phẩm:
b.1: Nguồn gốc và vị trí đoạn trích:
- Truyện lấy từ tích “ Vợ chàng Trương”
- Đại ý: Từ câu chuyện về nỗi oan nghiệt của Vũ Nương, tác giả nhằm ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của
người phụ nữ đồng thời phản ánh số phận của họ trong xã hội phong kiến.
b.2: Tóm tắt:
Xưa có chàng Trương Sinh cảm mến tư dung tốt đẹp của Vũ Nương nên đã đem trăm lạng vàng cưới về.
Cuộc sum họp chưa được bao lâu thì Trương Sinh đi lính. Vũ Nương ở nhà sinh con, chăm sóc mẹ già, lo
ma chay chu đáo. Trương Sinh trở về, nghe lời con nhỏ, nghi là vơ không chung thuỷ, một mực đổ oan,
đánh đập, đuổi đi. Vũ Nương bị oan, gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Một đêm Trương Sinh
cùng con nhỏ ngồi bên ngọn đèn dầu, đứa con chỉ bóng trên tường và nói đó là người hay tới đêm đêm.
Lúc đó chàng mới biết là vợ oan. Cùng làng có Phan Lang chạy loạn đã dạt vào động rùa, tình cờ gặp lại
Vũ Nương. Khi Phan Lang trở về, Vũ Nưong gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn với Trương Sinh. Trương
Sinh lập đàn tràng giải oan trên bến Hoàng Giang.Vũ Nương trở về loang loáng trên sông rồi biến mất.
b3. Phân tích nhân vật:
- Nhân vật Vũ Nương: Cần làm rõ các luận điểm:
+ Dù ở hoàn cảnh nào, VN đều tỏ rõ là người phụ nữ đẹp người đẹp nết:
• Trước khi lấy chồng: Được tiếng là người có “tư dung tốt đẹp”
• Từ khi lấy chồng: ** Trong cuộc sống vợ chồng
** Khi tiễn chồng ra trận
** Khi xachồng
** Khi bị chồng nghi oan
• Khi sống ở thuỷ cung
=>Đó là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, hiếu thảo, thuỷ chung vẹn
toàn, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình.
+ Vũ Nương lại là một người phụ nữ bất hạnh, oan trái.
* Bởi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến: Người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn ông trong
gia đình. Thậm chí không có cả quyền làm chủ số phận của chính bản thân mình.
* Bởi cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu.
* Bởi lấy phải người chồng gia trưởng, độc đoán lại hay ghen tuông vô lối.
+ Cái chết của Vũ Nương thực chất là một sự bức tử:
*Xuất phát từ lời nói ngây thơ của con trẻ => khiến cho lòng ghen tuông vô lối, mù quáng của Trương
Sinh bùng phát không gì gỡ được.
*Hành động vũ phu, thái độ độc đoán, gia trưởng, bỏ ngoài tai mọi sự thanh minh của Vũ Nương và
những người hàng xóm của Trương Sinh. Một mực nghi oan cho vợ, đánh đập, đuổi đi
=> Vũ Nương rơi vào sự bế tắc hoàn toàn không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cái chết.
*Cái chết của Vũ Nương không chỉ thể hiện sự bế tắc của nàng mà còn có ý nghĩa vô cùng sâu sắc: Số
phận mỏng manh của người phụ nữ, chế độ nam quyền bất công dung túng cho hành động của người
chồng, chiến tranh phong kiến li gián lứa đôi, khiến cho hạnh phúc của họ phải đến cảnh “ bình rơi trâm
gãy”, lòng thương cảm của tác giả cho số phận người phụ nữ...
- Nhân vật Trương Sinh: Điển hình cho quyền lực và tính cách của người chồng trong chế độ phong kiến
nam quyền: Gia trưởng, độc đoán, coi thường nhân phẩm thậm chí coi thường cả mạng sống của vợ.
Ngoài ra, Trương Sinh còn là kẻ vô học, ghen tuông mù quáng, vô lối.
b.4: Nghệ thuật:
Viết theo thể truyền kì, có nhiều sáng tạo so với tích truyện “ Vợ chàng Trương”, Chi tiết cái bóng trở
thành yếu tố nghệ thuật có giá trị. Truyện có nhiều yếu tố bất ngờ, kịch tính, thực ảo đan xen. Các yếu tố
kì ảo làm cho tác phẩm mang nhiều màu sắc lung linh, kết thúc có hậu.
2: CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH – PHẠM ĐÌNH HỔ
1. Tác giả: (1768-1839) tục gọi là Chiêu Hổ, nguờ làng Đan Loan, huyện Đường Giang, tỉnh Hải Dương.
Ông là một nho sĩ sống trong thời chế độ phong kiến đã khủng hoảng trầm trọng nên có tư tưởng muốn ẩn
cư.
Ông có nhiều tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực. “ Vũ trung tùy bút” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị gồm
88 chuyện nhỏ, viết theo thể tùy bút.
2. Tác phẩm:
a. Vị trí: Rút từ tập “ Vũ trung tùy bút”
b. Đại ý: Phản ánh cuộc sống xa hoa của chúa Trịnh và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại đương thời.
c. Phân tích:
- Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh:
+ Chúa cho xây nhiều cung điện, đình đài “ liên miên” ở các nơi để thỏa ý “ thích chơi đèn đuốc”, ngắm
cảnh đẹp…
+ Những cuộc dạo chơi tốn kém ở Tây Hồ diễn ra thường xuyên, huy động rất đông người hầu hạ, bày
nhiều trò giải trí lố lăng…
+ Việc thu vật “phụng thủ” thực chất là cướp đoạt những của quý trong thiên hạ về tô điểm cho nơi ở của
chúa.
+ Dung túng cho hành động tác oai tác quái của bọn hoạn quan, mặc kệ đời sống nhân dân cơ cực, khốn
đốn.
- Bọn hoạn quan hầu cận:
+ Đối với bề trên: ra sức nịnh bợ, bày ra những trò ăn chơi sa đọa, bịt mắt chúa bởi những thói xa
hoa,phồn thịnh giả tạo, khiến cho chúa bị hoàn toàn bị mê muội.
+ Đối với nhân dân: ỷ vào nhà chúa mà hoành hành, tác oai tác quái. Thủ đoạn của chúng được tái hiện
trong tác phẩm là hành động vừa ăn cướp vừa la làng. Người dân vì thế mà bị cướp của 2 lần, bằng không
cũng phải tự tay hủy bỏ của quý của mình. Nhà của tác giả thuộc dòng dõi quý tọc cũng trở thành nạn
nhân của chúng.
- Thái độ của tác giả:
+Kín đáo bộc lộ sự không đồng tình trước sự xa hoa, ăn chơi vô lối của chúa Trinh. Cảm nhận được dấu
hiệu chẳng lành “ kẻ thức giả cho đó là triệu bất tường”
+ Bất bình trước hành động tác oai tác quái của bọn hoạn quan, tỏ sự xót xa kín đáo tới tình cảnh và cuộc
sống bất ổn của người dân.
d. Nghệ thuật:
Truyện được viết theo thể tùy bút, kết hợp nhuần nhuyễn các phương thức tự sự, biểu cảm, miêu tả và
nghị luận. Cách kể, tả có điểm nhấn, bộc lộ kín đáo cảm xúc suy nghĩ của mình.
3: HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ – HỒI THỨ MƯỜI BỐN – NGÔ GIA VĂN PHÁI.
a. Tác giả:
- Là các tác giả thuộc dòng dõi họ Ngô Thì, Họ đều là những trung thần chịu ơn sâu nghĩa nặng với nhà
Lê.
- “ Hoàng Lê nhất thống chí” được viết nhiều thời điểm nối tiếp nhau, gồm 17 hồi. Là cuốn thiểu thuyết
lịch sử viết theo thể chương hồi, bằng chữ Hán.
b. Đoạn trích:
b.1: Vị trí: Hồi thứ 14 cùa tác phẩm.
b.2: Đại ý: Miêu tả chiến công Quang Trung đại phá quân Thanh, qua đó khắc họa vẻ đep hào hùng của
người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ- Quang Trung, sự thảm bại của bọn xâm lược và số phận bi thảm
của vua tôi phản dân hại nước Lê Chiêu Thống.
b.3: Phân tích:
- Nguyễn Huệ-Quang Trung, hình ảnh ngời sáng, tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của cả dân tộc.
+ Ngời sáng bởi phẩm chất của người anh hùng: thể hiện ở các khía cạnh:
• Đó là con người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán: khi nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng
Long, định thân chinh cầm quân ngay. Rồi trong một tháng, NH đã làm bao việc lớn: Tế cáo trời
đất, lên ngôi hoàng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc, gặp gỡi “ người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển
mộ quân lính, tuyển binh, hoạch định các phương lược, tốc chiến tốc thắng, đánh tan 20 vạn quân
Thanh.
• Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén: Thể hiện trong việc phân tích thời cuộc và thế tương quan chiến lược
giữa ta và địch, thể hiện trong việc xét đoán và dùng người….
• Có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trong rộng: Mới khởi binh, QT đã nói chắc như đinh đóng cột
“ phương lược tiến đánh đã có sẵn”, dự kiến ngày chiến thắng tại thành Thăng Long, tính sẵn cả
kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng…
• Tài dụng binh như thần: Với phương lược thần tốc: hành quân thần tốc, đánh thần tốc khiến giặc
không kịp trở tay, tạo nên chiến thắng lừng lẫy trong lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
+ Ngời sáng bởi hình ảnh oai phong lẫm liệt trong trận đánh. Ông không chỉ là một tổng chỉ huy hoạch
định phương lược, tổ chức quân sĩ mà còn là người trực tiếp chỉ huy một mũi tiến công. Cưỡi voi đốc
thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế… Đội quân của vua Quang Trung không phải toàn là lính thiện
chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, vậy mà dưới sự chỉ huy của vị tổng chỉ huy tài tình
này đã đánh những trận thật đẹp, áp đạo kẻ thù, khiến chúng không kịp trở tay.
=> Ông chính là linh hồn của trận đánh.
- Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh.
+ Trước khi vào trận đánh: tướng kiêu căng, tự phụ còn lính thì vô tổ chức, vô kỉ luật.
+ Khi vào trận đánh: tướng bất tài, “ sợ mất mật…chuồn trước qua cầu phao”
Quân nhốn nháo, bỏ chạy toán loạn, dẫm đạp lên nhau mà chết.
- Số phận thảm hại của bọn vua tôi bán nước Lê Chiêu Thống:
+ Vì ngai vàng, vì lợi ích của dòng họ mà phản nước hại dân, đặt vận mệnh của cả dân tộc vào tay kẻ thù.
+ Chịu chung số phận bi thảm với kẻ cướp nước, mãi mãi trở thành kẻ vong quốc .
b.4: Nghệ thuật:
+cách tái hiện chân thực, tôn trọng tính khách quan sự kiện lịch sử,
+ giọng kể linh hoạt: hào sảng, ngưỡng mộ khi kể về Quang Trung, mỉa mai khinh bỉ khi miêu tả quân
tướng nhà Thanh, xót xa, khi kể về cuộc chạy trốn của vua tôi Lê Chiêu Thống.
+ Bút pháp tương phản khi khắc họa nhân vật.
II. Truyện thơ:
1: TRUYỆN KIỀU – NGUYỄN DU:
a. Tác giả:
- Nguyễn Du (1765-1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên; quê ở làng Tiên Điền- Nghi Xuân- Hà Tĩnh.
- Thời đại: xã hội có nhiều biến động dữ dội: sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến, phong
trào khởi nghĩa nổi dậy khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn dẹp được thù trong giặc ngoài.
- Cuộc đời:
+Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học.
+ Có tài văn chương thiên bẩm, cuộc đời gặp nhiều thăng trầm, lao đao.
+ Là người hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú. Ông còn là người có trái tim giàu tình yêu thương.
Và là một thiên tài văn học của dân tộc ta.
- Sự nghiệp sáng tác: Đồ sộ cả về chữ Hán và chữ Nôm. Đỉnh cao là Truyện Kiều (Đoạn trường tân
Thanh)
b. Tác phẩm:
b.1: Nguồn gốc: lấy cốt truyện từ một tác phẩm văn học Trung Quốc: Kim Vân Kiều truyện cảu Thanh
Tâm Tài Nhân.
b.2: Thể loại: Truyện thơ (được làm theo thể thơ lục bát)
b.3: Giá trị nội dung:
- Giá trị hiện thực: Phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị
và số phận những con người bị áp bức đau khổ, đặc biệt là số phận bi kịch của người phụ nữ.
- Giá trị nhân đạo: Niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người; sự lên án tố cáo các thế
lực tàn bạo; sự trân trọng, đề cao con người từ hình thức phẩm chất đến những ước mơ, những khát vọng
chân chính.
b4: Giá trị nghệ thuật:
- là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên cả hai phương diện ngôn ngữ và thể loại.
2: Các đoạn trích :
2.1: CHỊ EM THÚY KIỀU:
a. Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần đầu của tác phẩm: Gặp gỡ và đính ước.
b. Đại ý: Bức chân dung xinh xắn của Thúy Vân và tài sắc của Thúy Kiều. Qua đó nhằm dự báo số phận
của mỗi người.
c. Phân tích:
- Bốn câu thơ đầu: Giới thiệu chung vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều:
=> Với bút pháp ước lệ, đối => cốt cách thanh tao, tâm hồn trong trắng của chị em Thúy Kiều. Đó là một
vẻ đẹp hòa hảo nhưng riêng biệt không hòa lẫn “ mỗi người một vẻ”
- Bốn câu tiếp gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân: Tác giả tập trung miêu tả khuôn mặt một cách cụ thể từng
đường nét và được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: trang, hoa, mây, tuyết, ngọc. Đó là một vẻ
đẹp trang trọng, đoan trang, hòa hợp với thiên nhiên nên “ mây thua”, “tuyết nhường’ => dự báo một cuộc
đời bình lặng, suôn sẻ.
- Mười hai câu tiếp: Tài, sắc và tâm hồn của Thúy Kiều
+ Sắc: Với hình ảnh ước lệ, TK hiện lên với vẻ đẹp vượt trội “ sắc đành đòi một” khiến cho “ hoa gen”
“liễu hờn”
+ Tài: Thông minh thiên bẩm, tài năng đạt đến mức lí tưởng cả về cầm, kì, thi, họa “ tài đành họa hai”.
Đặc biệt là tài đàn “ nghề riêng ăn đứt”.
+ Tâm hồn: Cung đàn “ bạc mệnh” mà Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa
sầu đa cảm.
=> So với Thúy Vân, tài sắc của Thúy kiều đều vượt trội, hoàn hào khiến cho tạo hóa cũng phải hờn
ghen=> Dự cảm về số phận éo le, chìm nổi. “ tài hoa bạc mệnh”
Một vừa hai phải ai ơi
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen
d. Nghệ thuật: sử dụng bút pháp tượng trung ước lệ, đối, nghệ thuật đòn bẩy khi khắc họa chân dung nhân
vật.
2.2:CẢNH NGÀY XUÂN.
a. Vị trí đoạn trích: phần đầu: Gặp gỡ và đính ước.
b. Đại ý: Bức tranh thiên nhiên ngày xuân xinh đẹp và cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
c. Phân tích:
- Bốn câu đầu: Khung cảnh ngày xuân:
+ Hai câu đầu: Vừa nói về thời gian vừa gợi không gian của ngày xuân. Trong tháng cuối cùng của mùa
xuân, những cánh én vẫn rộn ràng bay liệng như thoi đưa giữa bầu trời trong sáng “ thiều quang”
+ Hai câu tiếp: Là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân. Hình ảnh điểm xuyết, màu sắc hài hòa tới mức tuyệt
diệu => Gợi lên vẻ đẹp của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, tràn trề sức sống.
- Tám câu tiếp: Khung cảnh lễ hội
+ lễ: tảo mộ: với những hình ảnh thoi vàng vó, tro tiền giấy…: gợi lên không khí tưởng nhớ thành kính.
+ hội: đạp thanh.
cách dùng từ 2 âm tiết (từ láy, từ ghép)là những danh từ, động từ, tính từ: gần xa, nô nức, yến anh, tài tử,
giai nhân… cách so sánh” ngựa xe như….nêm”gợi lên không khí lễ hội rộn ràng, đông vui, ta thấy chị em
Thúy kiều như hòa vào cuộc chơi.
- Sáu câu cuối: Khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.
+ Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang.
Tuy nhiên không còn nhộn nhịp của lễ hội mà đang nhạt dẩn, lặng dần của buổi chiều tà.
+ Cách dùng một loạt từ láy: tà ta, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà
còn bộc lộ tâm trạng con người.. Tạo nên cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày xuân đang còn
mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra đã xuất hiện. Dòng nước uốn quanh “nao nao” như báo trước ngay sau
lúc này Kiều sẽ gặp mộ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh “ phong tư tài mạo tót vời” Kim Trọng
d. Nghệ thuật: cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình.
2.3: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH.
a. Vị trí: Nằm ở phần 2: Gia biến và lưu lạc.
b. Đại ý: Tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung hiếu thảo của Thúy Kiều.
c. Phân tích:
- Sáu câu đầu: Khung cảnh trước lầu Ngưng Bích:
+ Cảnh: từ ngữ gợi cảm giác, lời thơ kéo dài => Khung cảnh đẹp, nên thơ, thoáng đãng nhưng gợi buồn,
quạnh vắng.
+ Tình: “ khóa xuân” “ bẽ bàng…chia tấm lòng” => từ láy, so sánh=> tâm trạng ngổn ngang, ê chề.
=> Cả đoạn thơ diễn tả sự cô đơn, trơ trọi với nỗi tủi nhục trĩu nặng trong lòng.
- Tám câu tiếp theo: Nỗi nhớ thương của Thúy Kiều:
+ Ở đây, tác giả để Thúy Kiều nhớ về Kim Trọng trước:
“ Tưởng người…cho phai” => Lời thơ trĩu nặng , nghẹn ngào => Nỗi nhớ đau đớn, xót xa, buốt nhói.
+ Nhớ về cha mẹ: “ Xót người… người ôm”
=> thành ngữ, điển cố, điển tích, cách dùng từ “xót” => sự xót thương lo lắng cho cha mẹ già yếu không
có người chăm sóc, phụng dưỡng.
Tác giả đã sử dụng ngôn ngử độc thoại, miêu tả nội tâm tinh tế, qua đó cho thấy tấm lòng của Kiều đối với
người thân: thủy chung với mối tình đã khắc cốt ghi tâm, hiếu thảo, biết hi sinh vì gia đình.
- Tám câu cuối: tác giả tái hiện cảnh vật qua tâm trạng của Thúy Kiều:
=> Sử dụng một loạt các biện pháp tu từ: điệp ngữ, câu hòi tu từ, từ láy… đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ
tình => ngoại cảnh đã chuyển sang tâm cảnh: Số phận nổi nênh, vô định, tâm trạng buồn thương, hoảng
loạn, kinh sợ của Thúy Kiều. dự cảm tai họa sắp giáng xuống cuộc đời nàng.
d. Nghệ thuật:
Thành công trong nghệ thuật miêu tả nội tâm, bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng có hiệu quả các biện
pháp tu từ…
2.4: MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU.
a. Vị trí: Phần 2: Gia biến và lưu lạc.
b. Đại ý: Qua màn kịch vấn danh, lột tả chân tướng của Mã Giám Sinh và thân phận đáng thương, đức
hiếu thảo hi sinh vì gia đình của Thúy Kiều.
c. Phân tích.
- Đoạn trích đã lột tả được chân tướng của Mã giám sinh:
MGS đến với tư cách là một chàng sinh viên trường Quốc tử giám tới hỏi Kiều về làm lẽ. Nhưng đây chỉ
là một màn kịch vấn danh, thực chất là một cuộc mua bán. Chân tướng của anh chàng họ Mã dần dần lộ
diện:
+ Diện mạo: “ Quá niên…bảnh bao” chải chuốt, trai lơ, không hợp với tuổi tác
+ Lời nói: cộc lộc, vô lẽ, mơ hồ khi giới thiệu về bản thân.
+ Cử chỉ: “ trước thầy sau tớ lao xao”, “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” => Sỗ sàng, thô lỗ
=> Với bút pháp tả thực, ngôn ngữ miêu tả trực diện, MGS lộ diện là một kẻ vô học, thô lỗ, trơ trẽn.
+ Bản chất: Hắn ta điển hình với bản chất con buôn lưu manh, chuyên nghiệp. MGS coi TK như một món
hàng để có thể xét nét, cân đong đo đếm:
Mối càng vén tóc bắt tay
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá…
MGS điển hình cho loại người buôn thịt bán người trong XH truyện Kiều. Vì đồng tiền, chúng sẵn sàng
chà đạp lên nhân phẩm của con người,
- Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều.
+ Nỗi mình thên tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
+ Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày
+ Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
=>Bút pháp tượng trưng, ước lệ, từ ngữ gợi tả tâm trạng, câu thơ thể hiện nỗi sượng sùng, ê chề, tủi cực
của Thúy Kiều. Song nàng vẫn hoàn toàn câm lặng chịu đựng vì gia đình=> Tấm lòng hiếu thảo, đức hi
sinh vì gia đình của Thúy Kiều
- Tấm lòng nhân đạo của tác giả:
+ Thái độ kinh bỉ, căm phẫn sâu sắc bọn buôn người, tố cáo thế lực đồng tiền chà đạp lên nhân phẩm con
người.
+ Niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau đớn của Thúy Kiều.
c. Nghệ thuật:
- Thành công trong nghệ thuật tả người: Sử dụng bút pháp tả thực, ngôn ngữ đặc tả khi miêu tả nhân vật
phản diện, tượng trưng ước lệ khi viết về nhân vật chính diện. Đoạn trích như một màn kịch, có tình
huống, có kịch tính, qua đó bộc lộ bản chất của nhân vật.
3. LỤC VÂN TIÊN – NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU