Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Mỹ Thuật Thời kỳ Phục Hưng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.29 KB, 7 trang )

Mỹ Thuật Thời kỳ Phục Hưng:
Phục Hưng (có gốc từ tiếng Pháp Renaissance nghĩa là sự tái sinh), còn
gọi là Il Rinascimento tiếng Ý), là cuộc tái sinh các giá trị nghệ thuật, tư
tưởng, khoa học của thời kì Cổ đại và sự sống lại, phát triển rực rỡ của
nền văn minh phương Tây. Phong trào Phục Hưng thường được coi bắt
đầu từ khoảng thế kỉ 14 tại Ý và thế kỉ 16 tại Bắc Âu. Nó cũng được coi
là đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp của châu Âu từ Thời kỳ Trung cổ sang
Thời kỳ Cận đại, cũng như từ Thời kỳ phong kiến sang Thời kỳ tư bản.

*Nguồn gốc và lịch sử
Thuật ngữ Rinascenza (tái sinh) được nhà sử học Giorgio Vasari dùng
ban đầu vào năm 1550 để chỉ sự hồi sinh và phát triển rực rỡ các hoạt
động nghệ thuật và khoa học bắt đầu tại Ý vào thế kỷ 13. Sau đó, thuật
ngữ Renaissance được Jules Michelet dùng trong tiếng Pháp và nhà sử
học Thụy Sỹ Jacob Burckhardt phát triển (khoảng những năm 1860). Tái
sinh ở đây có hai nghĩa: một là sự khám phá lại các sách vở cổ điển và
đem ứng dụng vào trong khoa học và nghệ thuật; hai là để chỉ kết quả của
các hoạt động văn hóa đó mang lại sự hồi sinh cho văn hóa châu Âu nói
chung. Như vậy Phục Hưng có thể hiểu theo hai cách chính tuy khác biệt
nhưng đều có ý nghĩa là sự tái sinh của nền giáo dục cổ điển Tây phương
thông qua sách vở, tài liệu kinh điển của phương Tây và hồi sinh của văn
hóa châu Âu nói chung.

Từ Hán-Việt viết hoa Phục hưng, hay Phục Hưng, là thuật ngữ tương
đương với khái niệm này.
Hồi sinh tinh thần của thời kỳ Cổ đại

Người đàn ông Vitruvius theo Leonardo da Vinci, một ví dụ tiêu biểu về
sự pha trộn giữa nghệ thuật và khoa học vào thời Phục Hưng.Thời kỳ
Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi
sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong


trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều
yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn
học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học, ).

Tiên đề cho tư tưởng mới của thời kỳ Phục Hưng là những ý tưởng tự tin
của các nhà thơ người Ý của thế kỷ 14 như Francesco Petrarca, người
thông qua các nghiên cứu rộng lớn về các nhà văn thời kỳ Cổ đại và với
Chủ nghĩa Cá nhân của ông đã cổ động cho niềm tin về giá trị của sự đào
tạo nhân văn và ủng hộ cho việc nghiêm cứu về ngôn ngữ, văn học, lịch
sử và triết học bên ngoài quan hệ với tôn giáo.

Ảnh hưởng của những học giả nói tiếng Hy Lạp cũng rất đáng kể. Một số
học giả đến Ý trong thế kỷ 13 và thế kỷ 14 từ Đế quốc Byzantin. Đặc biệt
là sau khi người Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục Constantinople vào năm 1453
thì càng có nhiều học giả đến Venezia (tiếng Anh: Venice) và những
thành phố Ý khác, những người đã mang theo kiến thức về nền văn hóa
thời Cổ đại đã được lưu trữ gần 1.000 năm trong Đế quốc Byzantin sau
khi Đế quốc Tây La Mã suy tàn. Cho đến năm 1400 Homer, Herodot,
Platon và Aristoteles vẫn còn được rất nhiều người nhắc đến trong Đế
quốc Byzantin. Một vài năm trước khi Đế quốc Byzantin sụp đổ,
Giovanni Aurispa đã đến Constantinople và mang về Ý trên 200 bản viết
tay các tác phẩm văn học ngoại đạo.

Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ
Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xã hội,
cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người
đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ.
Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật.

Tên gọi trong tiếng Ý, rinascita, theo nghĩa cho khái niệm của một thời

kỳ, đã có từ Giorgio Vasari, người đã viết một trong những tác phẩm
miêu tả các nhà nghệ thuật Phục Hưng quan trọng nhất. Vasari chia sự
phát triển của nghệ thuật ra làm 3 thời kỳ:

Thời kỳ rực rỡ của Cổ đại Hy Lạp – La Mã
Thời kỳ suy tàn trung gian bắt đầu thời kỳ Trung Cổ
Thời kỳ hồi sinh các nghệ thuật và tinh thần Cổ đại trong thời kỳ Trung
cổ từ khoảng năm 1250.
Vì thế mà các nhà điêu khắc, kiến trúc sư và họa sĩ người Ý, trong số đó
có Arnolfo di Cambio, Nicolò Pisano, Cimabue hay Giotto di Bondone,
ngay từ nửa sau của thế kỷ 13, "trong những thời kỳ đen tối nhất, đã chỉ
ra cho những người tài giỏi đi sau con đường dẫn đến hoàn mỹ".

**Nghệ thuật

Leonardo da Vinci, Người đàn bà và con chồn, Bảo tàng Czartoryski,
Kraków, Ba LanFilippo Brunelleschi, Lorenzo Ghiberti và Donatello là
những người mở đường cho hướng đi mới trong nghệ thuật có tiền thân là
Nicola Pisano, Giotto di Bondone và những nghệ sĩ khác. Nói chung, ở Ý
thời gian khoảng từ 1420 đến 1600 được gọi là thời kỳ Phục Hưng, trong
châu Âu còn lại là thời gian từ 1500 đến 1600.

Bên cạnh sự mô phỏng theo nghệ thuật Cổ đại là việc nghiên cứu thiên
nhiên tích cực hơn, một khía cạnh quan trọng trong lịch sử phát triển của
nghệ thuật Phục Hưng. Ngay trước Vasari, nhiều nhà thơ như Boccaccio
đã khen ngợi họa sĩ Giotto có thể vẽ lại sự vật giống như trong tự nhiên
mà không có ai trước ông đạt được. Xu hướng tạo hình sự vật và con
người theo tự nhiên từ đấy là một trong những ý muốn chính của các
nghệ sĩ. Thế nhưng phải đến thế kỷ 15 thì các nghệ sĩ mới đạt được đến
một cách miêu tả theo tự nhiên gần như hoàn hảo. Vì thế mà các sử gia về

nghệ thuật thường giới hạn khái niệm Phục Hưng cho các miêu tả nghệ
thuật trong thế kỷ 15 và thế kỷ 16.

Gắn liền với yêu cầu tự nhiên trong nghệ thuật là sự tôn vinh thời kỳ Cổ
đại của các nghệ sĩ. Người ta ngưỡng mộ các tác phẩm nghệ thuật thời Cổ
đại như là các thí dụ điển hình trong việc miêu tả theo tự nhiên và vì thế
là các thí dụ đáng được mô phỏng theo trong lúc tự diễn đạt tự nhiên.
Ngoài ra nhà lý thuyết về kiến trúc người Ý, Leone Battista Alberti, còn
đòi hỏi các nhà nghệ thuật "không những ngang bằng với các danh nhân
thời kỳ Cổ đại mà còn phải cố gắng vượt lên trên họ". Tức là nghệ thuật
không những phải diễn đạt lại một cách trung thực thực tế mà còn phải cố
gắng cải thiện và làm hoàn hảo tấm gương của tự nhiên.

Bên cạnh xác định mới về quan hệ của nghệ thuật đối với tự nhiên và việc
ngưỡng mộ thời kỳ Cổ đại, thời kỳ Phục Hưng cũng đặt câu hỏi về bản
chất của cái đẹp. Các nghệ sĩ cố gắng diễn tả một con người đẹp toàn hảo.
Kích thước và tỉ lệ lý tưởng đều đóng một vai trò trong việc diễn tả cơ thể
con người trong hội họa và điêu khắc cũng như trong phác thảo kiến trúc.
Với cách phối cảnh cổ điển các nghệ sĩ đã phát triển một phương pháp để
diễn tả sự rút ngắn trong chiều sâu không gian với tính chính xác của toán
học.

Thông thường người ta chia thời kỳ lịch sử nghệ thuật Phục Hưng, đặc
biệt là Phục Hưng Ý, ra làm 3 giai đoạn

Tiền Phục Hưng (tiếng Anh: Early Renaissance)
Đỉnh cao của Phục Hưng (tiếng Anh: High Renaissance)
Hậu Phục Hưng hay Mannerism

Raffaello - Sistine MadonnaGiai đoạn đầu của thời kỳ Phục Hưng (từ

khoảng 1420 đến 1490/1500) khởi điểm từ thành phố Firenze (tiếng Anh:
Florence) với những bức tượng của Donatello, tranh phù điêu đồng của
Ghiberti, bích họa của Masaccio và các công trình xây dựng của Filippo
Bruelleschi. Thời gian từ khoảng 1490/1500 cho đến 1520 là đỉnh cao của
thời kỳ Phục Hưng. Trung tâm của thời kỳ vươn đến hoàn mỹ và hài hòa
cao độ này là thành phố Roma của giáo hoàng. Đây là thời gian của phác
thảo kiến trúc cho nhà thờ thánh Peter ở Roma của Bramante, các bức họa
nổi tiếng nhất của Leonardo da Vinci, của Raffaello, các bức tượng và
bích họa của Michelangelo cũng như các tác phẩm khắc đồng của
Albrecht Dürer. Sau đó là thời kỳ Hậu Phục Hưng hay Mannerism với
đặc trưng là có nhiều xu hướng nghệ thuật khác nhau. Mannerism có
khuynh hướng cường điệu hóa kho tàng hình dáng của Phục Hưng (thí dụ
như diễn tả cơ thể con người được kéo dài ra và uốn cong trong một cử
động mạnh). Giai đoạn cuối của thời kỳ Hậu Phục Hưng dần dần chuyển
sang phong cách Baroque.

Thế nhưng thời kỳ Phục Hưng không diễn ra theo một khuôn mẫu hoàn
toàn giống nhau trên khắp châu Âu. Trong khi tinh thần Phục Hưng bắt
đầu rất sớm và đặc biệt nở rộ ở Ý, có ảnh hưởng đều khắp trong hội họa,
điêu khắc và kiến trúc thì mãi đến khoảng năm 1500 hay sau đó thời kỳ
Phục Hưng mới bắt đầu ở phía Bắc của châu Âu và cũng chỉ chiếm ưu thế
một phần, đồng thời mang nhiều tính cách dân tộc. Trong các quốc gia
khác ngoài Ý kiến trúc và điêu khắc chịu ảnh hưởng nhiều hơn là hội họa.
Tại Pháp và Đức phong cách cổ đại được hòa trộn với nhiều yếu tố dân
tộc, nổi bật trong thời kỳ đầu của Phục Hưng hơn là trong thời kỳ Hậu
Phục Hưng, thời kỳ mà hình dáng được thể hiện đầy đặn và mạnh mẽ
hơn, chuyển đến cường điệu hóa của phong cách Baroque. Phong cách
Phục Hưng tại Hà Lan, Ba Lan, Anh và Tây Ban Nha cũng mang sắc thái
dân tộc.



***Các nghệ sĩ nổi tiếng trong thời kỳ Phục Hưng
Lorenzo Ghiberti (1381–1455)
Donatello (1386–1466)
Fra Angelico (1387–1455)
Paolo Uccello (1397–1475)
Hans Multscher (ca. 1400–1467)
Masaccio (1401–1428)
Leone Battista Alberti (1404–1472)
Andrea Mantegna (1431–1506)
Andrea del Verrocchio (1436–1488)
Israhel van Meckenem Trẻ (1440/45–1503)
Donato Bramante (ca. 1444–1514)
Sandro Botticelli (1444/1445–1510)
Giuliano da Sangallo (1445–1516)
Domenico Ghirlandaio (1449–1494)
Pietro Perugino (ca. 1448–1523)
Leonardo da Vinci (1452–1519)
Luca Signorelli (ca. 1450–1523)
Andrea Sansovino (1460–1529)
Hans Holbein Già (khoảng 1465–1524)
Albrecht Dürer (1471–1528)
Hans Dürer
Stanisław Samostrzelnik
Eberhard Rosemberger
Francesco Florentino
Lucas Cranach Già (1472–1553)
Fra Bartolommeo (1474–1517)
Michelangelo Buonarroti (1475–1564)
Tiziano Vecellio (1477–1576)

Giorgione (khoảng 1477–1510)
Hans Burgkmair Già (1473 - 1531)
Albrecht Altdorfer (1480–1538)
Raffaello (1483–1520)
Antonio da Sangallo (1485–1546)
Andrea del Sarto (1486–1531)
Jacopo Sansovino (1486–1570)
Correggio (1489–1534)
Lucas von Leyden (1494–1533)
Hans Holbein Trẻ (khoảng 1497–1543)
Heinrich Aldegrever (1502–1555/61)
Parmigianino (1503–1540)
Lucas Cranach Trẻ (1515–1586)
Tintoretto (1518–1594)
Pieter Bruegel Già (khoảng 1525–1569)
Santi Gucci (1530-1600)
Bartolommeo Berrecci
Giovanni Baptista di Quadro
Bernardo Morando
Benedykt từ Sandomier
****Hội họa

Tượng David của Michelangelo (1504)Phần lớn các bức tranh của nghệ
thuật Phục Hưng là các bức tranh thờ và bích họa có nội dung tôn giáo
được vẽ cho nhà thờ, tranh với các đề tài trần tục hay thần thoại không
mang tính tôn giáo (thí dụ như biểu tượng (tiếng Anh: allegory), huyền
thoại anh hùng hay thần thánh, lịch sử Cổ đại) và chân dung cá nhân của
những danh nhân đương thời. Bên cạnh đó cũng xuất hiện những tranh vẽ
phong cảnh và phong tục đầu tiên, diễn tả cuộc sống thời bấy giờ.


Chiều sâu của không gian được thiết kế hình học một cách chính xác
bằng phương pháp phối cảnh. Thêm vào đó là phương pháp phối cảnh
không gian và phối cảnh màu. Người nghệ sĩ diễn tả cơ thể khỏa thân của
con người như nghệ thuật khỏa thân bằng các tỷ lệ lý tưởng. Cách cấu
trúc tranh cân bằng hài hòa và đối xứng được hỗ trợ bằng những hình
dáng tam giác, bán nguyệt hay hình tròn là phong cách cấu trúc thường
được ưa chuộng.


*****Điêu khắc
Các nhà điêu khắc Phục Hưng sáng tạo nhiều nhất là những tượng đứng
và tượng bán thân. Trên các quảng trường thành phố là các tượng đài kỷ
niệm thí dụ như các tượng kỵ sĩ. Mộ bia cho danh nhân trong và ngoài
đạo liên kết tượng cùng với kiến trúc trở thành một tác phẩm nghệ thuật.

Các nhà điêu khắc Phục Hưng hướng về các tác phẩm tiêu biểu của thời
kỳ Cổ đại khi sáng tác. Bức tượng được làm mô hình toàn diện, con
người được biểu diễn khỏa thân, tư thế hai chân thường là theo kiểu
Contrapposto cổ điển. Các nghiên cứu về giải phẫu học được dùng để
miêu tả lại cơ thể con người giống như trong thực tế.


*****Kiến trúc


Bartolommeo Berrecci - Wawel, KrakówVề nguyên tắc có thể phân biệt
hai xu hướng khác nhau trong kiến trúc Phục Hưng. Một xu hướng hồi
sinh các đường nét thời kỳ Cổ đại một cách nghiêm khắc. Tại Ý, Donato
Bramante đã đạt đến mục tiêu này trong đỉnh cao của thời kỳ Phục Hưng
vào khoảng năm 1500 và từ đó chiếm lĩnh ưu thế trong kiến trúc trên toàn

nước Ý. Các công trình xây dựng Phục Hưng ở Ý được phác thảo trong
sáng và hài hòa cân đối. Trong sơ đồ mặt bằng các kiến trúc sư hướng về
các hình dáng đơn giản lý tưởng trong hình học như hình vuông hay hình
tròn. Các chi tiết kiến trúc như cột, trụ bổ tường, đầu cột, đầu hồi tam
giác, đều trực tiếp dựa vào kiểu mẫu thời Cổ đại. Bên cạnh đó là các
phát triển mới dẫn xuất từ khuôn mẫu của thời kỳ Cổ đại. Tất cả các phần
xây dựng riêng lẻ đều phải được hòa hợp với nhau và với toàn bộ tòa nhà.
Các luận thuyết kiến trúc của nhà xây dựng nổi tiếng người La Mã
Vitruvius được tham khảo để tìm ra những tỷ lệ tương quan lý tưởng.

Xu hướng thứ hai tuy cũng dựa vào thời kỳ Cổ đại nhưng biến đổi hình
dáng các yếu tố xây dựng tương tự như nghệ thuật xây dựng thời Trung
cổ, không vươn đến một nghệ thuật xây dựng theo các định luật một cách
nghiêm ngặt.

Nói chung khi nền văn hóa càng bám rễ sâu trong thời Trung cổ mang
dấu ấn của miền Bắc châu Âu thì phong cách kiến trúc tương tự của Phục
Hưng càng mạnh, tức là trước tiên là ở vùng Trung Âu và Bắc Âu. Trên
bán đảo Iberia hai xu hướng này tồn tại bên cạnh nhau cho đến thời kỳ
Baroque. Tại vùng châu Âu của Đức và Ba Lan hai xu hướng này được
trộn lẫn một phần (thí dụ như lâu đài Heidelberg (Đức) hay lâu đài tại
Wawel, Kraków (Ba Lan), thế nhưng xu hướng tương tự vẫn chiếm ưu
thế cho đến thời gian cuối


TB: Thời kỳ phục hưng có 3 họa sỹ vĩ đại như : Leonadvinci , Raphael ,
Michelangelo

Nguồn:
/>M


×