Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Chuyên đề khoa học KINH NGHIỆM HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC KHU VỰC CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.79 KB, 44 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Chuyên đề khoa học
KINH NGHIỆM HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC KHU VỰC
CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG
Nhóm 07: Phùng Thị Hồng Hạnh
Phan Thị Mai Ly
Vũ Thị Thu
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Kim Ngọc
Hà Nội, 12/2013
MỤC LỤC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ 1
Chuyên đề khoa học 1
KINH NGHIỆM HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC KHU
VỰC CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG 1
Nhóm 07: Phùng Thị Hồng Hạnh 1
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Kim Ngọc 1
Hà Nội, 12/2013 1
BẢNG CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT 7
DANH MỤC CÁC HÌNH 9
Châu Á – Thái Bình dương là một khu vực rộng lớn bao gồm hầu hết các nước nằm ven bờ của
Đại dương lớn nhất thế giới này với các nền kinh tế có trình độ và đặc điểm phát triển rất khác
biệt, đa dạng về văn hóa và phức tạp về chính trị - xã hội. Trong mấy thập kỷ trở lại đây, Châu –
Á Thái Bình Dương đã nổi lên như một khu vực tăng trưởng nhanh và năng động nhất thế giới.
Với tiềm năng to lớn về kinh tế, khoa học – công nghệ, thậm chí cả văn hóa, sự phát triển năng
động của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã thực sự mở ra một kỷ nguyên phát triển mới của
thế giới 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2


5. Phương pháp nghiên cứu 2
6. Dự kiến đóng góp của chuyên đề 3
7. Kết cấu của chuyên đề 3
1.1. Hội nhập kinh tế - khái niệm và bản chất 3
1.1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 3
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. Nhưng cho
đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có loại ý kiến
cho rằng: Hội nhập kinh tế là tiến trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới, tức là xóa bỏ những
khác biệt về kinh tế giữa các quốc gia và khu vực. Theo đó, các quốc gia, khu vực tiến hành xây
dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu. Loại
ý kiến khác cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại
quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước 3
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến và
được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau : Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình liên kết
có mục tiêu, định hướng cụ thể gắn với phạm vi, cấp độ cũng như điều kiện cụ thể của mỗi
nước. Mỗi nước, do điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù sẽ có lộ trình, bước đi và các giải pháp
hội nhập rất khác nhau 4
1.1.2. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 4
Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia xuất hiện khi lực lượng sản xuất và phân công lao động đã
phát triển đến một trình độ nhất định. Ban đầu chỉ là những hình thức buôn bán song phương,
sau đó mở rộng, phát triển dưới dạng liên kết sản xuất kinh doanh. Trong thời đại ngày nay, lực
lượng sản xuất và công nghệ thông tin đã và đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng chưa
từng thấy. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra khả năng tổ chức lại thị trường trong
phạm vi toàn cầu. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ phụ thuộc nhau hơn, cần sự bổ
trợ cho nhau, đặc biệt là các mối quan hệ về kinh tế thương mại cũng như đầu tư và các mối
quan hệ khác như môi trường, dân số…Chính đây là những căn cứ thực tế để đi tới cái đích
cuối cùng của quá trình toàn cầu hoá hướng tới đó là một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không
còn biên giới quốc gia về kinh tế ấy 4
Mỗi quốc gia dù ở trình độ phát triển đến đâu cũng tìm thấy lợi ích cho mình khi tham gia hôị
nhập kinh tế quốc tế. Đối với các nước phát triển họ có thể đẩy mạnh hoạt động thương mại,

đầu tư và chuyển giao công nghệ ra nước ngoài, mở rông quy mô sản xuất, tận dụng và khai
thác được các nguồn lực từ bên ngoài như tài nguyên, lao động và thị trường…cũng như gia
tăng các ảnh hưởng kinh tế và chính trị của mình trên trường quốc tế. Còn đối với các nước
đang phát triển, lợi ích ở đây là mở rộng thị trường cho hàng hoá xuất khẩu, tiếp nhận vốn,
tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó sẽ tạo ra công ăn
việc làm, đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được trình độ và kinh nghiệm quản lý Đây
chính là lý do đầu tiên mà một quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế 4
1.1.3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế 5
Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được xem xét ở một số mặt sau đây: 5
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tế
quốc gia với nhau và với nền kinh tế thế giới. Nó vừa là quá trình hộp tác cùng phát triển, vừa
là quán trình đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ
lợi ích của mình vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lí của các cường quốc
kinh tế và các công ty xuyên quốc gia 5
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại
và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế; Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuát kinh doanh, mặt khác buộc
các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao cạnh tranh trên thương trường 5
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời
cũng là yêu cầu, sức ép đối với mỗi nước trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc
biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô 5
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tạo dựng các nhân tố và điều kiện mới cho sự phát triển
của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại
của lực lượng sản xuất 5
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước,
tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý 5
1.2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế 6
1.2.1. Xuất nhập khẩu 6
Trong những năm gần đây, các hoạt động ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu của thế giới liên
tục tăng trưởng với tốc đọ ngày càng nhanh, quy mộ ngày càng lớn. Sự tăng trưởng đó có đặc

điểm là luôn cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của sản xuất thế giới dù nền kinh tế thế giới nói
chung và thương mại quốc tế nói riêng đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong quá trình phát
triển kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Trên thực tế, các nước sử dụng nhiều biện
pháp trực tiếp nhằm ở rộng xuất khẩu hàng hóa, chiếm lĩnh thị trường nước ngoài như tín dụng
xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu hoặc bán phá giá hàng hóa, bán phá giá hối đoái, hoàn thuế hàng
xuất khẩu…Đồng thời, các nước cũng sử dụng nhiều biện pháp hạn chế nhập khẩu bằng cách
sử dụng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan (như quotas, giấy phép nhập khẩu, quy định
về mặt vệ sinh thú y hoặc vệ sinh thực phẩm…) nhằm ngăn hàng từ nước ngoài, bảo vệ nền sản
xuất trong nước. Các tổ chức kinh tế quốc tế hiện nay đều có xu hướng thỏa thuận giảm bớt và
dỡ bỏ các biện pháp hạn chế này, tạo thuận lợi tối đa cho sự trao đổi tự do hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường thế giới 6
Trong sự tăng trưởng chung của thương mại quốc tế, giá trị thương mại của các nước đang phát
triển, đặc biệt là các nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng tăng lên. Với chiến
lược nhập thay thế nhập khẩu và sau đó là chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, một
số nền kinh tế Châu Á đã trở thành các nước công nghiệp mới, cất cánh thành những con rồng
Châu Á trong khoảng thời gian lịch sử ngắn hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát triển.
Điều đó cho thấy lợi ích của việc tham gia vào thương mại quốc tế là hết sức lớn lao và hoàn
toàn hiện thực 6
1.2.2. Đầu tư 6
Đầu tư quốc tế là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế hóa đời sống
kinh tế hiện nay, tuy rằng trên thực tế, sự hợp tác này không đơn giản mà trái lại luôn chứa
đựng sự cạnh tranh gay gắt 6
Đầu tư quốc tế mang lại lợi ích to lớn cho các đối tượng tham gia. Đối với các nước chủ đầu tư
mà phần lớn là các nước công nghiệp phát triển, lợi ích thu được là : Sử dụng được lợi thế của
nơi tiếp nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư;
Khắc phục tình trạng lão hóa sản phẩm bằng cách di chuyển một bộ phận sản xuất công nghiệp
sang các nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm; Xây
dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Đối với các nước nhận
đầu tư, đầu tư nước ngoài cũng thể hiện được vai trò to lớn trong việc giải quyết vấn đề thiếu
vốn ở các nước ngày, giải quyết một phần đáng kể tình trạng thất nghiệp thông qua việc tạo ra

các xí nghiệp mới hoặc làm tăng quy mô của các đơn vị kinh tế, giúp nước nhận đầu tư tiếp thu
công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý và góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, đưa nền kinh tế tham gia phân công lao động quốc tế một cách mạnh
mẽ 6
1.2.3. Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế 7
Dưới sức ép của cạnh tranh, toàn cầu hóa và sự bành trướng của các công ty đa quốc gia như
hiện nay, các quốc gia có xu hướng tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Tham
gia vào các tổ chức kinh tế khu vực nhằm tận dụng những lợi thế của nhau, dành cho nhau
những ưu đãi về thuế quan và mậu dịch, đồng thời phát huy sức mạnh tập thể để cạnh tranh với
các nước ngoài khối. Song song với việc tham gia và các tổ chức kinh tế khu vực, các quốc gia
đồng thời tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế toàn cầu nhằm tạo điều kiện cho tự do hóa
thương mại và đầu tư, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ hội nhập vào nền kinh tế
thế giới 7
Bảng 1.1 Một số tổ chức kinh tế khu vực và thế giới 7
STT 7
Tên 7
Số thành viên 7
Thường trực 7
Thành lập 7
1 7
Khu vực kinh tế Châu Âu (EEA) 7
16 nước 7
Brucxen -Thụy Điển 7
01/01/1994 7
2 7
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 7
10 nước 7
Jarkacta - Indonexia 7
08/08/1967 7
3 7

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) 7
21 nước 7
Không có trụ sở 7
11/1989 7
4 7
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 7
10 nước 7
Không có trụ sở 7
01/01/1993 7
5 7
Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) 7
3 nước 7
Mêhicô City 7
17/12/1992 7
6 7
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) 7
188 nước 7
Washington,DC- Mỹ 7
27/12/1945 7
7 7
Tổ chức thương mại thế giới(WTO) 7
159 nước 7
Giơnevơ – Thụy Sĩ 7
01/01/1995 7
Nguồn: Wikipedia.org 7
1.3. Đặc trưng và chiều hướng mới của hội nhập kinh tế quốc tế 8
1.3.1. Xét trên góc độ đơn phương 8
Từ nhận thức các yêu cầu của toàn cầu hóa và những thay đổi của bối cảnh quốc tế/ khu vực,
các quốc gia đã và đang đẩy mạnh các nỗ lực cải cách và chuyển đổi nền kinh tế theo kinh tế thị
trường tự do hóa, cam kết mở cửa thị trường bằng cách chủ động điều chỉnh hệ thống môi

trường pháp luật và thể chế, cải cách cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
để huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài vì mục tiêu phát
triển của mình. Những cải cách này là tự thân, lấy khuôn chung là các tiêu chí phát triển quốc tế
làm định chuẩn chứ hoàn toàn chưa phải là tuân theo các cam kết cụ thể vào định chế/ tổ chức
quốc tế/ khu vực mà họ chưa có điều kiện tham gia. Có thể nói, hội nhập đơn phương là quá
trình cải thiện liên tục bởi lẽ phạm vi, gia tốc và tần suất… của toàn cầu hóa kinh tế diễn ra
nhanh, mạnh và rộng khắp với nhiều biến động mới, khó lường trước. Đây là những tiền đề
quan trọng để cac quốc gia hội nhập sâu hơn trên các cấp độ khác 8
1.3.2. Ở cấp độ song phương 8
Hầu hết các nước đã và đang đàm phán, ký kết với nhau các hiệp định song phương, đặc biệt là
các hiệp định thương mại song phương – một xu hướng nổi bật nhất trong những năm gần đây.
Kể từ năm 1995, tức là kể từ sau khi GATT chuyển thành WTO, đến nay đã có trên 300 FTA
dưới nhiều hình thức khác nhau được ký kết và tính chung đến cuối năm 2008, các FTA song
phương và khu vực đã chiếm tới gần 50% trao đổi thương mại quốc tế. Hiện nay, các FTA song
phương và khu vực đã diễn ra phổ biến và rộng khắp ở hầu hết các khu vực trên thế giới, nổi
bật và rầm rộ nhất là ở Đông và Đông Nam Á. Các nước lớn và các nước phát triển đều triển
khai FTA với khu vực này – một khu vực phát triển năng động, thường đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân trên 6% liên tục trong nhiều năm gần đây. Mức cam kết song phương tuy dễ dàng
thông qua (vì chỉ đàm phán tay đôi) song các yêu cầu đặt ra lại rất cao, thúc đẩy mở cửa thị
trường sớm và cam kết tự do hóa toàn diện hơn. Dĩ nhiên, mọi sự đàm phán đều phải đảm bảo
lợi ích hài hòa từ hai bên song trên thực tế, các nước phát triển hơn và có độ mở cửa thị trường
lớn hơn thì dường như được hưởng lợi nhiều hơn. Đó là chưa kể đôi lúc, các nước phát triển,
nhờ lợi thế của mình có thể áp đặt một số điều kiện bất lợi cho nước đối tác là các nước đang
phát triển hoặc chậm phát triển 8
Tuy nhiên, trên thực tế, có thể thấy rõ rằng: FTA song phương thường có lợi cho những nền
kinh tế có độ mở cửa cao (Singapore, Chilê ); FTA song phương chỉ được ký kết giữa các
nước đã là thành viên của WTO; và FTA song phương dù có làm giảm một số nỗ lực đa
phương song không thể loại trừ các tiến trình đa phương, trái lại nó làm thuận lợi hóa quá trình
nội lại các vòng đa phương 8
1.3.3. Ở cấp độ đa phương 9

Một số hoặc nhiều nước cùng nhau đẩy mạnh việc thành lập hoặc tham gia vào những định
chế/ tổ chức khu vực và toàn cầu. Các định chế này có thể hình thành từ các nước trong cùng
một khu vực địa lý (EU, NAFTA, AFTA ); hoặc đó là định chế toàn cầu với hầu hết các nước
trên thế giới (WTO với 159 thành viên hiện nay) 9
Về các định chế đa phương khu vực : Như đã nói ở trên, đó có thể là các khu vực mậu dịch tự
do (AFTA, NAFTA) hoặc một liên minh kinh tế tiền tệ như EU hoặc đôi khi chỉ là những thỏa
thuận thương mại ưu đã giữa một số nước với nhau Sự phong phú về hình thức và mức độ hội
nhập cho thấy đặc điểm kinh tế - xã hội ở mỗi khu vực là nhân tố hàng đầu quy định tính đặc
thù hội nhập của các định chế. Ví dụ, ASEAN thành công nhờ nguyên tắc “đồng thuận” và
“không can thiệp” trong khi EU, nhờ tính tương đồng nhiều mặt về kinh tế - xã hội, trong đó
nguyên tắc “đa số quyết định” và “tính pháp lý cao” là nền tảng liên kết của nó 9
Về các định chế đa phương toàn cầu, xu hướng nổi trội là sự cải tổ và cấu trúc lại các thể chế
hiện có trên một số lĩnh vực (như về tài chính ngân hàng là đối với WB, IMF ; về thương mại
là sự tiếp tục nối lại vòng đàm phán Doha trong khuôn khổ WTO và cải tổ hoạt động của
UNCTAD ). Các thể chế này có mối quan hệ gắn kết với nhau, bổ sung lẫn nhau khi các vấn
đề phát triển kinh tế đã xoắn bện chặt chẽ với các vấn đề chính trị - xã hội. Trong số các thể chế
này, sự hội nhập vào WTO là mục tiêu và là khuôn khổ phát triển chung của mỗi quốc gia
nhằm thích ứng hiệu quả nhất đối với tiến trình tự do hóa thương mại 9
Chương 2: KINH NGHIỆM HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC CHÂU
Á- THÁI BÌNH DƯƠNG 10
2.1 Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản 10
2.1.1 Quan niệm hội nhập của Nhật Bản 10
2.1.2 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: 11
2.1.3 Những giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản 16
2.2. Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc 17
2.2.1. Quan niệm, mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc 17
2.2.2. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc 18
2.2.3. Một số giải pháp, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc 22
2.3. Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của Thái Lan 23
2.3.1. Quan niệm và tiến trình hội nhập kinh tế của Thái Lan 23

2.3.2. Tiến trình và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Thái Lan 24
2.3.3. Những giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế của Thái Lan 29
Chương 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 31
3.1. Về vấn đề cải cách hệ thống cơ chế, chính sách: 31
3.2. Về đàm phán tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và các hiệp định đa phương, song phương.
32
3.3. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 33
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
BẢNG CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa tiếng Anh Nguyên nghĩa tiếng Việt
1
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển châu Á
2
APEC
Asia-Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu
Á – Thái Bình Dương
3
ASEAN
Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
4
ASEM The Asia-Europe Meeting Hội nghị hợp tác Á–Âu
5
EPA

Economic Partnership
Agreements Hiệp định Đối tác Kinh tế
6
ESCAP
(UNESCAP)
Economic and Social
Commission for Asia and the
Pacific
Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á
Thái Bình Dương Liên Hiệp
Quốc
7
EU European Union Liên minh châu Âu
8
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
9
FTA Free Trade Agreements Hiệp định Thương mại Tự do
11
GATT
General Agreement on Tariffs
and Trade
Hiệp ước chung về thuế quan
và mậu dịch
12
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm trong nước
14
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
15

OECD
Organization for Economic
Co-operation and
Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế
16
RCED
Regional Comprehensive
Economic Partnership
Quan hệ đối tác kinh tế toàn
diện khu vực
17
TPP
Pacific Three Closer
Economic Partnership
Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược xuyên Thái Bình
Dương
18
UNCTAD
United Nations Conference on
Trade and Development
Hội nghị thương mại và phát
triển Liên Hiệp quốc
19
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BÁNG
STT Số hiệu Tên bảng Trang
1

Bảng 1.1 Một số tổ chức kinh tế khu vực và thế giới
7
2
Bảng 2.1 Vốn FDI vào Trung Quốc thời kỳ 2000 – 2010
21
3
Bảng 2.2
Tỷ trọng đóng góp vào tổng giá trị xuất khẩu của
một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Thái Lan
qua ba năm 2009-2011
25
4
Bảng 2.3
Thị trường xuất khẩu chính của Thái Lan năm
2012
26
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Số hiệu Tên hình Trang
1 Hình 2.1 GDP của Nhật Bản từ 2004 – 2012 15
2 Hình 2.2 Xuất khẩu của Nhật Bản từ 2000 đến 2012 15
3 Hình 2.3
Tăng trưởng GDP của Trung Quốc so với các
nước giai đoạn 2002 - 2011
20
4 Hình 2.4
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc
(2002 – 2010)
22
5 Hình 2.5
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan từ 1980

– 2012
27
6 Hình 2.6 Dòng vốn FDI vào Thái Lan qua các năm 28
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Châu Á – Thái Bình dương là một khu vực rộng lớn bao gồm hầu hết các nước nằm
ven bờ của Đại dương lớn nhất thế giới này với các nền kinh tế có trình độ và đặc điểm phát
triển rất khác biệt, đa dạng về văn hóa và phức tạp về chính trị - xã hội. Trong mấy thập kỷ
trở lại đây, Châu – Á Thái Bình Dương đã nổi lên như một khu vực tăng trưởng nhanh và
năng động nhất thế giới. Với tiềm năng to lớn về kinh tế, khoa học – công nghệ, thậm chí cả
văn hóa, sự phát triển năng động của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã thực sự mở ra
một kỷ nguyên phát triển mới của thế giới.
Trong những năm gần đây, xu hướng hội nhập và phát triển chủ yếu của khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương được thể hiện khá nổi bật trên các chiều cạnh: Xu thế tự do hóa
thương mại ngày càng được đẩy mạnh; tiến trình liên kết khu vực không ngừng gia tăng
cùng với xu thế toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức ở nhiều nước trong khu vực. Điều
này đã tạo cho Châu Á – Thái Bình Dương có một diện mạo phát triển mới, tiếp tục giữ vị
thế và ảnh hưởng quan trọng đến quá trình hình thành một trật tự thế giới hoàn toàn khác
trước. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Kinh nghiệm hội nhập kinh tế
quốc tế của một số nước Châu Á – Thái Bình Dương làm chuyên đề nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới đề tài, ở trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu, sách,
tạp chí mà tiêu biểu có thể kể đến những công trình sau:
GS.TS Nguyễn Xuân Thắng (2007), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
với tiến trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trong cuốn sách này, tác giả đề cập và làm rõ khái niệm, biểu hiện mới của toàn cầu hóa
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, các xu hướng các chiều hướng tiến triển của hội nhập
kinh tế quốc tế trên các cấp độ: song phương, đa phương khu vực và đa phương toàn cầu.
Đồng thời, tác giả đề cập đến vị trí, vai trò, tính đặc thù, lộ trình và bước đi của Việt nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Bộ Thương Mại (2004), Tài liệu bồi dưỡng Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc
tế, Bộ Thương Mại, Hà Nội. Tài liệu này được các giáo sư, tiến sỹ, các chuyên gia có nhiều
năm công tác về lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế trong và ngoài ngành biên soạn, biên tập.
Tài liệu tập trung làm rõ các vấn đề về sau : Toàn cầu hóa kinh tế; Nghị quyết 07 của Bộ
chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, Giới thiệu về các tổ chức kinh tế quốc tế; Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; Các biện pháp phi thuế quan trong thương mại quốc tế và
chiến lược xuất khẩu 2001-2020, một số mặt hàng xuất khẩu và thị trường chủ yếu.
1
Thomas L.Friedman (2010), Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, Hà Nội. Đây là một cuốn sách
nổi tiếng và là một trong những cuốn sách đầu tiên đề cập chi tiết đến khái niệm toàn cầu hóa
cũng như đề cập đến tình hình toàn cầu hóa hiện nay của thế giới, sự bành trướng của Mỹ và
sự lớn mạnh của các công ty xuyên quốc gia, cũng như những nhận định, dự báo trong tương
lại của thế giới.
Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn hội nhập những năm gần
đây, chưa có đề tài nào cập nhật đầy đủ và sâu rộng, chưa có một công trình nào nghiên cứu
đầy đủ, có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của
một số nước Châu Á – Thái Bình Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: chuyên đề được tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích phân tích
kinh nghiệm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của một số nước châu Á – Thái Bình
Dương, từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam trong tình hình hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được những mục tiêu đề ra, chuyên đề cần phải làm rõ
bốn vấn đề:
- Khái quát lý thuyết chung hội nhập kinh tế quốc tế
- Tìm hiểu các xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế trong thời đại ngày nay.
- Dựa trên phân tích kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của một số nước châu Á
– Thái Bình Dương.
- Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đối với chuyên đề này, đối tượng nghiên cứu các chính sách

thương mại và đầu tư cũng như quá trình tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu
vực của một số nước châu Á – Thái Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu: Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của một số nước châu Á –
Thái Bình Dương là một vấn đề rất rộng lớn. Ở đây, chuyên đề khoa học chỉ tập trung nghiên
cứu kinh nghiệm hội nhập kinh tế của ba nước là Nhật Bản, Trung Quốc và Thái Lan từ khi
các nước bắt đầu hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới cho đến nay, với Nhật Bản là từ
những năm 50, Trung Quốc là những năm 80 và Thái Lan từ những năm. Đây là ba nền kinh
tế tiêu biểu của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, có những đóng góp vô cùng quan trọng
và to lớn đối với sự phát triển thần kì của khu vực này trong những thập kỉ gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề được sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu gồm: phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp để phân
2
tích làm rõ kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của ba nền kinh tế trên. Ngoài ra, chuyên
đề sử dụng phương pháp thống kê học để xử lý số liệu.
6. Dự kiến đóng góp của chuyên đề
Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế. Thông
qua nghiên cứu chính sách kinh tế và quá trình tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế của
các nước Châu Á – Thái Bình Dương, đề tài phân tích làm rõ kinh nghiệm hội nhập kinh tế
quốc tế của các quốc gia này. Từ đó đưa ra các cơ hội, thách thức và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu làm 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của một số nước Châu Á – Thái
Bình Dương
Chương 3: Bài học Kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế
,
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC

TẾ
1.1. Hội nhập kinh tế - khái niệm và bản chất.
1.1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây.
Nhưng cho đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có
3
loại ý kiến cho rằng: Hội nhập kinh tế là tiến trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới, tức là
xóa bỏ những khác biệt về kinh tế giữa các quốc gia và khu vực. Theo đó, các quốc gia, khu
vực tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa
phương và toàn cầu. Loại ý kiến khác cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ
dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất
giữa các nước.
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ
biến và được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau : Hội nhập kinh tế quốc tế là quá
trình liên kết có mục tiêu, định hướng cụ thể gắn với phạm vi, cấp độ cũng như điều kiện cụ
thể của mỗi nước. Mỗi nước, do điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù sẽ có lộ trình, bước đi và
các giải pháp hội nhập rất khác nhau.
1.1.2. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia xuất hiện khi lực lượng sản xuất và phân công lao
động đã phát triển đến một trình độ nhất định. Ban đầu chỉ là những hình thức buôn bán song
phương, sau đó mở rộng, phát triển dưới dạng liên kết sản xuất kinh doanh. Trong thời đại
ngày nay, lực lượng sản xuất và công nghệ thông tin đã và đang phát triển với một tốc độ
nhanh chóng chưa từng thấy. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra khả năng tổ chức lại
thị trường trong phạm vi toàn cầu. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ phụ thuộc
nhau hơn, cần sự bổ trợ cho nhau, đặc biệt là các mối quan hệ về kinh tế thương mại cũng
như đầu tư và các mối quan hệ khác như môi trường, dân số…Chính đây là những căn cứ
thực tế để đi tới cái đích cuối cùng của quá trình toàn cầu hoá hướng tới đó là một nền kinh
tế toàn cầu thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế ấy.
Mỗi quốc gia dù ở trình độ phát triển đến đâu cũng tìm thấy lợi ích cho mình khi tham
gia hôị nhập kinh tế quốc tế. Đối với các nước phát triển họ có thể đẩy mạnh hoạt động

thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ ra nước ngoài, mở rông quy mô sản xuất, tận
dụng và khai thác được các nguồn lực từ bên ngoài như tài nguyên, lao động và thị trường…
cũng như gia tăng các ảnh hưởng kinh tế và chính trị của mình trên trường quốc tế. Còn đối
với các nước đang phát triển, lợi ích ở đây là mở rộng thị trường cho hàng hoá xuất khẩu,
tiếp nhận vốn, tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó
sẽ tạo ra công ăn việc làm, đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được trình độ và kinh
nghiệm quản lý Đây chính là lý do đầu tiên mà một quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Thêm vào đó, trong mấy thập kỷ gần đây, công nghệ thông tin và vận tải đã có những
tiến bộ vượt bậc, đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và giảm chi phí liên
4
lạc viễn thông xuống tới vài trăm lần. Chính công nghệ toàn cầu này là cơ sở quan trọng đặt
nền móng cho sự đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá. Nhờ có công nghệ toàn cầu hoá phát
triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh doanh có thể mở rộng từ sản xuất đến
phân phối trên phạm vi toàn cầu, những quan hệ này tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát
triển. .
Cuối cùng, những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc
và càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Ngoài các căn cứ trên đây
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá phát triển còn có thể có những căn cứ khác như: chiến tranh
lạnh chấm dứt vào đầu thập kỷ 90 đã kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, tạo ra một thời
kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển mới
1.1.3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế.
Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được xem xét ở một số mặt sau đây:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế tế quốc gia với nhau và với nền kinh tế thế giới. Nó vừa là quá trình hộp tác cùng
phát triển, vừa là quán trình đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang
phát triển để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lí
của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về
thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế; Hội nhập kinh tế quốc
tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuát kinh doanh,

mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao cạnh tranh trên thương
trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng
đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với mỗi nước trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế
kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tạo dựng các nhân tố và điều kiện mới cho sự
phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng
cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và
ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm
quản lý.
5
1.2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.1. Xuất nhập khẩu.
Trong những năm gần đây, các hoạt động ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu của thế
giới liên tục tăng trưởng với tốc đọ ngày càng nhanh, quy mộ ngày càng lớn. Sự tăng trưởng
đó có đặc điểm là luôn cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của sản xuất thế giới dù nền kinh tế
thế giới nói chung và thương mại quốc tế nói riêng đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong
quá trình phát triển kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Trên thực tế, các nước sử
dụng nhiều biện pháp trực tiếp nhằm ở rộng xuất khẩu hàng hóa, chiếm lĩnh thị trường nước
ngoài như tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu hoặc bán phá giá hàng hóa, bán phá giá hối
đoái, hoàn thuế hàng xuất khẩu…Đồng thời, các nước cũng sử dụng nhiều biện pháp hạn chế
nhập khẩu bằng cách sử dụng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan (như quotas, giấy
phép nhập khẩu, quy định về mặt vệ sinh thú y hoặc vệ sinh thực phẩm…) nhằm ngăn hàng
từ nước ngoài, bảo vệ nền sản xuất trong nước. Các tổ chức kinh tế quốc tế hiện nay đều có
xu hướng thỏa thuận giảm bớt và dỡ bỏ các biện pháp hạn chế này, tạo thuận lợi tối đa cho
sự trao đổi tự do hàng hóa, dịch vụ trên thị trường thế giới.
Trong sự tăng trưởng chung của thương mại quốc tế, giá trị thương mại của các nước
đang phát triển, đặc biệt là các nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng tăng
lên. Với chiến lược nhập thay thế nhập khẩu và sau đó là chiến lược công nghiệp hóa hướng

về xuất khẩu, một số nền kinh tế Châu Á đã trở thành các nước công nghiệp mới, cất cánh
thành những con rồng Châu Á trong khoảng thời gian lịch sử ngắn hơn nhiều so với các
nước công nghiệp phát triển. Điều đó cho thấy lợi ích của việc tham gia vào thương mại
quốc tế là hết sức lớn lao và hoàn toàn hiện thực.
1.2.2. Đầu tư.
Đầu tư quốc tế là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế hóa
đời sống kinh tế hiện nay, tuy rằng trên thực tế, sự hợp tác này không đơn giản mà trái lại
luôn chứa đựng sự cạnh tranh gay gắt.
Đầu tư quốc tế mang lại lợi ích to lớn cho các đối tượng tham gia. Đối với các nước
chủ đầu tư mà phần lớn là các nước công nghiệp phát triển, lợi ích thu được là : Sử dụng
được lợi thế của nơi tiếp nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như tỷ suất lợi
nhuận của vốn đầu tư; Khắc phục tình trạng lão hóa sản phẩm bằng cách di chuyển một bộ
phận sản xuất công nghiệp sang các nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài chu
kỳ sống của sản phẩm; Xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải
6
chăng. Đối với các nước nhận đầu tư, đầu tư nước ngoài cũng thể hiện được vai trò to lớn
trong việc giải quyết vấn đề thiếu vốn ở các nước ngày, giải quyết một phần đáng kể tình
trạng thất nghiệp thông qua việc tạo ra các xí nghiệp mới hoặc làm tăng quy mô của các đơn
vị kinh tế, giúp nước nhận đầu tư tiếp thu công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý
và góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đưa nền kinh tế tham gia
phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ.
1.2.3. Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế.
Dưới sức ép của cạnh tranh, toàn cầu hóa và sự bành trướng của các công ty đa quốc
gia như hiện nay, các quốc gia có xu hướng tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế
giới. Tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực nhằm tận dụng những lợi thế của nhau, dành
cho nhau những ưu đãi về thuế quan và mậu dịch, đồng thời phát huy sức mạnh tập thể để
cạnh tranh với các nước ngoài khối. Song song với việc tham gia và các tổ chức kinh tế khu
vực, các quốc gia đồng thời tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế toàn cầu nhằm tạo điều
kiện cho tự do hóa thương mại và đầu tư, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ
hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

Bảng 1.1 Một số tổ chức kinh tế khu vực và thế giới
STT Tên Số thành viên Thường trực Thành lập
1 Khu vực kinh tế Châu Âu
(EEA)
16 nước Brucxen -Thụy Điển 01/01/1994
2 Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN)
10 nước Jarkacta - Indonexia 08/08/1967
3 Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á – Thái Bình
Dương (APEC)
21 nước Không có trụ sở 11/1989
4 Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA)
10 nước Không có trụ sở 01/01/1993
5 Khu vực mậu dịch tự do
Bắc Mỹ (NAFTA)
3 nước Mêhicô City 17/12/1992
6 Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) 188 nước Washington,DC- Mỹ 27/12/1945
7 Tổ chức thương mại thế
giới(WTO)
159 nước Giơnevơ – Thụy Sĩ 01/01/1995
Nguồn: Wikipedia.org
7
1.3. Đặc trưng và chiều hướng mới của hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3.1. Xét trên góc độ đơn phương.
Từ nhận thức các yêu cầu của toàn cầu hóa và những thay đổi của bối cảnh quốc tế/
khu vực, các quốc gia đã và đang đẩy mạnh các nỗ lực cải cách và chuyển đổi nền kinh tế
theo kinh tế thị trường tự do hóa, cam kết mở cửa thị trường bằng cách chủ động điều chỉnh
hệ thống môi trường pháp luật và thể chế, cải cách cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh

tranh quốc gia để huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài vì
mục tiêu phát triển của mình. Những cải cách này là tự thân, lấy khuôn chung là các tiêu chí
phát triển quốc tế làm định chuẩn chứ hoàn toàn chưa phải là tuân theo các cam kết cụ thể
vào định chế/ tổ chức quốc tế/ khu vực mà họ chưa có điều kiện tham gia. Có thể nói, hội
nhập đơn phương là quá trình cải thiện liên tục bởi lẽ phạm vi, gia tốc và tần suất… của toàn
cầu hóa kinh tế diễn ra nhanh, mạnh và rộng khắp với nhiều biến động mới, khó lường trước.
Đây là những tiền đề quan trọng để cac quốc gia hội nhập sâu hơn trên các cấp độ khác.
1.3.2. Ở cấp độ song phương
Hầu hết các nước đã và đang đàm phán, ký kết với nhau các hiệp định song phương,
đặc biệt là các hiệp định thương mại song phương – một xu hướng nổi bật nhất trong những
năm gần đây. Kể từ năm 1995, tức là kể từ sau khi GATT chuyển thành WTO, đến nay đã có
trên 300 FTA dưới nhiều hình thức khác nhau được ký kết và tính chung đến cuối năm 2008,
các FTA song phương và khu vực đã chiếm tới gần 50% trao đổi thương mại quốc tế. Hiện
nay, các FTA song phương và khu vực đã diễn ra phổ biến và rộng khắp ở hầu hết các khu
vực trên thế giới, nổi bật và rầm rộ nhất là ở Đông và Đông Nam Á. Các nước lớn và các
nước phát triển đều triển khai FTA với khu vực này – một khu vực phát triển năng động,
thường đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trên 6% liên tục trong nhiều năm gần đây. Mức cam
kết song phương tuy dễ dàng thông qua (vì chỉ đàm phán tay đôi) song các yêu cầu đặt ra lại
rất cao, thúc đẩy mở cửa thị trường sớm và cam kết tự do hóa toàn diện hơn. Dĩ nhiên, mọi
sự đàm phán đều phải đảm bảo lợi ích hài hòa từ hai bên song trên thực tế, các nước phát
triển hơn và có độ mở cửa thị trường lớn hơn thì dường như được hưởng lợi nhiều hơn. Đó là
chưa kể đôi lúc, các nước phát triển, nhờ lợi thế của mình có thể áp đặt một số điều kiện bất
lợi cho nước đối tác là các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển.
Tuy nhiên, trên thực tế, có thể thấy rõ rằng: FTA song phương thường có lợi cho
những nền kinh tế có độ mở cửa cao (Singapore, Chilê ); FTA song phương chỉ được ký kết
giữa các nước đã là thành viên của WTO; và FTA song phương dù có làm giảm một số nỗ
8
lực đa phương song không thể loại trừ các tiến trình đa phương, trái lại nó làm thuận lợi hóa
quá trình nội lại các vòng đa phương.
1.3.3. Ở cấp độ đa phương.

Một số hoặc nhiều nước cùng nhau đẩy mạnh việc thành lập hoặc tham gia vào những
định chế/ tổ chức khu vực và toàn cầu. Các định chế này có thể hình thành từ các nước trong
cùng một khu vực địa lý (EU, NAFTA, AFTA ); hoặc đó là định chế toàn cầu với hầu hết
các nước trên thế giới (WTO với 159 thành viên hiện nay).
Về các định chế đa phương khu vực : Như đã nói ở trên, đó có thể là các khu vực mậu
dịch tự do (AFTA, NAFTA) hoặc một liên minh kinh tế tiền tệ như EU hoặc đôi khi chỉ là
những thỏa thuận thương mại ưu đã giữa một số nước với nhau Sự phong phú về hình thức
và mức độ hội nhập cho thấy đặc điểm kinh tế - xã hội ở mỗi khu vực là nhân tố hàng đầu
quy định tính đặc thù hội nhập của các định chế. Ví dụ, ASEAN thành công nhờ nguyên tắc
“đồng thuận” và “không can thiệp” trong khi EU, nhờ tính tương đồng nhiều mặt về kinh tế -
xã hội, trong đó nguyên tắc “đa số quyết định” và “tính pháp lý cao” là nền tảng liên kết của
nó.
Về các định chế đa phương toàn cầu, xu hướng nổi trội là sự cải tổ và cấu trúc lại các
thể chế hiện có trên một số lĩnh vực (như về tài chính ngân hàng là đối với WB, IMF ; về
thương mại là sự tiếp tục nối lại vòng đàm phán Doha trong khuôn khổ WTO và cải tổ hoạt
động của UNCTAD ). Các thể chế này có mối quan hệ gắn kết với nhau, bổ sung lẫn nhau
khi các vấn đề phát triển kinh tế đã xoắn bện chặt chẽ với các vấn đề chính trị - xã hội. Trong
số các thể chế này, sự hội nhập vào WTO là mục tiêu và là khuôn khổ phát triển chung của
mỗi quốc gia nhằm thích ứng hiệu quả nhất đối với tiến trình tự do hóa thương mại.
9
Chương 2: KINH NGHIỆM HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG
2.1 Kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản
2.1.1 Quan niệm hội nhập của Nhật Bản
Thời kỳ Tokugawa, Nhật Bản là một quốc gia biệt lập với thế giới bên ngoài. Cuộc
Duy Tân Minh Trị năm 1968 đã giúp nước này chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp,
phong kiến lạc hậu và khép kín hàng ngàn năm sang một nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Tạo ra nhiều cơ hội tiếp cận với các thành tựu khoa học kỹ thuật và phương thức sản
xuất mới, góp phần tạo nên sự cất cánh lần thứ nhất của Nhật Bản. Song theo nhiều phân tích
đánh giá, tuy Nhật Bản có mở cửa, học tập các quốc gia phương Tây, nhưng bản thân Nhật

Bản vẫn là một quốc gia có nền kinh tế đóng, sự thâm nhập của nước ngoài vào Nhật Bản
còn rất khó khăn và còn nhiều hạn chế. Chỉ sau năm 1945, ngay sau khi Nhật Bản bị bại trận
trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và phải đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện. Trong
giai đoạn này, Nhật Bản chuyển từ nền kinh tế quân sự hoá sang một nền kinh tế thị trường
và mở cửa dần với bên ngoài, đây là thời điểm Nhật Bản bước vào con đường quốc tế hóa
thực sự.
Tuy nhiên ở Nhật có rất nhiều quan điểm khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có
quan điểm cho rằng chưa nên hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế như GATT (sau này
là WTO), IMF… mà phải cần có thời gian để gia tăng sức mạnh của nền kinh tế. Ngược lại,
có quan điểm cho rằng phải tranh thủ hội nhập, mở cửa thị trường để nhanh chóng tiếp cận
các cơ hội phát triển.
Trên cơ sở bối cảnh quốc tế và nhu cầu mởi cửa, chính phủ Nhật đã đưa ra một
chiến lược chủ động hội nhập từ từ, không hội nhập hoàn toàn ngay lập tức vào nền kinh tế
thế giới và khu vực. Nhật đã kết hợp khéo léo chủ nghĩa bảo hộ và cạnh tranh đối ngoại ở
mức độ thích hợp. Mục đích thực thi chiến lược hội nhập này nhằm: trước hết là gia nhập các
tổ chức quốc tế, nhất là các tổ chức kinh tế quốc tế. Bởi đây là cơ hội cho Nhật Bản thâm
nhập thị trường, cạnh tranh bình đẳng với các quốc gia khác.
Với chiến lược hội nhập từ từ, có tính toán, Nhật Bản thực hiện nghiệm ngặt nguyên
tác kết hợp bảo hội với mở cửa cạnh tranh đối ngoại. Nguyên tắc này được thể hiện cụ thể
như sau:
10
Khi thực hiện tự do hóa, Nhật Bản có tính toán chọn lọc, chỉ mở cửa các lĩnh vực,
ngành có khả năng cạnh tranh, ngành có đủ khả năng cạnh tranh, những lĩnh vực ít chịu áp
lực xã hội. Chính sách hạn ngạch nhập khẩu là công cụ chính để điều tiết quá trình này.
Nguyên tắc ưu tiên nhập khẩu để phát triển sản xuất xuất khẩu hoặc phát triển các ngành gắn
liền thúc đẩy xuất khẩu thu ngoại tệ luôn được nhấn manh.
Nhật kiểm soát chặt chẽ thị trường công nghệ, nhập khẩu công nghệ phải đảm bảo
nguyên tắc không kìm hãm sự phát triển công nghệ trong nước, không làm phá vỡ cơ cấu
ngành kinh tế, không làm tổn hại các công ty nhỏ.
Đối với việc mở cửa thị trường vốn, nguyên tắc cũng được định ra rất rõ ràng trong

“Luật đầu tư nước ngoài”. Đầu tư nước ngoài chỉ được chấp nhận nếu như góp phần cải thiện
cán cân thu chi quốc tế một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, phải có lợi cho phát triển các ngành
nghề quan trọng hoặc thúc đẩy các ngành phục vụ cho lợi ích công cộng, không được tác
động xấu tới tiến trình tái thiết nền kinh tế Nhật Bản.
Mở cửa hội nhập nhưng phải đảm bảo sự phát triển độc lập, không bị khống chế, kiểm
soát bởi các công ty nước ngoài. Để đảm bảo nguyên tắc này, nhà nước can thiệp vào quá
trình hợp tác liên kết kinh doanh của các doanh nghiệp qua các quy định cụ thể về lĩnh vực
và mức độ cho phép sự hiện diện của nước ngoài với lịch trình và thời gian rõ ràng.
2.1.2 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản nhằm xây dựng, phát triển nền kinh tế bị tàn
phá sau chiến tranh thế giới thứ hai cho đến nay và có thể chia thành hai thời kỳ. Thời kỳ đầu
gắn liền với giai đoạn tăng trưởng nhanh và ổn định. Trong thời kỳ này, Nhật Bản tham gia
các tổ chức kinh tế quốc tế và hoàn thành tiến trình tự do hóa thương mại và đầu tư. Thời kỳ
thức hai từ giữa những năm 80 đến nay là đẩy mạnh quá trình hội nhập, cắt giảm quy chế
trên thị trường nội địa, tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, ký kết các hiệp định thương
mại, đầu tư song phương, nhằm hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Trong thời kỳ đầu, Nhật Bản đã từng bước hoàn thành tiến trình tự doa hóa thương
mại và đầu tư. Tính đến năm 1972 Nhật Bản đạt mức tự do hóa thương mại là 95%. Cùng
với sự phát triển mạnh của sản xuất, khi đã nâng cao năng lực cạnh tranh và trở thành một
đối tác ngang ngửa với các quốc gia phát triển khác, Nhật Bản chủ động đẩy mạnh giảm thuế
nhập khẩu. Vào năm 1975, Nhật Bản là quốc gia có biểu thuế nhập khẩu vào hàng thấp nhất
trong số các quốc gia phát triển thuộc GATT.
11
Cùng với tự do hóa thương mại, Nhật Bản đã đề ra chiến lược từng bước tự do hóa
đầu tư, và trên thực tế, tự do hóa đầu tư đã được thực hiện chậm hơn. Nhật Bản xây dựng
chương trình tự do hóa theo 5 giai đoạn, và trong mỗi giai đoạn, Nhật Bản lựa chọn những
ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh để cho phép nước ngoài
tham gia. Trong đợt tự do hóa đầu tiên năm 1967, Chính phủ đã xác định danh sách 33 ngành
cho phép nước ngoài tham gia sở hữu tới 50% và 12 ngành tham gia tới 100%. Trong lần thứ
hai (3/1969) và thứ ba (9/1970) các ngành cho phép nước ngoài được kinh doanh đã tăng lên.

Đến lần thứ tư (8/1971) đã có tới 228 ngành tự do hóa 100%. Trong lần tự do hóa thứ 5
(9/1973) về nguyên tắc, hầu hết các ngành được tự do hóa với mức sở hữu cho phép 100%,
chỉ trừ có 5 ngành. Các ngành còn lại này cũng dần dần được tự do hóa trong những năm
tiếp theo.
So với việc mở cửa thị trường nội địa thì việc bành trướng xâm nhập của Nhật Bản
vào nền kinh tế thế giới với tốc độ mạnh hơn nhiều. Nhờ có sự ủng hội của Mỹ, nên Nhật
Bản đã có cơ hội gia nhập các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế, như:
1952 – Gia nhập vào các tổ chức tài chính, tiền tệ thế giới là WB và IMF.
1955 – Tham gia GATT, Nhật đã hoãn thực thi điều 11 của GATT cho phép Nhật hạn
chế nhập khẩu. Đồng thời Nhật tích cự áp dụng biệp pháp thuế quan để điều tiết hoạt động
xuất, nhập khẩu.
1964 – Nhật Bản gia nhập tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
1966 – Nhật Bản tham gia sáng lập Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế tạo cho Nhật cơ hội bình đẳng trong cạnh tranh
quốc tế. Nhật Bản không ngừng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào thị trường thế giới. Năm
1955, thị phần của Nhật trong xuất khẩu thế giới chỉ có 2,4 %, năm 1960 tăng lên 3,8%, và
năm 1970 tăng lên 6,9%. Sự tăng mạnh về xuất khẩu, nhất là sau năm 1960 đã giúp cho
thặng dư cán cân thanh toán của Nhật đã tăng lên. Về tốc độ gia tăng trong 10 năm (1965-
1972) xuất khẩu của Nhật tăng tới 45%, vào loại cao nhất thế giới. Cũng tương tự như vậy,
từ nửa sau những năm 60, mức đầu tư ra nước ngoài của Nhật cũng không ngừng tăng cao.
Suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh, cho đến giữa những năm 80, về nguyên tắc, Nhật
Bản đã hoàn thành tự do hóa thương mại và đầu tư, chỉ còn 27 mặt hàng, chủ yếu là nông sản
chưa được tự do hóa. Tuy vậy, trên thực tế, thị trường nội địa vẫn bị phê phán là có tính chất
khép kín làm các doanh nghiệp nước ngoài khó xâm nhập, khó hòa đồng. “Nhật Bản vẫn
chưa chịu chơi một sân chơi chung” như của các nền kinh tế khác. Và do vậy nền kinh tế
Nhật Bản vẫn chưa được quốc tế hóa đầy đủ. Chẳng hạn, cho đến tận cuối những năm 90,
trước tình trạng khép kín và bài ngoài của thị trường Nhật Bản, các công ty và lao động nước
12
ngoài không những khó bán hàng vào thị trường Nhật mà còn rất khó đầu tư hoặc vào làm
việc ở Nhật Bản. Riêng lĩnh vực đầu tư, người ta tính rằng, Nhật Bản cứ đầu tư trực tiếp 18

USD ra nước ngoài thì mới tiếp nhận 1 USD FDI từ nước ngoài. Sự khép kín của thị trường
Nhật Bản như vậy đã khiến cho các nhân tố nước ngoài rất khó thâm nhập vào thị trường, và
hậu quả là tính cạnh tranh, cởi mở, đổi mới và năng động, được coi là điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của nền kinh tế tri thức Nhật Bản, bị hạn chế. Nước này đứng trước sức ép lớn
phải cải cách hệ thống chính sách, xóa bỏ các quy chế, lành mạnh hóa thị trường tự do kinh
doanh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước
Trong giai đoạn này, Nhật Bản đã hình thành bốn Hội đồng xúc tiến cải cách. Khuyến
nghị của các Hội đồng này bao gồm những vấn đề về bãi bỏ các quy định, thực hiện tư nhân
hóa, phân quyền và cải cách cơ cấu cùng cơ chế quản lý. Đáng chú ý là Hội đồng xúc tiến
lần thứ ba (1990-1993) đã tập trung bãi bỏ các quy định nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập
quốc tế hóa của Nhật Bản, thông qua chương trình cải cách trong 6 lĩnh vực cơ bản nhằm
khắc phục những hạn chế bất cập của mô hình Nhật Bản cho phù hợp với nhu cầu phát triển
mới của đất nước trong bối cảnh gia tăng hội nhập khu vực và quốc tế. Đó là cải cách hành
chính, cơ cấu kinh tế, cơ cấu tiền tệ, ngân sách, phúc lợi và giáo dục.
Trong chương trình cải cách bãi bỏ các quy định năm 1998-2000, Nhật đã xóa bỏ 624
mục quy định trong 15 lĩnh vực như: chính sách cạnh tranh, qui phạm tiêu chuẩn nhập khẩu
thông tin viễn thông, việc làm và lao động… Trong chương trình cải cách của cựu thủ tướng
Koizumi đã đề xuất 7 lĩnh vực, trong đó có việc đẩy mạnh tư nhan hóa và cải cách cơ cấu.
Cụ thể sẽ tư nhân hóa ba lĩnh vực kinh doanh trước đây luôn có sự bảo trợ cao của nhà nước
là: bưu chính, tiết kiệm và bảo hiểm nhân thọ; hợp nhất ngành truyền thanh với thông tin
viễn thông; thực hiện tự do hóa các lĩnh vực ý tế, phúc lợi xã hội, chăm sóc người già và giáo
dục.
Về tài chính- tiền tệ, vào tháng 4/1997, Nhật Bản đã sửa đổi luật ngoại hối cho phép
tự do hóa hoàn toàn các giao dịch liên quan. Trong các năm 1998-2000, Nhật bản đã thông
qua các quy định cho phép các pháp nhân tài chính được thực hiện kinh doanh chéo, mở ra
cơ hội kinh doanh và nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Cùng với mở cửa thị trường, chiến lược hội nhập quốc tế của Nhật Bản trong giai
đoạn hiện nay đang tập trung vào tạo lập các quan hệ hợp tác kinh tế khu vực.
11/1989 – Nhật Bản tham gia sáng lập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC)

1/1/1995 – Nhật Bản gia nhập WTO – (Sau khi tham gia vào hiệp định chung về thuế
quan và thương mại)
13
3/1996 – Nhật Bản tham gia với tư cách là thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh
tế Á- Âu (ASEM).
Nhật Bản còn đẩy mạnh “chiến lược FTA đa chiều”, đàm phán và ký kết hiệp định
đối tác kinh tế (EPA) và hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác thương mại chủ
chốt cũng như với các nền kinh tế mới nổi có tiềm năng. Đồng thời Nhật Bản cũng xúc tiến
việc ký kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
Hơn một thập kỷ trôi qua kể từ khi Nhật Bản ký kết hiệp định thương mại đầu tiên với
Singapore, đến nay Nhật Bản đã ký kết FTA/ EPA với 13 quốc gia, khu vực, bao gồm:
1/2002 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Singgapo (JSEPA) và
chính thức có hiệu lực từ tháng 11 năm 2003
9/2004 – Ký kết Hiệp định thương mại tự do giữa Nhật Bản và Mexico (JMFTA) và
chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2005
12/2005 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Malaysia (JMEPA)
9/2006 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Philippin (JPEPA)
11/2006 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Chile (JCEPA)
4/2007 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Thái Lan (JTEPA)
6/2007 - Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Brunei (BJEPA)
8/2007 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Indonesia (JIEPA)
4/2008 – Hoàn thành ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Nhật Bản và Asean
(AJCEP)
12/2008 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Việt Nam (VJEPA)
2/2009 – Ký kết Hiệp định tự do thương mại và hợp tác kinh tế giữa Nhật Bản và
Thụy Sỹ (JSFTEPA)
2/2011 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế doàn diện giữa Nhật Bản và Ấn Độ
(IJCEPA)
5/2011 – Ký kết Hiệp định đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và Peru.
Ngoài 13 Hiệp định FTA/ EPA đã được ký kết trên thì Nhật Bản đang tiến hành đàm

phán Hiệp định hợp tác với các nước, khu vực : Hàn Quốc, Úc, GCC, Canada, Mông Cổ,
Columbia, EU. Ngoài ra Nhật Bản cũng đang tiến hành đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế
Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực
(RCEP)
Thông qua việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế và ký kết các hiệp định thương
mại song phương, kinh tế Nhật Bản đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Thể hiện ở sự
14
tăng trưởng GDP và xuất nhập khẩu. Riêng trong năm 2012 GDP của Nhật Bản đạt tới 5,960
tỷ USD, chiếm 9,61% nền kinh tế thế giới.
Hình 2.1: GDP của Nhật Bản từ 2004 – 2012
Nguồn: Tradingeconomics.com
Xuất khẩu Nhật Bản trong những năm qua cũng không ngừng tăng lên, từ 108 tỷ JPY
trong năm 1963, lên đến 7681 tỷ JPY trong năm 2008. Trong những năm gần đây xuất khẩu
có sự sụt giảm do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thảm họa động đất, sóng
thần trong năm 2011, tuy nhiên xuất khẩu đang có xu hướng tăng trở lại trong những năm
2012, 2013
Hình 2.2: Xuất khẩu của Nhật Bản từ 2000 đến 2012
Nguồn: Tradingeconomics.com
15
2.1.3 Những giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản
Nhật Bản đã thực hiện điều chỉnh cơ cấu ngành nghề theo hướng phát huy lợi thế so
sánh gia tăng năng lực cạnh tranh. Sau thời kỳ hồi phục kinh tế, Nhật đã ban hành “chính
sách lý hóa công nghiệp” nhằm điều chỉnh kết cấu ngành nghề. Thời kỳ này, các ngành công
nghiệp nặng và hóa chất được chú trọng phát triển. Bởi lẽ đây là những ngành góp phần làm
thay đổi cơ bản diện mạo kinh tế Nhật trong quá trình công nghiệp hóa. Sang thời kỳ khủng
hoảng dầu mỏ, lợi thế cạnh tranh ngành nghề có sự thay đổi do sự biến đổi của môi trường
kinh doanh quốc tế, Nhật đã thực hiện điều chỉnh kết cấu ngành nghề theo hướng chú trọng
các ngành sử dụng nhiều hàm lượng chất xám, ít ô nhiễm và làm sạch môi trường. Đó là các
ngành công nghệ cao, ngành lắp ráp tiên tiến, thiết kế thời trang và ngành phân phối xử lý
thông tin. Trong giai đoạn từ những năm 90 đến nay, sự phát triển mạnh của công nghệ

thông tin, công nghệ sinh học và vật liệu mới đã làm cho quá trình toàn cầu hóa kinh tế gia
tăng mạnh mẽ, lôi cuốn các quốc gia vào mạng lưới kinh doanh có tính khu vực và toàn cầu.
Không nằm ngoài xu hướng chung đó, Nhật đã điều chỉnh cơ cấu kinh tế tập trung vào các
ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và các ngành dịchj vụ, qua đó đẩy mạnh hội
nhập vào kinh tế khu vực và thế giới.
Nhật Bản đã tiến hành cải cách về thể chế. Để hội nhập tốt việc cải cách thể chế có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Các quy định pháp lý liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh
của các ngành được ấn định ưu tiên trong từng thời kỳ phải tạo khuôn khổ thể chế tương
thích cho chúng phát triển. Ví dụ như từ những năm 90, một loạt chương trình, chính sách
kinh tế được thông qua hàng năm đã thúc đẩy hỗ trợ chuyển dịch kinh tế. Luật ngoại hối
4/1997, luật sửa đổi về các ngành công nghiệp vừa và nhỏ 3/2000, chương trình phát triển
công nghệ thông tin 2001-2005, rất có ý nghĩa trong hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng trí tuệ hóa và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
Thực hiện các giải pháp nhằm hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu. Nhật Bản đã sử dụng các
chính sách ưu tiên xuất khẩu qua thuế và lãi suất. Đáng chú ý là chinh sách “Khấu hao đặc
biệt dựa vào xuất khẩu”, chính sách này có từ năm 1961 đã đẩy mạnh xuất khẩu làm tăng
thặng dư thương mại (tuy nhiên vì mẫu thuẫn thương mại nên đến năm 1972, chính sách này
đã bị bãi bỏ). Từ những năm 90, những can thiệp trực tiếp của chính phủ đối với xuất khẩu
cũng được giảm bứt, chính phủ chú trọng tập trung cải cách cơ cấu bên trong với các chương
trình hỗ trợ lớn. Những can thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái, cho phép tự do hóa chuyển đổi
ngoại tệ… chính là những chính sách góp phần thúc đẩy xuất- nhập khẩu. Bên cạnh việc
thực hiện những chính sách này Nhật Bản còn tạo lập các tổ chức nâng cao sức mạnh công ty
16

×