Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

HÌNH THỨC MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP QUA BIÊN GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.93 KB, 44 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
***
BÀI TẬP NHÓM
HÌNH THỨC MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP
QUA BIÊN GIỚI
Học viên nhóm 1: Nguyễn Thùy Dương
Nguyễn Ngọc Long
Nguyễn Tuấn Sơn
Vũ Thanh Trà
Đàm Trường Vân
Đoàn Thị Vy
Lớp: Cao học KTQT – K22
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Kim Anh
Hà Nội, 6/2014
MỤC LỤC
2.1 Quy định về M&A của một số nước trên thế giới 19
2.1.1 Trung Quốc 19
2.1.2 Thái Lan 20
2.1.3 Malaysia 21
Trước khi hợp tác 39
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
1 FDI Vốn đầu tư trực tiếp
2 GI Đầu tư mới
3 IMAA Viện Mua lại, sáp nhập và liên minh
4 IMF Tổ chức tiền tệ thế giới
5 IPO Phát hành lần đầu ra công chúng
6 M&A Sáp nhập và Mua lại
7 TNHH Trách nhiệm hữu hạn


8 WB Ngân hàng thế giới
9 WTO Tổ chức thương mại thế giới
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Số hiệu Tên Trang
1 Biểu đồ 1
M&A toàn cầu phân theo ngành và giá trị
(1995 – 2013)
14
2 Biểu đồ 2
M&A toàn cầu phân theo ngành và số lượng
thương vụ (1995 – 2013)
15
3 Biểu đồ 3
Số lượng và giá trị các thương vụ M&A trên
toàn thế giới (1995 – 2013)
27
4 Bảng 1 Phân biệt M&A và GI 17
4
Chương 1: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Hình thức M&A hiện nay đang trở thành một hoạt động kinh tế sôi nổi, tiên tiến
được nhiều quốc gia áp dụng trên thế giới. Với những lợi ích mà M&A mang lại,
dường như nó đã trở thành một giải pháp giúp các doanh nghiệp giải quyết những vấn
đề khó khăn trong quá trình kinh doanh và phát triển. Xu hướng gia tăng cả về số
lượng và quy mô trung bình của các thương vụ giao dịch đã được duy trì trong một
khoảng thời gian dài. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp không chỉ còn dừng lại ở
việc cạnh tranh về sản phẩm và thị trường tiêu thụ mà còn cạnh tranh ở khả năng bành
trướng, mở rộng, thâu tóm hoặc sáp nhập với doanh nghiệp khác.
Nếu trước đây, M&A là hoạt động diễn ra mạnh mẽ ở các thị trường kinh tế lớn

ở Châu Âu hay Mỹ thì hiện nay làn sóng ấy đang diễn ra tại các nền kinh tế mới nổi
như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Âu, châu Á – Thái Bình Dương rất sôi động.
Trong M&A, khi các công ty tham gia đạt được những giá trị cộng hưởng và hoàn
thành mục tiêu đặt ra của mình, làm cho tổ chức mới hoạt động thống nhất, có hiệu
quả thì đó là sự thành công của một thương vụ M&A. Còn nếu như quá trình M&A
diễn ra nhưng không đem lại giá trị gì, làm cho các công ty rơi vào hoàn cảnh khó
khăn hơn hay hoạt động kém hiệu quả thì quá trình M&A đó đã thất bại.
Với sự đa dạng của M&A trong quá trình hình thành và phát triển, rất nhiều
chuyên gia nghiên cứu, rất nhiều diễn đàn ra đời để bàn luận về M&A. Nhưng có lẽ
mục tiêu cao nhất vẫn là xây dựng một khung pháp lý phù hợp để tạo điều kiện cho
những thương vụ M&A vượt qua những khó khăn, thách thức, đến với thành công.
Từ việc xác định được mục tiêu chung đó, nhóm 1 chọn vấn đề “Hình thức
M&A qua biên giới” với những nội dung chính liên quan đến khung khổ lý thuyết về
M&A qua biên giới, tìm hiểu và tổng hợp những điều kiện cần thiết để M&A thành
công và một số trường hợp M&A điển hình minh chứng cho thành công của M&A
trên thế giới.
II. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
2.1 Mục tiêu nghiên cứu:
Thứ nhất, cung cấp hệ thống khung khổ lý thuyết cơ bản về hoạt động M&A
bao gồm các khái niệm, phân loại, đặc điểm, vai trò của hình thức M&A qua biên giới,
phân biệt M&A và GI
5
Thứ hai, nghiên cứu sự phát triển của thị trường M&A trên thế giới qua các giai
đoạn, nghiên cứu các đặc điểm thị trường, môi trường pháp lý của hình thức M&A và
những điều hiện để hình thức M&A qua biên giới thành công
Thứ ba, tổng hợp, phân tích đánh giá một số thương vụ M&A qua biên giới
điển hình để làm rõ những thành công và thất bại của hình thức M&A qua biên giới
2.2 Câu hỏi nghiên cứu
Điều kiện để hình thức M&A qua biên giới thành công hay thất bại trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế?

III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bài tập nhóm tập trung nghiên cứu về hoạt động M&A
qua biên giới, những thương vụ thành công, những nguyên nhân của sự thất bại. Cụ
thể trong bài có sự phân tích các thương vụ M&A của công ty tiêu biểu và các dẫn
chứng cho những thành công hay thất bại điển hình. Các đánh giá và nhận định được
đưa ra dưới góc độ các doanh nghiệp nước ngoài có hoạt động M&A qua biên giới.
Phạm vi về thời gian: Hình thức M&A đã xuất hiện lần đầu tiên từ giai đoạn
năm 1895 đến 1905. Mỹ là nơi diễn ra các cuộc đại sáp nhập đầu tiên. Như vậy, bài
tập nhóm sẽ mang tính khái quát về hoạt động M&A trên thế giới từ năm 1895 đến
năm 2013.
Phạm vi về không gian: Hoạt động M&A diễn ra rất mạnh, đối tượng tham gia
các thương vụ có thể là giữa các Doanh nghiệp trong nước với nhau, giữa các Công ty
con của các doanh nghiệp nước ngoài tại một quốc gia, hay của Công ty nước ngoài và
công ty trong nước. Trong khuôn khổ bài tập nhóm này sẽ tập trung nghiên cứu những
thương vụ M&A qua biên giới.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện bài tập nhóm bao gồm:
- Nghiên cứu các tài liệu là các sách về M&A, các văn bản luật liên quan, các báo
cáo thường niên của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước có uy tín để tổng thuật
phần lý thuyết về các khái niệm, phân loại, đặc điểm, các chủ thể tham gia, các ngành
thường diễn ra hình thức M&A qua biên giới
- Phương pháp so sánh sử dụng để so sánh giữa M&A, giữa M&A và GI
- Phương pháp phân tích được vận dụng để chỉ ra những điều kiện để hình thức
M&A thành công
- Phương pháp thống kê số liệu từ các báo cáo và những trang web về kinh tế để
tổng hợp các bảng biểu về M&A theo ngành và giá trị thương vụ, theo ngành và số
lượng các trường hợp M&A điển hình.
6
V. Cấu trúc bài tập nhóm
Chương 1: Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu gồm lý do lựa chọn đề tài, mục tiêu,

câu hỏi nghiên cứu, đối tượng, phạm vi về không gian, thời gian nghiên cứu, phương
pháp nghiên cứu và cấu trúc của đề tài
Chương 2: Trình bày một số khái niệm liên quan đến M&A qua biên giới, phân biệt
M&A và GI. Bên cạnh đó, chương 2 nghiên cứu, tìm hiểu môi trường pháp lý của hình
thức M&A và đánh giá vai trò của M&A trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Tổng hợp, đánh giá một số điều kiện để hình thức M&A thành công và
giới thiệu trường hợp điển hình M&A
7
Chương 2: TỔNG THUẬT TÀI LIỆU
I. Khung khổ lý thuyết
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò về M&A
1.1.1 Khái niệm
*Mua lại (Acquisition)
Acquisition được hiểu như một hành động tiếp quản bằng cách mua lại một
công ty (gọi là công ty mục tiêu) bởi một công ty khác (Andrew. J và Milledge A.,
2009). Trước đây, để thực hiện một thương vụ mua lại, các công ty thường hợp tác
thương lượng với nhau, nhưng về sau này hình thức đã khác, và thương vụ mua lại có
thể diễn ra khi bên bị mua không sẵn lòng bán lại hoặc bên bị mua không biết về bên
mua.
Một thương vụ mua lại thường đề cập đến một công ty nhỏ bị mua lại bởi một
công ty lớn hơn, tuy nhiên đôi khi một công nhỏ hơn sẽ giành được quyền quản lý một
công ty lớn hơn hoặc là lâu đời hơn sau đó đổi tên công ty mới thành công ty đi mua.
Một trường hợp đặc biệt của mua lại đó là hình thức thâu tóm ngược – reverse
takeover (Andrew. J và Milledge A., 2009), đây là là hình thức một công ty tư nhân
tìm cách mua lại một công ty cổ phần đại chúng qua đó cũng sẽ trở thành một công ty
cổ phần đại chúng, mà không cần thực hiện quá trình IPO (Phát hành lần đầu tiên ra
công chúng). Quá trình mua lại có thể được thực hiện bằng hai phương thức sau:
- Mua lại cổ phiếu: người mua trong trường hợp này có quyền quản lý công ty
mục tiêu. Việc có được quyền sở hữu sẽ giúp người mua có quyền quản lý tài sản của
công ty, tuy nhiên hình thức này không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của

công ty nên người mua - tức người sở hữu công ty sẽ phải gánh chịu những khoản nợ
tích lũy trong quá khứ và tất cả những rủi ro mà công ty phải đối mặt trong quá trình
kinh doanh.
- Mua lại tài sản của công ty: số tiền công ty bị mua nhận từ việc bán lại sẽ được
trả lại cho cổ đông bằng cổ tức trong trường hợp bán một phần tài sản hoặc là một
khoản hoàn trả trong trường hợp bán toàn bộ công ty. Trong trường hợp này người
mua thường sắp đặt chỉ nhằm mua lại một số tài sản mà họ cần và loại bỏ đi những tài
sản hay những khoản nợ không cần thiết. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với người mua khi họ có thể dự báo được những phần tài sản nào mà khoản nợ của nó
sẽ phát sinh trong tương lai, hay là những khoản thiệt hại không xác định được có thể
xuất hiện như là việc kiện tụng, tranh chấp từ khuyết điểm của một dòng sản phẩm nào
8
đó, những khoản hoa hồng hay những hợp đồng lao động. Một nhược điểm của hình
thức mua bán này đó là việc nảy sinh nhiều trách nhiệm thuế, đặc biệt khi việc mua
bán được tiến hành ngoài lãnh thổ quốc gia, trong khi hình thức mua lại cổ phiếu
thường không chịu hoặc chịu mức thuế thấp hơn.
*Sáp nhập (Merger)
Merger - sáp nhập là sự kết hợp của hai công ty để trở thành một công ty lớn
hơn. Những giao dịch loại này thường là tự nguyện và hình thức thanh toán hoặc là
thông qua hoán đổi cổ phiếu (Andrew. J và Milledge A., 2009), tức là hoán đổi số
lượng cổ phần của công ty cũ sang số lượng cổ phần của công ty mới tương ứng với tỷ
lệ phần trăm góp vốn của các công ty vào công ty mới – tỷ lệ này xác định dựa trên sự
thỏa thuận lúc ký kết, hoặc là chi trả bằng tiền mặt.
Một thỏa thuận hợp nhất có thể giống với một thương vụ mua lại toàn bộ
(thường gọi là thâu tóm), tuy nhiên kết quả của nó là tạo ra tên công ty mới (thường là
tên kết hợp giữa tên ban đầu của hai công ty) và một thương hiệu mới. Tuy nhiên,
trong một vài trường hợp việc một hoạt động M&A sẽ được gọi là một thỏa thuận hợp
nhất, sáp nhập - Merger nhiều hơn là một thương vụ mua lại – Acquisition chỉ đơn
thuần nhằm mục đích chính trị hoặc chiến lược marketing. Những hình thức sáp nhập,
hợp nhất kiểu này thường liên quan đến hình thức thanh toán bằng tiền mặt, ngược lại

những hình thức sáp nhập, hợp nhất thuần túy lại áp dụng phương pháp hoán đổi cổ
phiếu khi đó các cổ đông của cả hai công ty đều có thể chia sẻ rủi ro, quyền lợi trong
công ty mới.
Một loại hình đặc trưng của sáp nhập đó là hợp nhất, sáp nhập ngược- reverse
merger. Hình thức này cũng giống như hình thức thâu tóm ngược – reverse takeover,
là hình thức mà một công ty tư nhân tìm cách mua lại một công ty cổ phần đại chúng,
qua đó cũng sẽ trở thành một công ty cổ phần đại chúng mà không cần thực hiện quá
trình IPO (Andrew. J và Milledge A., 2009).
1.1.2 Phân biệt Mua lại (Acquisition) và sáp nhập, hợp nhất (Merger)
Mặc dù có nhiều điểm tương đồng nhưng hai thuật ngữ Merger và Acquisition
vẫn có những điểm khác nhau có thể phân biệt được. Khi một công ty tiếp quản một
công ty khác và trở thành chủ sở hữu mới thì thương vụ đó gọi là một acquisition –
mua lại, công ty bị mua sẽ chấm dứt tồn tại, trong khi cổ phiếu của công ty mua vẫn
tiếp tục giao dịch bình thường. Trên thực tế không phải lúc nào một thương vụ mua lại
cũng sẽ làm chấm dứt sự tồn tài của công ty mục tiêu, trường hợp này chỉ xảy ra khi
công ty đi mua mua lại toàn bộ tài sản của công ty mục tiêu (được gọi là hình thức
buy-out), phần lớn những thương vụ mua lại là mua lại một phần tài sản hoặc vốn cổ
9
phần của công ty mục tiêu. Khi đó công ty mục tiêu vẫn hoạt động bình thường, chỉ có
điều phần tài sản bị mua sẽ thuộc về công ty đi mua. Trong trường hợp mua lại cổ
phần thì công ty đi mua sẽ trở thành một cổ đông của công ty mục tiêu.
Còn đối với Merger, theo nghĩa thuần túy thì một merger xảy ra khi hai công ty,
thường là cùng kích cỡ đồng ý để tiến tới trở thành một công ty duy nhất thay vì là hai
công ty độc lập. Loại hình này gọi là “Merger of equals”- hợp nhất, sáp nhập bình
đẳng (Andrew. J và Milledge A., 2009), cổ phiếu của hai công ty sẽ được thay thế
bằng cổ phiếu của công ty mới. Trong thực tế loại hình sáp nhập - Merger of equals
không diễn ra một cách thường xuyên. Thông thường thì một công ty sẽ tiến hành hợp
nhất với một công ty khác nhỏ hơn hoặc lớn hơn, sau đó sẽ chuyển toàn bộ cổ phiếu
của công ty nhỏ sang cổ phiếu của công ty lớn.
Đôi khi việc phân biệt Acquisition và Merger lại dựa trên thái độ hợp tác của hai

bên. Nếu cả hai công ty đều thể hiện tinh thần hợp tác, thân thiện thì hoạt động M&A
đó sẽ được công bố ra bên ngoài là Merger, ngược lại nếu thương vụ đó diễn ra trong
sự chống đối, thù địch và công ty mục tiêu không muốn thương vụ diễn ra thì nó sẽ
được gọi là một Acquisition. Ngoài ra, trong một số trường hợp, một hoạt động M&A
về bản chất là một Acquisition nhưng lại được công bố là Merger chỉ đơn thuần nhằm
những mục đích tiết kiệm chi phí giao dịch, marketing hoặc là mục đích chính trị nào
đó.
Tuy nhiên, trong thực tế sự phân biệt giữa Merger và Acquisition chi có ý nghĩa
quan trọng đối với các nhà làm luật, các chuyên viên thuế, các kế toán viên nhưng nó
lại ít quan trọng đối với các nhà kinh tế nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, bởi
lẽ người ta quan trọng bản chất của nó. Do đó họ thường không dùng cụm từ Merger
hay Acquisition một cách tách biệt mà thay vào đó là một cụm từ quen thuộc là M&A.
1.2 Đặc điểm của hoạt động M&A
M&A là hoạt động trong đó một công ty tìm cách giành quyền kiểm soát một
công ty khác qua việc nắm giữ một phần hoặc toàn bộ vốn, cổ phần hay tài sản của
một công ty mục tiêu. “Quyền kiểm soát” là quyền đủ để tham gia quyết định những
vấn đề quan trọng thông qua việc đạt mức sở hữu nhất định về vốn hay cổ phần của
doanh nghiệp, đây là yếu tố quan trọng để phân biệt M&A với các hoạt động thông
thường khác. Bản thân thị trường cho M&A cũng phân biệt với những thị trường các
sản phẩm và hoạt động kinh tế khác, sự khác biệt này thể hiện ở những đặc điểm sau:
- Hàng hóa của thị trường M&A là một loại tài sản đặc biệt, đó là những công ty,
doanh nghiệp, tập đoàn, tổ chức. Do đó nó là một tập hợp của nhiều loại tài sản khác
10
và có giá trị rất lớn. Hàng hóa có mức độ trao đổi mua bán không thường xuyên và
việc trao đổi mua bán tốn rất nhiều thời gian, công sức.
- Hoạt động của thị trường M&A bao quát tất cả các lĩnh vực, ngành nghề hoạt
động kinh doanh. Quy mô của thị trường M&A không bị giới hạn bởi khu vực, lãnh
thổ, vừa có thể hoạt động trong nước, vừa có thể hoạt động xuyên quốc gia.
Hoạt động M&A có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các lĩnh vực, ngành
nghề mà nó tham gia, thậm chí ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế một nước.

Chính vì vậy hoạt động M&A chịu sự chi phối và điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật,
đặc biệt là các quy định về chống độc quyền và chính sách bảo hộ của Chính phủ.
1.3 Các loại hình M&A
1.3.1 Phân loại dựa trên hình thức liên kết
- M&A theo chiều ngang: Mua lại theo chiều ngang là giao dịch mua lại giữa hai
doanh nghiệp kinh doanh và cạnh tranh trực tiếp về một dòng sản phẩm và dịch vụ
trên cùng một thị trường. Kết quả của giao dịch này có thể mang lại cho các bên tham
gia nhiều lợi ích như: mở rộng thị trường, giảm bớt đối thủ cạnh tranh, tận dụng nguồn
nhân lực, nguyên liệu, công nghệ có sẵn…
- M&A theo chiều dọc: Mua lại theo chiều dọc hay thâu tóm chuỗi giá trị là giao
dịch mua lại giữa một doanh nghiệp với một doanh nghiệp khác trong cùng một chuỗi
giá trị để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Những hoạt động trong chuỗi giá trị bao
gồm: thiết kế, sản xuất, marketing, phân phối và các dịch vụ cung cấp cho khách hàng
cuối cùng. Có hai dạng mua lại theo chiều dọc: Liên kết giữa nhà cung cấp với công ty
sản xuất (Backward) và liên kết giữa công ty sản xuất với nhà phân phối (Forward).
Việc mua lại các doanh nghiệp trong một chuỗi giá trị, đặc biệt là các doanh nghiệp có
thương hiệu và uy tín có thể giúp Bên Mua định vị được vị thế của mình trên thị
trường, tăng khả năng cạnh tranh và quảng bá hình ảnh đến khách hàng.
- M&A kết hợp: Mua lại kết hợp là giao dịch mua lại diễn ra giữa hai doanh
nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, các ngành nghề không liên
quan đến nhau. Ở phạm vi rộng hơn (M&A – M&A) thì giao dịch này còn có tên gọi
khác là “M&A hình thành tập đoàn”. Kiểu giao dịch này rất phổ biến ở thập niên 60
của thế kỷ 20 khi các luật chống độc quyền ngăn cản các doanh nghiệp có ý định sáp
nhập/mua lại theo chiều ngang hoặc theo chiều dọc bởi hình thức M&A hình thành tập
đoàn không ảnh hưởng đến mức độ tập trung của thị trường. Lợi ích của hoạt động này
là giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá danh mục sản phẩm, tiết kiệm chi phí khi gia
nhập thị trường và lợi nhuận gia tăng nhờ có nhiều sản phẩm, dịch vụ.
11
1.3.2 Phân loại dựa trên phạm vi lãnh thổ.
- M&A trong nước: Mua lại trong nước là giao dịch mua lại diễn ra giữa các

doanh nghiệp trong cùng một lãnh thổ quốc gia.
- M&A xuyên biên giới: Mua lại xuyên biên giới là giao dịch mua lại giữa các
doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau như một hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Tuy nhiên các thương vụ này thường phức tạp hơn các thương vụ trong nước vì
những khác biệt về môi trường chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội và thủ tục hành
chính giữa các quốc gia.
1.3.3 Phân loại dựa trên chiến lược mua:
- Mua lại thân thiện: Mua lại thân thiện là một giao dịch mà cả hai bên tham gia
đều muốn thực hiện vì nếu giao dịch thành công thì cả hai bên – bên bán và bên mua -
đều có lợi.
- Mua lại thù địch: Mua lại thù địch là một giao dịch mà trong đó bên mua bằng
mọi cách phải mua lại bên kia cho dù bên bán có đồng ý bán hay không. Trong trường
hợp này bên mua sẽ sử dụng sức mạnh tài chính của mình để thâu tóm công ty đối thủ
nhằm triệt tiêu sự cạnh tranh của đối thủ. Mua lại thù địch là một hình thức khá phổ
biến trên thế giới khi một doanh nghiệp muốn loại bỏ các đối thủ trên cùng một thị
trường.
- Một số biện pháp để doanh nghiệp chống lại việc bị thâu tóm thù địch:
+ Poison pill: Đây là các điều khoản đặt ra để làm nản lòng các công ty có ý
định thâu tóm (poison pill là viên thuốc độc được trang bị cho các điệp viên sử dụng
trong trường hợp bị bại lộ). Poison pill là biện pháp phòng thủ phổ biến nhất. Có năm
loại "thuốc độc":
Cổ phiếu ưu đãi: Phát hành cổ phiếu ưu đãi trong đó có điều khoản cho phép
chuyển đổi sang cổ phiếu thường khi quá trình sáp nhập hoàn tất. Điều đó dẫn đến tỷ
lệ sở hữu của bên thâu tóm bị pha loãng và chi phí của cuộc sáp nhập bị "đội" lên.
Flip-over: Điều khoản cho phép cổ đông của công ty cũ được quyền mua cổ
phiếu của công ty mới sau khi sáp nhập với giá rất rẻ.
Flip-in: Điều khoản cho phép cổ đông hiện hữu được quyền mua thêm cổ phiếu
với giá rất ưu đãi khi một cổ đông lớn có tỷ lệ sở hữu quá một tỷ lệ % nhất định.
Back-end: Điều khoản cho phép các cổ đông hiện hữu được quyền chuyển đổi
cổ phiếu sang tiền mặt với giá được định sẵn khi quá trình thâu tóm xảy ra.

+ Poison Puts: Điều khoản cho phép các nhà đầu tư đang giữ trái phiếu của công
ty được quyền nhận tiền trước ngày đáo hạn nếu công ty đang trong quá trình bị "thâu
tóm".
12
+ Staggered Board of Directors: Quy định bầu cử hội đồng quản trị so le, trong
đó chỉ một phần hội đồng quản trị được bầu lại theo từng năm thay vì bầu đồng loạt
một lúc. Điều này dẫn đến tình trạng các thành viên Hội đồng quản trị cũ (công ty bị
thâu tóm) tiếp tục đấu tranh trong một thời gian nhất định, ngăn không để công ty thâu
tóm đạt được mục đích của mình. Phương pháp này kết hợp với poison pill tạo nên
một hệ thống phòng thủ chống bị thâu tóm rất hiệu quả.
+ White Knight: Công ty bị thâu tóm sẽ chào mời một đối tác khác có thiện chí
hơn để mua mình, thay vì sáp nhập với công ty "thù địch" ban đầu. Năm 2006, Công
ty Dược Bayern của Đức đã trở thành "hiệp sĩ áo trắng" của Công ty Dược Schering
AG trước mối nguy cơ bị Merck thôn tính. Kết quả là Schering AG sáp nhập với
Bayern và Công ty Bayer Schering Pharma ra đời.
+ Crown Jewel: Công ty bị thâu tóm nêu ý định bán đi bộ phận hoặc tài sản có
giá trị nhất của mình nếu bị thâu tóm.
+ Pac-Man Defense: Công ty bị thâu tóm quay lại thâu tóm chính công ty muốn
thâu tóm mình. Phương pháp này hiếm khi được sử dụng do tính khả thi không cao.
Năm 1982, Công ty Martin Marietta đứng trước nguy cơ bị Tập đoàn Bendix thâu tóm,
đã bán đi tất cả các bộ phận phụ của mình để gây vốn mua ngược lại cổ phiếu Bendix.
+ Jonestown Defense: Đây là phương pháp phòng thủ tiêu cực nhất, được đặt tên
theo một thảm kịch xảy ra tại Jonestown, Guyna khi một nhóm giáo phái tự tử để duy
trì quyền tự trị của mình. Với phương pháp này, công ty đưa những phiên bản tiêu cực
nhất của các phương pháp nêu trên như bán tài sản có giá trị của mình với giá rẻ cho
tất cả mọi người, trừ công ty đang muốn thâu tóm hay vay những khoản nợ lớn, đắt
không cần thiết. Phương pháp Jonestown, nếu thực hiện thành công, cũng sẽ đẩy công
ty tới bờ vực phá sản hoặc để lại những di chứng xấu lâu dài cho công ty.
1.4 Các chủ thể tham gia vào hoạt động M&A
Trong một giao dịch M&A, có sự tham gia và đóng góp của nhiều thành viên

thuộc các bên khác nhau. Mỗi thành phần, mỗi chủ thể tham gia vào hoạt động sẽ có
vai trò, mục tiêu, động cơ và cách thức thực hiện khác nhau nhưng đều vì một mục
đích chung là tiến hành M&A hiệu quả. Không chỉ giới hạn ở Bên Mua và Bên Bán
mà trong một thương vụ M&A còn có sự tham gia của các thành phần khác, bao gồm
đội ngũ tư vấn, cơ quan quản lý Nhà nước và một số chủ thể khác không tham gia trực
tiếp hay gián tiếp vào thương vụ nhưng lại có tác động tới quyết định và tạo ra lợi ích
của các bên liên quan như báo chí, khách hàng, đối thủ cạnh tranh và công chúng, dư
luận.
13
1.4.1 Bên Mua
Bên Mua là những người đem nguồn lực đầu tư vào các doanh nghiệp khác, tùy
vào mục đích khi thực hiện M&A mà Bên Mua được biết tới là Bên Mua chiến lược
hay Bên Mua thực hiện nhiều lần (Michael E.S, 2004).
- Bên Mua chiến lược: là các Công ty thực hiện việc mua lại nhằm hỗ trợ hoạt
động kinh doanh không hiệu quả của họ. Thông thường họ là những công ty sẽ tiến
hành hợp nhất, liên kết hoặc tích hợp với các đơn vị hoạt động khác mà các công ty
này cũng đang nắm giữ tỷ lệ sở hữu nhất định. Bên Mua chiến lược nhìn nhận một vụ
mua lại dưới góc độ những ảnh hưởng sẽ có đối với hoạt động kinh doanh hiện tại của
mình và những ảnh hưởng có thể có từ hoạt động kinh doanh hiện tại của mình đối với
hoạt động kinh doanh của công ty bị mua lại.
- Bên Mua thực hiện nhiều lần: Đối với nhiều Công ty, M&A đã trở thành công
cụ kinh doanh thường xuyên được sử dụng, nằm trong chiến lược hoạt động mở rộng
và bành trướng của các công ty đó. Họ sẽ thực hiện nhiều cuộc mua lại, sáp nhập hay
liên kết với các công ty mục tiêu trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
Do đó, Bên Mua thực hiện nhiều lần có một số thuận lợi đặc thù, như là việc thông qua
nhiều lần M&A các công ty này đã nâng cao được năng lực đánh giá, đàm phán, kết
thúc vụ mua bán và tích hợp các giao dịch. Họ biết họ làm tốt những gì và những gì họ
còn chưa làm tốt, họ dễ dàng xác định được nhu cầu và mục tiêu của mình, cũng như
tìm kiếm được đối tượng tiềm năng mà họ muốn hướng tới. Ngoài ra đội ngũ nhân
viên của họ cũng đã được trang bị kiến thức chuyên môn để thực hiện các thương vụ

này, giấy tờ và các tài liệu cũng được chuẩn hóa. Điều này tạo nên một lợi thế dành
cho các công ty mua lại nhiều lần, làm giảm bớt những khó khăn cho tổ chức và nhân
viên trong quá trình tích hợp giữa hai thực thể.
1.4.2 Bên Bán
Ngược lại với Bên Mua thường theo đuổi các thương vụ M&A và tìm kiếm
công ty mục tiêu tiềm năng thì đối với Bên Bán, về bản chất, chỉ là bên tham gia một
lần. Tuy nhiên trên thực tế, có nhiều công ty chỉ bán một phần doanh nghiệp, một đơn
vị bộ phận chứ không bán toàn bộ công ty. Do đó, tùy thuộc vào mục đích và phần
doanh nghiệp bị bán đi mà phân chia làm hai loại là Bên Bán một phần và Bên Bán
toàn bộ (Michael E.S, 2004)
- Bên Bán một phần: nhiều thương vụ chỉ liên quan đến bán một phần công ty,
nhưng số này không nhiều bằng những thương vụ bán toàn bộ công ty. Trong nhiều
trường hợp đây có thể là bước đầu tiên trong một loạt các giao dịch khác mà kết quả là
14
bán lại toàn bộ công ty. Vì vậy, bán lại một phần có thể được hiểu như một cơ chế tài
trợ vốn để phát triển sản xuất kinh doanh hoặc giao dịch này sẽ tạo tính thanh khoản
cho một vài cổ đông của Bên Bán một phần.
- Bên Bán toàn bộ: hình thức theo kiểu truyền thống, công ty sẽ bị bán đi toàn bộ.
Đối với Bên Bán thì đây là giao dịch đầu tiên và cuối cùng. Vì vậy Bên Bán thường
trải qua một quy trình phức tạp và chi tiết nhằm đưa ra quyết định bán để đảm bảo
quyết định đó làm cho giá trị cổ đông có thể được tối đa hóa nếu bán công ty trong
một thời điểm nhất định.
1.4.3 Đội ngũ tư vấn
Ngay kể cả với các công ty thực hiện nhiều thương vụ M&A, có đội ngũ nhân
viên có kinh nghiệm trong việc thực hiện hoạt động M&A nhưng trên thực tế các giao
dịch M&A vẫn chứa đựng trong nó những rủi ro cao. Do đó, các công ty thường có xu
hướng thuê các chuyên gia tư vấn. Nguồn nhân lực tư vấn trong hoạt động M&A trở
thành một thành phần quan trọng trong một thương vụ M&A. Họ có thể là luật sư,
ngân hàng đầu tư, kiểm toán viên, chuyên viên tư vấn của các tổ chức tư vấn.
- Luật sư: là những người tư vấn về pháp lý, pháp luật, tiến hành thủ tục pháp lý,

đưa ra những cảnh báo về vi phạm luật pháp.
- Ngân hàng đầu tư: đưa ra những tư vấn về thị trường, cổ phiếu, điều khoản tài
chính và giá trị của tiền tệ, xác định mục tiêu tiềm năng, định giá, cơ cấu lại về mặt tài
chính và các lựa chọn tài chính cho các giao dịch.
- Kiểm toán viên: là những người đem lại sự đảm bảo cho cả hai bên tham gia
thương vụ. Là những người đánh giá về sự đúng đắn, chính xác, rõ ràng và minh bạch
của các thông tin mà mỗi bên đưa ra, đó là thông tin trên các báo cáo tài chính, sổ sách
kế toán, … Ngoài ra, kiểm toán viên còn đưa ra những lời khuyên về cơ cấu lại về mặt
tài chính của một công ty cũng như các chiến lược về thuế và kế toán.
- Chuyên viên tư vấn của các tổ chức tư vấn: các tổ chức tư vấn được thành lập ra
để nghiên cứu chuyên sâu về các khía cạnh của M&A, nghiên cứu các chiến lược, cách
thức. Các chuyên viên là những người có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động M&A,
họ có thể đóng góp vai trò của mình lớn hơn luật sư, ngân hàng hay kiểm toán viên vì
họ thường bao quát tất cả các tiến trình, bước thực hiện trong một giao dịch M&A,
tham gia vào các quyết định quan trọng của các bên, từ tư vấn xác lập mục tiêu, xây
dựng chiến lược thực hiện trong giai đoạn đầu, thẩm định chi tiết cũng như lên kế
hoạch hợp nhất, sáp nhập trong giai đoạn sau.
1.4.4 Cơ quan quản lý Nhà nước
15
Hầu hết hoạt động M&A đều được Nhà nước và luật pháp điều chỉnh theo cách
thức riêng của mỗi quốc gia. Ở mỗi nước khác nhau lại có những quy định về luật
pháp, thủ tục pháp lý khác nhau. Do đó, bất kì doanh nghiệp nào khi tiến hành M&A
đều phải nghiên cứu và tuân thủ luật pháp của nước mình và của nước khác trong
trường hợp M&A ngoài lãnh thổ quốc gia.
Trong các ngành và lĩnh vực kinh doanh lớn (điển hình là ở Mỹ và các nước
phát triển) thì sẽ chịu sự chi phối của một số quy định và cơ quan điều chỉnh cụ thể
của ngành. Ngoài ra, trong tiến trình toàn cầu hóa thì các ngành còn chịu sự điều chỉnh
của luật pháp quốc tế, công ước quốc tế,… Do vậy, tiến hành M&A phải xem xét tất
cả các quy định của các cơ quan điều chỉnh và điều ước quốc tế (nếu có) của ngành đó.
1.5 Các ngành kinh tế thường diễn ra hoạt động M&A

Hoạt động M&A trên thế giới được diễn ra ở rất nhiều ngành và lĩnh vực khác
nhau, nhưng hầu hết những ngành tập trung chủ yếu là những ngành đóng góp phần
lớn vào sự tăng trưởng kinh tế xã hội.
Nguồn: Báo cáo của IMAA về “Thị trường M&A toàn cầu”
Theo biểu đồ 1.1 có thể nhận thấy rằng phần lớn các thương vụ M&A quy mô
lớn về giá trị đều thuộc lĩnh vực năng lượng và viễn thông, đây là hai ngành quan
trọng đối với một số nước đi đầu như Mỹ, Nga, Anh, Nhật Bản Ngành năng lượng
được các nước lớn trên thế giới tập trung đầu tư phát triển, vì lý do kinh tế và cả về
chính trị, chạy đua trong công nghiệp năng lượng.
16
Nguồn: Báo cáo của IMAA về “Thị trường M&A toàn cầu”
Về số lượng theo biểu đồ 1.2 thì các thương vụ giữa các công ty trong lĩnh vực
sản xuất công nghiệp chiếm đa số, tiếp đến là các công ty thuộc lĩnh vực tài chính và
công nghệ cao với số lượng thương vụ gần tương đương nhau. Công nghiệp, tài chính,
công nghệ cao là những ngành kinh tế trọng điểm của nhiều quốc gia trên thế giới.
Đối với ngành sản xuất hàng tiêu dùng, là một ngành kinh tế tiềm năng chiếm
16% về số lượng các thương vụ nhưng số lượng thương vụ ấy lại chỉ chiếm 5% về giá
trị. Các ngành như năng lượng, viễn thông tuy chiếm tỉ lệ nhỏ về số lượng thương vụ
nhưng lại chiếm một giá trị rất lớn. Có thể lý giải điều này là bởi vì những ngành kinh
tế như năng lượng, tài chính, viễn thông là những ngành kinh tế được chú trọng đầu tư
và phát triển tại các nước lớn, các nước phát triển tiên tiến trên thế giới còn một số
ngành như sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp là những ngành quan trọng tại các
nước đang phát triển và kém phát triển, vì vậy nguồn lực dành cho các ngành kinh tế ở
nước này thấp hơn rất nhiều so với nguồn lực của các nước có nền kinh tế hàng đầu
thế giới.
1.6 Phân biệt M&A và GI
Bảng 1: Phân biệt M&A và GI
STT
Nội
dung

M&A GI
1 Định Mua lại: Acquisition - được hiểu như Đầu tư mới: là một hình thức
17
nghĩa
một hành động tiếp quản bằng cách
mua lại một công ty (gọi là công ty mục
tiêu) bởi một công ty khác (Andrew. J
và Milledge A., 2009).
Sáp nhập: Merger - sáp nhập là sự kết
hợp của hai công ty để trở thành một
công ty lớn hơn. Những giao dịch loại
này thường là tự nguyện và hình thức
thanh toán hoặc là thông qua hoán đổi
cổ phiếu (Andrew. J và Milledge A.,
2009).
đầu tư nhằm xây dựng nhà máy
mới hoặc mở rộng nhà máy/dây
truyền hiện có.
2 Đối
tượng
Thường diễn ra trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng, lĩnh vực công nghệ (điện,
điện tử, tin học )
Tất cả các lĩnh vực trong nền
kinh tế, nhưng phần lớn vẫn tập
trung trong lĩnh vực cơ khí, chế
tạo.
3 Tác
động
Gia tăng uy tín, giá trị, giá trị cổ phiếu

cho công ty mua lại hoặc công ty sau
khi sáp nhập do mọi người kỳ vọng
công ty mới sẽ hoạt động tốt hơn.
Mở rộng thị trường, gia tăng
năng lực sản xuất của công ty
GI.
4 Kết
quả
Một công ty (thương hiệu) mới được
hình thành hoặc tăng quy một công ty.
Đồng thời là sự biến mất của một (hoặc
cả hai) công ty (thương hiệu).
Kết quả là một công ty mới được
hình thành hoặc xây dựng, mở
rộng thêm nhà xưởng.
5 Mục
đích
Tìm kiếm lợi ích kinh tế nhờ tăng quy
mô, giảm chi phí và mở rộng thị trường
Tìm kiếm lợi ích kinh tế thông
qua hoạt động đầu tư mới, xây
dựng mới nhà xưởng mới hoặc
mở rộng nhà xưởng hiện có.
6 Xu
hướng
Các nước phát triển sợ “thôn tính”
ngành nghề mũi nhọn của quốc gia bởi
sự lớn mạnh về quy mô của các tập
đoàn lớn có thể gây sức ép lên pháp
luật của chính phủ nước chủ nhà

Các nước phát triển thích hình
thức GI hơn do:
- Giải quyết công ăn việc làm
cho nước chủ nhà.
- Tiếp thu được khoa học kỹ
thuật, công nghệ từ nước đầu tư.
- Tiếp thu kỹ thuật quản lý từ
nước đầu tư.
7 Tính Thường có thể dự đoán trước căn cứ Đối với doanh nghiệp mới hoàn
18
rủi ro
vào tình hình hoạt động và khả năng
quản lý của các công ty tham gia vào
quá trình M&A.
toàn hoặc doanh nghiệp cung cấp
sản phẩm mới tại thị trường đặt
nhà máy sản xuất, rủi ro thường
sẽ cao hơn và khó dự đoán trước.
8 Việc
làm
- Sau các thương vụ M&A, thường sẽ
dẫn đến tinh giảm biên chế, ảnh hưởng
đến công ăn việc làm người lao động
- Trong dài hạn làm tăng cạnh tranh độc
quyền
- Có thể ảnh hưởng đến an ninh nước
chủ nhà vì tài sản nước chủ nhà rơi vào
tay nhà đầu tư nước ngoài
- Giải quyết ngay vấn đề công ăn
việc làm

- Thay đổi cơ cấu kinh tế thông
qua xây dựng doanh nghiệp mới
9
Quan
điểm
nước
chủ
nhà
- Chỉ khuyến khích với một số doanh
nghiệp nước chủ nhà hoạt động kém
hiệu quả.
- Không khuyến khích những doanh
nghiệp có ảnh hưởng lớn đến thị
trường, ngành và an ninh chính trị.
Được các nước khuyến khích do
những lợi ích kinh tế, và xã hội
(giải quyết công ăn việc làm) mà
doanh nghiệp GI mang lại.
10
Quan
điểm
của
nhà
đầu tư
- Khai thác lợi thế thị trường mới, giúp
công ty có cơ hội mở rộng nhanh chóng
hoạt động ra thị trường nước ngoài
- Khả năng cạnh tranh toàn cầu tăng,
giảm chi phí trong lĩnh vực R&D, sản
xuất, phân phối và lưu thông

- Mở rộng thị trường sang các
khu vực mới
- Tận dụng lợi thế về nhân công,
địa lý, nguồn nguyên vật liệu của
nước chủ nhà.
II. Môi trường pháp lý của hình thức M&A qua biên giới
2.1 Quy định về M&A của một số nước trên thế giới
2.1.1 Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những nước thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài dưới
hình thức M&A (M&A) nhất ở Châu Á những năm gần đây.
Nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia M&A với các doanh nghiệp nội địa theo
nhiều cách thức khác nhau. Trước khi tiến hành M&A các nhà đầu tư phải đệ trình một
bản kế hoạch tái tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước trong đó nêu rõ những thông tin về
19
nhà đầu tư nước ngoài, tình hình tài chính, quy mô kinh doanh, cơ cấu cổ phần, kế
hoạch ổn định nhân sự và đặc biệt là cách thức quản lý công ty mới. Trung Quốc yêu
cầu các nhà đầu tư nước ngoài cung cấp kế hoạch để cải tiến cơ cấu quản lý và thúc
đẩy tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp nhà nước.
Về vấn đề giá cả mua lại doanh nghiệp: Trung Quốc quyết định giá mua lại
doanh nghiệp phải dựa trên giá trị tài sản hoặc giá trị cổ phần do một công ty đánh giá
tài sản ở Trung Quốc đưa ra. Phương pháp đánh giá tài sản hoặc cổ phần phải là
phương pháp được quốc tế công nhận. Nếu như giá mua lại doanh nghiệp thấp hơn giá
trị đó thì cuộc chuyển nhượng này không được phép thực hiện.
Về thuế áp dụng cho các giao dịch M&A, Trung Quốc căn cứ vào từng hình
thức M&A để áp dụng mức thuế suất khác nhau đối với từng giao dịch.
2.1.2 Thái Lan
M&A hai hoặc nhiều công ty có thể dưới các hình thức sau: i, Sáp nhập (hợp
nhất) ii, Mua lại cổ phần iii, Mua lại tài sản. Trong ba hình thức trên thì hình thức hợp
nhất là ít phổ biến tại Thái Lan do Thái Lan không khuyến khích hình thức hợp nhất
các công ty.

Trong một số lĩnh vực nhất định (Ngân hàng, tài chính tín dụng, bảo hiểm nhân
thọ, đại lý du lịch, hàng hải, hàng không…) Thái Lan đều có những giới hạn về vốn và
số lượng người nước ngoài tham gia vào hoạt động quản lý.
Về thuế, Thái Lan dành nhiều ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thuế doanh lợi là 30% đối với M&A bằng hình thức tài sản. Còn đối với mua lại cổ
phiếu, Thái Lan áp dụng thuế lũy tiến từ 5% - 37% đối với công dân Thái và 30% cho
các công ty nội địa và 15% khấu trừ trước cho công dân và công ty nước ngoài.
Thuế trước bạ là 0,5 % trên số bất động sản ( được miễn nếu như các điều kiện
đặt ra được đáp ứng ) đối với hình thức đầu tư mua lại bằng tài sản và sáp nhập. Và
0,1% giá bán ra hoặc giá trị cổ phiếu đã trả ( tùy theo giá trị nào lớn hơn ).
Hình thức đầu tư bằng cách mua lại cổ phiếu và sáp nhập được miễn thuế VAT,
còn mua lại tài sản chỉ bị đánh 7% trên bất động sản và được miễn nếu chuyển nhượng
toàn bộ công ty.
Về vấn đề người lao động, Thái Lan quy định tất cả người lao động phải đồng ý
với bản kế hoạch nhân sự do bên mua đưa ra. Bản kế hoạch đó phải đảm bảo được
quyền lợi của người lao động. Đối với những người xin thôi việc, công ty phải đền bù
cho họ theo quy định của luật lao động tùy theo thời gian làm việc cho công ty.
20
2.1.3 Malaysia
Mặc dù, luôn chào đón các nhà đầu tư nước ngoài nhưng chính phủ Malaysia
vẫn cố gắng tăng tỷ lệ sở hữu của công dân Malaysia và Bumiputra (người Malaysia
bản địa ) ở các công ty bị M&A. Với mục đích đó, Malaysia luôn đảm bảo rằng tỷ lệ
sở hữu trong nền kinh tế Malaysia theo tỷ lệ tối thiểu là 30% sở hữu thuộc về
Bumiputra, 40% thuộc về người Malaysia khác và tối đa 30% thuộc về người nước
ngoài.
Đối với hình thức đầu tư mua lại cổ phiếu, nhà đầu tư nước ngoài phải xin phép
Cục đầu tư nước ngoài nếu như mua mua lại hơn 15% cổ phiếu của công ty nội địa
hoặc mua cổ phiếu với tổng giá trị hơn 10 triệu ringgit Malaysia ( RM 10.000.000).
Đối với hình thức đầu tư mua lại tài sản, nhà đầu tư nước ngoài cũng phải xin phép
cục đầu tư nước ngoài và chỉ được phép mua tài sản có giá trị lớn hơn 150.000 Ringgít

Malaysia, đồng thời không bị giới hạn số tài sản được mua.
Về vấn đề người lao động, trước khi tiến hành M&A thì nhà đầu tư nước ngoài
không cần phải lấy ý kiến người lao động. Công ty mới chỉ cần đảm bảo sao cho người
lao động vẫn giữ được các điều kiện làm việc như trước đây. Các công ty phải cố gắng
tuyển dụng và đào tạo người Malaysia sao cho họ có thể tham gia vào các vị trí trong
công ty.
Nói chung, Malaysia không có luật chống độc quyền áp dụng với tất cả các
ngành. Tuy nhiên, trong lĩnh vực truyền thông và viễn thông thì có luật về chống độc
quyền theo đó nhà đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào những dự án làm
giảm tính cạnh tranh trên thị trường viễn thông.
Về thuế, Malaysia chỉ đánh thuế thu nhập 20% đối với 500.000 Ringgit đầu tiên
và 25% đối với số thu nhập còn lại.
2.1.4 Singapore
Trước khi Luật công ty của Singapore có hiệu lực (ngày 15/6/2005), các giao
dịch thường được gọi là “sáp nhập” thực chất là công ty B mua lại tài sản của công ty
A nhờ đó công ty B phát hành cổ phiếu của công ty mình cho công ty A. Hay công ty
A và công ty B có thể cùng góp tài sản để lập thành công ty C và công ty C sẽ phát
hành cổ phiếu cho hai công ty trên. Mặc dù về tài sản là chung trong một công ty
nhưng về tư cách pháp nhân thì công ty A, công ty B và công ty C (nếu phù hợp) vẫn
là ba công ty riêng biệt. Sau khi luật công ty ra đời, Singapore đặt ra những quy định
chặt chẽ hơn đối với hình thức hợp nhất (sáp nhập) công ty. Sau khi hợp nhất hai hay
21
nhiều công ty thì có thể hình thành một công ty hợp nhất hoặc là hình thành một công
ty mới.
Mua lại các công ty ở Singapore cũng giống như các nước khác có thể thông
qua hình thức mua lại cổ phiếu hoặc mua lại tài sản.
Về luật chống độc quyền, Singapore không có luật chống độc quyền. Nhưng
trong một số ngành như viễn thông, bưu chính, ngành dịch vụ công có những quy định
về chống độc quyền.
2.1.5 Hoa Kỳ

Hoa Kỳ có lẽ là một trong những nước đi đầu trong kinh nghiệm thực hiện quản
lý nhà nước đối với hoạt động M&A. Luật chống độc quyền Sherman được ban hành
từ năm 1890.
Về định chế quản lý M&A, đạo luật ủy ban Thương mại liên bang (FTC) năm
1975 đã quy định “ngăn cấm mọi hành vi không lành mạnh đe dọa tính cạnh tranh của
thị trường” và trao cho cơ quan hành pháp này chức năng độc lập thực thi các luật
chống độc quyền của liên bang. Tiếp theo, năm 1976 Luật chống độc quyền Hart-
Scott-Rodino (HSR) bắt buộc các bên liên quan phải thông báo và nộp hồ sơ thẩm tra
lên FTC và Bộ Tư pháp trước khi hoàn tất vụ sáp nhập. Quy định này được áp dụng
đối với tất cả những vụ sáp nhập mà một trong hai bên có doanh thu trên 100 triệu
USD và bên còn lại trên 10 triệu USD, với giá trị chuyển nhượng vượt quá 15 triệu
USD. Nếu các công ty thuộc đối tượng như trên thực hiện sáp nhập mà không qua
thẩm tra của FTC và Bộ Tư pháp sẽ bị hủy thỏa thuận chuyển nhượng và có thể bị phạt
lên đến 10000 USD/ngày.
2.2 Môi trường pháp lý của hoạt động M&A tại Việt Nam
Hiện tại, khung pháp luật liên quan đến hoạt động M&A ở Việt Nam nằm ở
nhiều văn bản luật khác nhau vì hoạt động M&A liên quan đến rất nhiều vấn đề như:
Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật cạnh tranh, Luật chứng khoán, Bộ Luật dân sự,
Luật kế toán, Bộ Luật lao động, Luật các tổ chức tín dụng, Luật đất đai, pháp luật về
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, các văn bản cam kết quốc tế của Việt Nam, Luật
sở hữu trí tuệ, Pháp lệnh quản lý ngoại hối. Mỗi văn bản luật trên lại chi phối hay điều
chỉnh các vấn đề khác nhau liên quan đến hoạt động M&A.
2.2.1 Môi trường pháp lý của hoạt động M&A tại Việt Nam
- Luật Doanh nghiệp: Luật doanh nghiệp đưa ra khái niệm và trình tự thủ tục sáp
nhập, hợp nhất, doanh nghiệp tại điều 153, 154 như đã trình bày ở mục 1.1, chương 1,
22
Luật Doanh nghiệp năm 2005 xem xét sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp như hình thức
tổ chức lại doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tự thân của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
Luật Doanh nghiệp không đưa ra định nghĩa về mua, bán doanh nghiệp mà chỉ có một
Điều riêng quy định về việc bán doanh nghiệp tư nhân.

- Luật Đầu tư: Luật Đầu tư năm 2005 thừa nhận hai hình thức M&A là M&A
doanh nghiệp, là một trong những hình thức đầu tư trực tiếp. Việc mua lại doanh
nghiệp có thể được thực hiện dưới hình thức mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh
nghiệp hoặc chi nhánh.
- Luật Cạnh tranh năm 2004: Theo quy định của Luật Cạnh tranh, việc sáp nhập
doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp và mua lại doanh nghiệp là hành vi tập trung
kinh tế. Điều chỉnh của Luật cạnh tranh đối với hoạt động M&A chủ yếu là vấn đề liên
quan đến tính cạnh tranh của ngành, hoặc sản phẩm nào đó trên thị trường. Chẳng hạn,
nếu một công nào đó mua lại công ty khác mà tổng thị phần quá lớn sẽ dẫn đến tình
trạng độc quyền có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Do đó, việc sáp
nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp bị cấm trong trường hợp việc sáp nhập, hợp
nhất, mua lại doanh nghiệp tạo ra thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan.
- Luật Chứng khoán: Luật Chứng khoản quy định việc chia, tách, sáp nhập, hợp
nhất công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ phải được chấp thuận của Ủy ban
chứng khoán nhà nước trước khi thực hiện. Luật chứng khoán và các văn bản hướng
dẫn cũng quy định về cách thức chào bán, mua cổ phần, chào mua công khai, tỷ lệ sở
hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty cổ phần đại chúng.
- Bộ luật dân sự: Đối với hoạt động M&A, sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự chủ
yếu là hợp đồng mua bán cổ phần. Ngoài ra, hợp đồng mua bán cổ phần giữa các công
ty phải đảm bảo tuân thủ các quy định của Luật chuyên ngành. Có hai loại hợp đồng
liên quan đến M&A: Hợp đồng mua bán cổ phần (phần góp vốn) giữa công ty A và cổ
đông của công ty B và hợp đồng mua bán cổ phần của công ty A với công ty B. Hai
loại hợp đồng này là hoàn toàn khác nhau, hợp đồng thứ 2 đòi hỏi phải có sự chấp
thuận của cổ đông thông qua Đại hội cổ đông hoặc Hội đồng quản trị. Còn hợp đồng
thứ 1, là sự thỏa thuận giữa các bên, không liên quan đến công ty (trường hợp này là
công ty B).
- Luật kế toán: Luật này quy định việc hợp nhất báo cáo tài chính, khi công ty A
mua lại công ty B với điều kiện là tỷ lệ nắm giữ của A tại B là lớn hơn hoặc bằng 51%,
hoặc trong trường hợp với tỷ lệ nhỏ hơn kèm thêm một vài điều kiện khác thì A và B

cũng phải hợp nhất báo cáo tài chính. Việc hợp nhất được quy định cụ thể trong Điều
23
45 Luật kế toán và chuẩn mực kế toán số 11 - Hợp nhất Kinh doanh, Chuẩn mực Kế
toán số 25 - Báo cáo Tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con và
Thông tư số 21/2006/TTBTC, Thông tư số 161/2007/TT-BTC. Ngoài ra, khi công ty A
mua lại công ty B (tỷ lệ đủ để kiểm soát B hoặc mua lại 100% cổ phần của B - từ các
cổ đông của B) thì trong trường hợp này có thể sẽ phải đóng thuế chuyển nhượng vốn.
Hoặc nếu A đang được miễn giảm thuế, nếu B sáp nhập với A, thì công ty có thể sẽ
được miễn giảm thuế.
2.2.1 Một số hạn chế trong môi trường pháp lý của hoạt động M&A tại Việt Nam
- Về việc áp dụng trực tiếp các cam kết WTO
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trong trường hợp có quy định khác nhau
giữa luật trong nước và Điều ước quốc tế thì áp dụng quy định của pháp luật quốc tế.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11
phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết này đã quy định
một số cam kết được áp dụng trực tiếp, đồng thời giao Chính phủ và các cơ quan có
liên quan báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội việc áp dụng trực tiếp các cam kết khác
chưa được quy định tại Nghị quyết. Tuy nhiên, việc áp dụng trực tiếp các cam kết
quốc tế còn nhiều hạn chế.
Các doanh nghiệp, kể cả các cơ quan nhà nước vẫn còn dè dặt trong việc áp dụng
các cam kết quốc tế khi mà các cam kết quốc tế đó quy định khác với luật trong nước.
Nguyên nhân của vấn đề này là do các chủ thể áp dụng pháp luật không có sự hiểu biết
về các cam kết quốc tế hoặc do e ngại sẽ vi phạm các quy định của pháp luật Việt
Nam.
- Thiếu hành lang pháp lý về M&A
Hiện nay các quy định liên quan đến hoạt động M&A ở Việt Nam được quy định
trong nhiều văn bản khác nhau. Tuy nhiên, các quy định này hầu như mới chỉ dừng lại
ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động M&A, tức là mới chỉ giải quyết được
các vấn đề về mặt “thay tên, đổi họ” cho doanh nghiệp. Trong khi đó, M&A là một

giao dịch thương mại, tài chính, nó đòi hỏi phải có quy định cụ thể, có một cơ chế thị
trường để chào bán, chào mua doanh nghiệp, giá cả, cung cấp thông tin, chuyển giao
và xác lập sở hữu, chuyển dịch tư cách pháp nhân, cổ phần, cổ phiếu, các nghĩa vụ tài
chính, người lao động, thương hiệu Đồng thời, còn hàng loạt vấn đề liên quan trực
tiếp đến M&A mà pháp luật nước ta còn chưa có quy định cụ thể như kiểm toán, định
giá, tư vấn, môi giới, bảo mật, thông tin, cơ chế giải quyết tranh chấp
- Vướng mắc do quy định chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật
24
Quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư không thống nhất và đồng bộ
trong viêc giai quyêt cấp phép cho các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các
công ty Việt Nam theo các cam kết của WTO. Hoặc một ví dụ khác, theo quy định của
Luật Đầu tư, một doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên 49% thành lập tại Việt Nam
được coi là doanh nghiệp nước ngoài và thực hiện các thủ tục đầu tư (trong đó có hoạt
động M&A) như một nhà đầu tư nước ngoài. Còn Luật Doanh nghiệp chỉ quy định
trình tự, thủ tục M&A đối với các doanh nghiệp nói chung, không có sự phân biệt giữa
các doanh nghiệp có bên nước ngoài tham gia.
- Vướng mắc giữa cam kết WTO với Luật Đầu tư, Luật doanh nghiệp
Theo biểu cam kết WTO, cho đến nay, nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần,
phần vốn góp của doanh nghiệp Việt Nam không hạn chế, trừ những lĩnh vực đặc thù
được quy định bởi WTO và các đạo luật khác (Luật các tổ chức tín dụng, Luật chứng
khoán). Cam kết của WTO đã rõ ràng, tuy nhiên, những cam kết này chưa được nội
luật hóa. Vì vậy, các cơ quan chức năng trong quá trình quản lý chỉ áp dụng các quy
định của pháp luật Việt Nam mà chưa áp dụng các cam kết đối với WTO.
- Vướng mắc theo quy định của Luật cạnh tranh
Luật cạnh tranh hiện nay cấm các hoạt động M&A có thể dẫn tới việc một doanh
nghiệp có mức tập trung kinh tế lớn hơn 50% thị trường liên quan. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra là Luật Cạnh tranh và các văn bản dưới luật không có quy định rõ ràng về khái
niệm “Thị trường liên quan”. Và trong trường hợp một doanh nghiệp kinh doanh nhiều
mặt hàng (có nhiều thị trường khác nhau) thì tùy theo các cách tính khác nhau có thể
dẫn đến kết quả là doanh ngghiệp đó có thể bị coi là có “tập trung kinh tế” trên 50%

hoặc có thể dưới.
- Vướng mắc trong việc định giá doanh nghiệp
Hiện nay, không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về việc định giá
doanh nghiệp. Các thương vụ M&A diễn ra chủ yếu là do các bên tham gia thỏa thuận
về giá. Thị trường M&A Việt Nam hiện sử dụng ba phương pháp định giá chính: định
giá theo giá trị tài sản thực, định giá theo dòng tiền chiết khấu và định giá theo giá trị
thị trường.
Về tổng thể pháp luật liên quan đến M&A bao gồm các quy định thuộc nhiều
chế định pháp luật khác nhau và bước đầu đã có sự quan tâm đến việc kiểm soát hoạt
động M&A thông qua các quy định trong Luật Cạnh tranh. Mặc dù đã có sự liên kết về
mặt pháp lý nhưng việc thiếu quy định về cơ chế phối hợp giữa các thủ tục kiểm soát
hoạt động M&A với thủ tục quản lý nhà nước trong việc đăng ký kinh doanh, thủ tục
đầu tư, chưa có quy chế liên kết làm việc giữa cơ quan chịu trách nhiệm chính trong
25

×