Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.41 KB, 15 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
PHẦN 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NHTM
PHẦN 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM
PHẦN 3: GIẢI PHÁP
PHẦN 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NHTM
1.1. Trung gian tài chính là một tổ chức chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính , làm
trung gian giữa những chủ thể có vốn và các chủ thể cần vốn ,giúp cho đồng vốn được
luân chuyển hiệu quả.
Ví dụ:
ngân hàng thương mại:viettinbank,techcombank…
quỹ trợ cấp:quỹ trợ cấp hưu trí…
công ty tài chính:công ty tài chính cổ phần điện lực,công ty tài chính cổ phần dầu khí
Việt Nam,…
công ty bảo hiểm:công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Cimeico,công ty cổ phần bảo
hiểm Viễn Đông,…
1.2. Ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian.Cho đến thời điểm hiện
nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
• Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch
vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
• Ở Pháp: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp
thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các
hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính”.
• Ở Anh: Ngân hàng bắt đầu bằng việc nhận tiền từ khách hàng theo những ràng
buộc đã được chi tiết hóa theo luật.Ngân hàng đảm trách việc hoàn trả khi có yêu cầu
hoặc khi đến hạn .
• Ở Việt Nam: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà


đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi,
cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch
vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.3. Phân loại ngân hàng thương mại:
• Ngân hàng thương mại nhà nước.
• Ngân hàng thương mại cổ phần.
• Ngân hàng thương mại liên doanh.
• Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài.
• Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
1.4. Chức năng của ngân hàng thương mại là:
• Chức năng trung gian tín dụng:là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là
cầu nối giữa người cần vốn và người có vốn. Với chức năng này, ngân hàng
thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và
hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho
vay.Góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia,thúc đẩy quá trình sản xuất và
kích thích quá trình luân chuyển vốn của toàn xã hội.
ví dụ:ngân hàng nhận tiền gửi tiết kiệm của người dân với lãi xuất 9% 1 năm và
cho doanh nghiệp vay với lãi suất 12% 1 năm.
• Chức năng trung gian thanh toán:NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh
nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng .Các
NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy
nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Nhờ đó mà
các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ,
gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức
nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm
được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này
vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc
độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Ví dụ: sử dụng thẻ ngân hàng để thanh toán tiền ở siêu thị.

Trả tiền vay của bạn bằng cách chuyển khoản.
• Chức năng tạo tiền:là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân
NHTM. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Với chức năng này, hệ
thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng
nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc
vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương.
Ví dụ:tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%.Ngân hàng thương mại A nhận tiền gửi là 100
triệu đồng từ một khách hàng.Ngân hàng thương mạiA dự trữ 10 triệu và cho ngân
hàng B vay 90 triệu.Ngân hàng thương mại B dự trự 9 triệu và cho ngân hàng
thương mại C vay 81 triệu.
Ta được bảng thể hiện sự mở rộng tiền gửi.
Ngân hàng thương mại Thiết lập dự trữ
A 100
B 90
C 81
Tổng cộng 271

• Cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng: Ngân hàng thương mại cung cấp các dịch
vụ như:Tư vấn tài chính đầu tư,giữ hộ giấy tờ,cung cấp dịch vụ chứng khoán,làm
đại lý phát hành cổ phiều,…
ví dụ:các ngân hàng thương mại giữ hộ tiền,giữ hộ sổ đỏ,…
• Tài trợ ngoại thương:đó là tài trợ xuất nhập khẩu và nền thương mại giữa các quốc
gia.Tài trợ các doanh nghiệp có nhu cầu kinh doanh với nước ngoài.
Ví dụ:cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay tiền với lãi suất thấp.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM
2.1. Lượng và chất của NHTM.
Theo thống kê của NHNN Việt Nam tính đến hết này 31/12/2012 hiện có 39
NHTM trong đó có 5 NHTM Nhà nước và 34 NHTM Cổ Phần.
Trong vài năm qua, những đóng góp của hệ thống NHTM VN vào quá trình đổi

mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá là rất lớn. Tuy nhiên, thực trạng các NHTM tập trung vào chạy đua mở
rộng thị phần và gia tăng lợi nhuận trong khi số lượng và chất lượng các sản phẩm
và dịch vụ khác nhau chưa phát triển đã dẫn tới việc huy động tiền gửi và tín dụng
vẫn là sản phẩm chủ yếu các ngân hàng sử dụng để cạnh tranh với nhau. Tình
trạng “ độc canh” tín dụng và dịch vụ đi kèm sản phẩm tiền gửi thiếu chất lượng
đã dẫn tới các ngân hàng liên tục chạy đua nâng lãi suất huy động và tìm cách thu
hút khách hàng mà không quan tâm đến khả năng tài chính của khách hàng và tính
hiệu quả của phương án, dự án vay vốn. Hệ quả của thực trạng này là tốc độ tăng
trưởng tín dụng, lãi suất cho vay và huy động vốn của hệ thống ngân hàng luôn
cao hơn mục tiêu đề ra của Ngân hàng Nhà nước( NHNN). Tìm mọi cách để huy
động vốn, tuy nhiên việc xử lý vốn sao cho hiệu quả lại không được quan tâm một
cách triệt để.
2.2. Vốn và cơ cấu vốn của NHTM
2.2.1. Quy mô vốn
Năng lực tài chính là nhân tố tiên quyết năng lực cạnh tranh cũng như là khả năng
ổn định bền vững trước tác động của các cú sốc tài chính tới hoạt động của NH.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, chính phủ đã đưa ra nhiều chủ trương
và quyết sách để tăng cường năng lực tài chính đối với hệ thống NH.
Nghị định 10/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị địn 141/2006/NĐ-CP, quy định mức vốn
điều lệ cho các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đến hết ngày 31/12/2011 là
3000 tỷ đồng. Đến tháng 2 năm 2011, vốn điều lệ của các ngân hàng đã dần thấy
có biến chuyển tăng trên hoặc ở mức 3000 tỷ đồng. Đứng đầu là Agribank với
20.708 tỷ đồng, Vietcombank với 19.698 tỷ đồng, VietinBank là 18.712 tỷ đồng
và Eximbank 12.355 tỷ đồng, ACB 11.252 tỷ đồng…
Quy mô vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam còn quá nhỏ so với các ngân hàng
trung bình trong khu vực. Những ngân hàng có quy mô vốn lớn nhất toàn hệ thống
như Agribank, Vietcombank hay BIDV cũng chỉ có khoảng trên 800 triệu USD,
thấp xa so với những ngân hàng lớn của một số quốc gia trong khu vực( như Ngân
hàng Băng Cốc Thái Lan: hơn 3 tỷ USD, ngân hàng Maybank của Malaysia hơn 4

tỷ USD và Ngân hàng Philipines hơn 900 triệu USD). Hiện nay, mức vốn bình
quân của 10 ngân hàng lớn của Philipines cũng đã vào khoảng hơn 400 triệu USD,
Indonesia hơn 800 triệu USD, Malaysia và Thái Lan khoảng hơn 1000 triệu USD.
Những con số này phù hợp với nhận định về hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện
nay là : “Nhiều nhưng yếu” nếu so sánh về quy mô trung bình của nhóm các ngân
hàng lớn ở các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Singapore và
Indonesia…
Với quy mô vốn tự có thấp sẽ rất khó khăn cho NHTM Việt Nam khi muốn triển
khai các loại hình dịch vụ mới, đồng thời năng lực chống đỡ các cú sốc tài chính
từ trong và ngoài nước cũng sẽ bị hạn chế. Hơn nữa, cùng với lộ trình mở cửa của
thị trường tài chính thì việc thua thiệt trong cạnh tranh là khó tránh khỏi.
Theo tính toán và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài, công nghệ thông tin
có thể làm giảm 76% chi phí hoạt động ngân hàng. Do hoạt đọng kinh doanh ngân
hàng là lĩnh vực kinh doanh bậc cao, đòi hỏi nền tảng kỹ thuật công nghệ ở mức
tương thích. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu này đòi hỏi các NHTM phải có năng
lực tài chính mạnh. Đây chính là bất cập đối với hệ thống NH Việt Nam do quy
mô vốn điều lệ thấp.
2.2.2. Cơ cấu vốn
Do lãi suất trong nền kinh tế Việt Nam có mức độ dao động cao và biến động liên
tục trong khi các sản phẩm huy động vốn có khả năng hạn chế rủi ro lãi suất cho
người gửi tiền lại chưa phát triển. Hơn nữa, lạm phát và lãi suất của Việt Nam
thường tăng cao khiến cho các nhà đầu tư vào các công cụ nợ dài hạn gặp nhiều
rủi ro về giá nên nguồn vốn huy động đa phần là ngắn hạn. Nó đã làm ảnh hưởng
tới khả năng cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng khi
thực hiện theo Thông tư số 15/2009/TT-NHNN quy định các NHTM chỉ được sử
dụng tối đa 30% nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Nhiều NHTM gặp sự
mất cân đối nghiêm trọng giữa huy động và sử dụng vốn, đã sử dụng tới 60-70%,
thậm chí còn cao hơn nữa, vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Đây
cũng là một lý do dẫn tới thực trạng mặt bằng lãi suất huy động của hệ thống
NHTM luân có xu hướng tăng cao.

Việc cạnh tranh lãi suất giũa các NH khiến cho các khoản tiền gửi thường nhanh
chóng bị rút và đem gửi tại ngân hàng có mức lãi suất cao hơn. Tốc độ tăng trưởng
huy động vốn thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng (tới tháng 9/2012, tỷ lệ cấp tín
dụng so với nguồn vốn huy động của nhóm NHTMNN là 101,95% và của nhóm
NHTMCP là 76,44%) đã khiến nhiều ngân hàng gặp khó khăn thanh khoản và
buộc phải vay mượn trên thị trường liên ngân hàng hoặc vay từ NHNN thông qua
hoạt động tái cấp vốn.
2.3. Nợ xấu
Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu
hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối
với các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là
các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua
lỗ hoặc phá sản,
Nợ xấu gia tăng là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đến sự phát triển và tính bền
vững của hệ thống các ngân hàng Việt Nam. Theo số liệu báo cáo của NHNNVN,
tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng ở mức 3,1% trong năm 2011 đã tăng vọt lên
mức 8,86% trong năm 2012 ( tăng 211%). Tốc độ tăng tín dụng năm 2012 thấp
hơn nhiều so với những năm trước trong khi tỷ lệ nợ xấu cao đã phản ánh nợ xấu
chủ yếu là các khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đồng thời cho thấy chất
lượng tín dụng đang theo chiều hướng xấu.
Nợ xấu của hệ thống NHTM Việt Nam bắt nguồn từ những lỗi hệ thống.
Thứ nhất, môi trường kinh doanh xấu đi dẫn tới chất lượng tín dụng suy giảm, nợ
xấu gia tăng. Lạm phát cao khiến sức mua của người tiêu dùng giảm, cùng với tác
động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến tổng cầu giảm, hàng tồn kho
tăng cao, doanh nghiệp không quay vòng vốn được khiến nhiều doanh nghiệp lâm
vào tình trạng ngừng hoạt động, thậm chí phá sản.
Thứ hai, doanh nghiệp duy trì cơ cấu vốn thiếu hợp lý và mở rộng kinh doanh vào
các lĩnh vực rủi ro cao chính là nguyên nhân dẫn đến thực trạng nợ xấu. Ngoài ra,
các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào các khoản tín dụng từ hệ
thống ngân hàng, khi mà thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng kiềm chế lạm

phát thì tất yếu ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Thứ ba, chính sách mở rộng thay vì tập trung nâng cao chất lượng tín dụng trong
một thời gian dài của NHTM là nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình hình nợ xấu
tăng cao trong năm 2012. Tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng
kinh tế và huy động vốn dẫn đến nguồn vốn được phân bổ không hợp lý. Về phía
NHTM, do thực hiện cho vay lĩnh vực phi sản xuất sinh lời cao nên tập trung
nguồn vốn cho lĩnh vực phi sản xuất. công tác kiểm định, kiểm tra sử dụng vốn
vay khách hàng tại nhiều ngân hàng chưa tuân thủ đúng quy định

Tỷ lệ nợ xấu của một số ngân hàng qua 9 tháng đầu năm
(data: BCTC/CafeF)
2.4. Khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời của hệ thống NHTM Việt Nam so với hệ thống NHTM ở các
quốc gia có mức phát triển tương đồng trên thế giới thì còn ở mức thấp. vấn đề
này phát sinh từ thực trạng tập trung vào hoạt động tín dụng như là cơ sở mở rộng
thị trường, sử dụng công cụ lãi suất để cạnh tranh mà không tập trung vào các
mảng sản phẩm và dịch vụ phi tín dụng. khi thị trường tín dụng gặp vấn đề do kinh
tế suy thoái, khách hàng vay vốn không trả nợ đầy đủ và đúng hạn thì ngay lập tức
khoản thu nhập từ hoạt động tín dụng bị ảnh hưởng tiêu cực. Ngoài ra, nếu các
NHTM Việt Nam tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng theo đúng tiêu
chuẩn quốc tế cùng với việc phải chia sẻ với các doanh nghiệp về giảm lãi suất
cho vay thì mức lợi nhuận sẽ giảm nhanh và mức sinh lời như các ngân hàng đã
công bố là không bền vững.
2.5. Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam còn khá thấp. Theo Legatum Institute,
Việt Nam đứng thứ 82/110 quốc gia khảo sát về giáo dục, với -0,80 điểm vào năm
2011. Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng, lành nghề vẫn là một vấn
đề không dễ khắc phục trong ngắn hạn. Điều này có nghĩa là chất lượng nguồn
nhân lực vẫn là thách thức lớn trong chiến lược phát triển bền vững hệ thống
NHTM Việt Nam.

Bảng: Cơ cấu trình độ được đào tạo của hệ thống NH Việt Nam tính đến
31/12/2009
Đơn vị tính: %
Trình
độ
Toàn hệ
thống
NHNN NHTMNN NHTMCP NHLD, Nước
ngoài
Tổ chức
khác
Tiến sỹ 0,28 0,67 0,31 0,26 0,11 0,2
Thạc sỹ 3,48 6,3 4,61 2,97 2,9 1,2
Đại học/
Cao
đẳng
62,59 64,28 62,46 66,83 78,24 73,6
Trung
cấp
20,08 8,68 17,83 20,38 0,84 2,1
Sơ cấp
và chưa
qua đào
tạo
13,57 20,07 14,79 9,56 17,91 22,9
(Nguồn đề tài KNH 2009-07)
Ngoài ra, một số NHTMCP chuyển đổi mô hình từ NHTMCP nông thôn nên có
năng lực quản trị kém. Cơ cấu quản trị nhiều ngân hàng chưa rõ ràng, nhiều người
đại diện cổ đông lớn vốn thiếu kiến thức, kinh nghiệm… tham gia vị trí điều
hành. Nhiều NHTM quản trị không tốt dẫn đến nhiều chi nhánh, phòng giao dịch

đã vi phạm các quy định của NHNN, gây thiệt hại cho ngân hàng và làm mất uy
tín đối với khách hàng. Bên cạnh đó, mặc dù nhiều NH đã đầu tư nâng cao công
nghệ nhưng chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn hạn chế nên không thể sư dụng
hiệu quả các công nghệ hiện đại hiệu quả.
2.6. Chữ tín trong kinh doanh
Hầu hết các NHTM Việt Nam uy tín thấp, cho nên nếu mở cửa thì các NHTM sẽ
bị cạnh tranh gay gắt ngay thị trường trong nước chưa nói tới việc vươn ra thị
trường nước ngoài. Vì vậy, việc nâng cao chữ tín trong kinh doanh nhất là trong
lĩnh vực dịch vụ là vô cùng quan trọng và cần thiết.
PHẦN 3: GIẢI PHÁP
3.1. Xử lý nợ xấu, nợ quá hạn.
Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có bản đề xuất các giải
pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.
Giải pháp đầu tiên mà VAFI đề xuất là các ngân hàng chủ động tăng mức trích lập
dự phòng các khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này,
theo VAFI, sẽ giúp ngân hàng thương mại nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số
thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời, có thể giảm quỹ lương nhưng làm tăng
khả năng tài chính nội tại của ngân hàng.
Thứ 2, các ngân hàng cần có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý trong giai
đoạn khó khăn này. Cách thức này giúp giảm chi phí một cách hợp lý nhằm hỗ trợ
cho việc tăng mức trích lập dự phòng tỷ lệ nợ xấu.
Thứ 3, Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương pháp.
Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa
vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có
thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ
thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển.
Phương pháp thứ hai là chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời,
chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần
nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Theo
lý giải của VAFI, đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới . Đối

với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, không
những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn
được nguồn vốn của các ngân hàng.
Để các điều kiện cơ bản để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, theo
VAFI, trong vai trò đồng chủ nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao tính cộng
đồng hơn nữa, phối hợp với doanh nghiệp để xử lý nợ xấu. Đồng thời, các ngân
hàng nên sử dụng các công ty con của mình như công ty quản lý mua bán nợ, công
ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ để tham gia chủ động vào tiến trình
chứng khoán hóa.
Giải pháp xử lý nợ xấu thứ 3, ngân hàng cần tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài trong ngành ngân hàng lên 40%. Đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu
của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài lên mức 25% hoặc 30% vốn điều lệ.
Thứ năm, Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiểm lực tài
chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những nhà băng yếu kém. Những
ngân hàng yếu kém, theo định nghĩa của VAFI, là những ngân hàng có quản trị
kinh doanh yếu kém, có tỷ lệ nợ xấu rất cao.
Giải pháp thứ 6, Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thật sự
mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém. Tuy nhiên, việc mua lại này cần sự hỗ
trợ từ tài chính từ phía Ngân hàng nhà nước.
Thứ 7, miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế Thu nhập doanh nghiệp…) cho các
hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường
mua bán nợ. VAFI cho rằng, việc miễn các loại thuế về hoạt động mua bán nợ sẽ
làm giảm tổn thất về nợ xấu, thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị
trường mua bán nợ. Đồng thời, thực hiện giải pháp này sẽ không làm tốn kém
ngân sách nhà nước.
Thứ 8, Nhà nước cần miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành
trái phiếu doanh nghiệp. Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính cho rằng, điều này giúp
giảm lãi suất huy động, và giúp hệ thống ngân hàng thương mại có điều kiện huy
động vốn dài hạn, thay vì ngắn hạn, đồng thời thúc đẩy tiến trình chứng khoán hóa
các khoản nợ.

Phá băng thị trường bất động sản là giải pháp thứ 9 được VAFI đưa ra. Hiệp hội
này lý giải, trong giai đoạn hiện nay vẫn còn hàng triệu người chưa có khả năng
mua nhà, nếu giá nhà chỉ ở mức vài trăm triệu đồng một căn thì nhu cầu thực tế là
rất lớn. Vì thế, nhà nước cần nhanh chóng biến sáng kiến căn hộ nhỏ tối thiểu 25
m2 thành hiện thực.
Đồng thời, theo VAFI, Nhà nước nên giảm 50% thuế GTGT trong các ngành kinh
tế đang gặp khó khăn như xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh bất
động sản, sửa chữa tàu biền, vận tải biển nội địa, cơ khí.
Giải pháp cuối cùng, thứ 10, Nhà nước nên cơ cấu lại phân bổ ngân sách cho năm
2013 theo hướng tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. Không
nên đặt mục tiêu tăng thâm hụt ngân sách mà phải là tăng chi ngân sách cho lĩnh
vực phát triển cơ sở hạ tầng trên cơ sở giảm chi ở các ngành lĩnh vực chưa cấp
thiết.
Nhiều chuyên gia cho rằng, xử lý nợ xấu là việc nên quyết định và hành động
nhanh để tránh những hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước cũng
hứa sẽ đưa ra những biện pháp cụ thẻ trong năm nay để trình Chính phủ.
3.2. Tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả.
Thực tế cho thấy tiềm năng huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư là rất lớn vì tỷ lệ
thanh toán bằng tiền mặt hiện nay còn rất cao. Vì vậy, tăng cường huy động vốn
sẽ giúp cho các ngân hàng phát triển ổn định.
Bên cạnh đó, cần chú trọng tăng huy động vốn trung và dài hạn thông qua kênh
phát hành các công cụ tài chính. Trên thị trường tài chính trong nước, có thể phát
hành trái phiếu có khả năng chuyển đổi - Đây là hình thức huy động vốn linh
hoạt vì sẽ chủ động được kỳ hạn và quy mô vốn. Trên thị trường tài chính quốc
tế có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu vì với xu thế hội nhập thì thị trường ngân
hàng trong nước là địa điểm đầu tư khá hấp dẫn đối với NHTM nước ngoài.
Từ năm 2013 đến năm 2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ tập trung vào
nâng cao các hiệu quả an toàn, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và củng cố, nâng
chất lượng hoạt động quản trị. Đặc biệt, Chính phủ sẽ tập trung xây dựng các
nhóm ngân hàng lành mạnh, có đủ sức làm trụ cột cho hoạt động ngân hàng

trong nước và phấn đấu để có thể có từ 1-2 ngân hàng đạt tiêu chuẩn khu vực.
Về sử dụng vốn, không nên đặt mục tiêu tín dụng là hoạt động chủ yếu trong sử
dụng vốn của ngân hàng vì có nguy cơ rủi ro, làm cho thu nhập của ngân hàng
giảm sút do bị thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay vì
canh tranh gay gắt. Do vậy, nên mở rộng hình thức sử dụng vốn khác như thuê
mua tài chính, liên doanh liên kết, bao thanh toán, tài trợ xuất khẩu, bảo lãnh cho
các công ty phát hành trái phiếu dài hạn…
3.3. Sử dụng thận trọng, hợp lý việc mua bán và sáp nhập các ngân hàng.
Thực tế năng lực quản trị các NHTM Việt Nam yếu kém như hiện nay thì việc
sáp nhập nhiều ngân hàng thành một ngân hàng lớn chưa chắc là giải pháp làm
cho năng lực quản trị sẽ tốt hơn mà thậm chí còn yếu đi. Điều này đã đươc thể
hiện rõ trong kỳ nhưng năm 2006 và 2007, khi hàng loạt NHTMCP nông thôn
chuyển đổi mô hình, mở rộng quy mô nhưng đa phần chính các ngân hàng này là
các ngân hàng yếu kém trong hệ thống. Mặt khác khi hình thành một ngân hàng
có quy mô lớn trong khi hoạt động không hiệu quả thì NHNN sẽ gặp nhiều khó
khăn trong quản lý, thậm chí khi ngân hàng này sụp đổ, khả năng đổ vỡ của hệ
thống sẽ cao hơn nhiều so với trường hợp của ngân hàng nhỏ. Và việc hợp nhất
hay mua bán các ngân hàng không làm tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài
sản… Do đó tuy việc sáp nhập các ngân hàng lại là việc cần thiết hiện nay nhưng
phải hết sức thận trọng.
3.4. Cần minh bạch thông tin về NHTM
Các báo cáo tài chính và thông tin do các NHTM cung cấp hiện nay được đánh
giá là không đạt yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, đã ảnh hưởng tới các
quyết định kinh tế của nhà đầu tư, người gửi tiền và khách hàng vay vốn. Chính
sự thiếu minh bạch trong công bố thông tjin đã khiến cho các NHTM thực hiện
các biện pháp lách luật, làm ảnh hưởng tới hiệu quả thực thi các chính sách của
NHNN và sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các ngân hàng trong hệ thống.

×