Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Địa Đồ Duyên Hải Miền Trung - Sông Trà phần 1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 117 trang )



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
1




ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI





ðỊA CHÍ
QUẢNG NGÃI








Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
2

BAN CHỈ ðẠO BIÊN SOẠN
BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY QUẢNG NGÃI



*

CỐ VẤN HỘI ðỒNG BIÊN SOẠN

PGS. TRẦN NGHĨA
GS. TS. PHAN NGỌC LIÊN

*

HỘI ðỒNG BIÊN SOẠN

TS. NGUYỄN KIM HIỆU
Chủ tịch Hội ñồng
NGUYỄN HOÀNG SƠN
Phó Chủ tịch Hội ñồng
HOÀNG NAM CHU
Phó Chủ tịch Hội ñồng
PHẠM ðÌNH PHÚC
Ủy viên Thường trực Hội ñồng
CAO CHƯ
Ủy viên Thường trực Hội ñồng
LÊ HỒNG KHÁNH
Ủy viên Hội ñồng
TS. VÕ TUẤN NHÂN
Ủy viên Hội ñồng
THANH THẢO
Ủy viên Hội ñồng
TS. NGUYỄN ðĂNG VŨ
Ủy viên Hội ñồng










Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
3

PHÂN CÔNG BIÊN SOẠN

Phần I: ðịa lý hành chính, tự nhiên và dân cư
VÕ TUẤN NHÂN (Biên soạn chính)
ðOÀN NGỌC KHÔI - VÕ VĂN TOÀN - KIỀU QUÝ CẢNH
TRẦN NGỌC BÌNH - NGUYỄN TẠ QUYỀN - TRẦN CÔNG HOÀ

Phần II: Truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
LÊ HỒNG KHÁNH (Biên soạn chính)
TRƯƠNG CÔNG HUỲNH KỲ - TẠ THANH

Phần III: Kinh tế
PHẠM ðÌNH PHÚC (Biên soạn chính)
PHẠM VĂN SƠN - LÊ HẠNH - PHAN HUY HOÀNG
NGUYỄN KHOA THÀNH - CAO CHƯ - NGUYỄN AN
LÊ ðÔNG THUỶ - TẠ THANH


Phần IV: Văn hoá - xã hội
THANH THẢO - NGUYỄN ðĂNG VŨ
(Tổ chức bản thảo, Biên soạn chính)
VÕ TUẤN NHÂN - TRƯƠNG LÊ HOÀI VŨ
LÊ VĂN SƠN - NGUYỄN XUÂN DŨNG
NGUYỄN DIÊN XƯỚNG - ðOÀN NGỌC KHÔI
HỒNG NHÂN - TRƯƠNG CÔNG HUỲNH KỲ
LÝ VĂN HIỀN - TRẦN BÁ PHƯỚC - HUỲNH THẾ
CÙ ðÌNH HÒA - NGUYỄN XUÂN MẾN - BÙI NAM
(Cộng tác viên)

Phần V: Thành phố Quảng Ngãi và các huyện trong tỉnh
CAO CHƯ
(Biên soạn chính)
HỒNG NHÂN - TRẦN VĂN THẬN
DƯƠNG THỊ HẢO - CAO THỊ HỒNG HẠNH




Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
4

L
LL
L
ời nói ñầu
QUẢNG NGÃI - quê hương của nhà cách mạng, nhà văn hóa lớn Phạm Văn
ðồng - là một mảnh ñất giàu truyền thống yêu nước, hiếu học, ñoàn kết, lao ñộng

cần cù, sáng tạo. Tiếp xúc với tiến trình phát triển của ñất Quảng Ngãi theo suốt
chiều dài lịch sử, người ta không khỏi ngạc nhiên bởi những ñóng góp của mảnh
ñất này vào sự phát triển kinh tế xã hội - văn hóa của cộng ñồng các dân tộc Việt
Nam.
Nơi ñây các nhà khảo cổ học ñã tìm ñược nhiều hiện vật về thời kỳ ñồ ñá, chứng
tỏ mảnh ñất này từng có con người sinh tụ và ñã có sự hiện diện của một nền văn
minh từ thời thượng cổ. Quảng Ngãi là nơi phát hiện ñầu tiên, cũng là cái nôi của
nền văn minh - văn hóa Sa Huỳnh, có niên ñại cách nay 2.500 - 3.000 năm, với
những di chỉ hết sức phong phú ở Sa Huỳnh, Thạnh ðức, Lý Sơn. Kế tiếp Văn hóa
Sa Huỳnh là Văn hóa Chămpa với kiến trúc thành Châu Sa, tháp Chánh Lộ quy
mô, bề thế, mang một phong cách riêng, cùng nhiều di chỉ, di tích khác có niên ñại
cách ñây hàng ngàn năm.
Kế sau Chămpa, văn hóa Việt trở thành dòng chủ ñạo của nền văn hóa ña dân
tộc, tiếp tục phát triển từ thế kỷ XV trở về sau. Trong sự giao thoa, chuyển tiếp với
Văn hóa Chămpa, sự giao lưu văn hóa với các dân tộc anh em bản ñịa miền núi là
các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong, pha trộn với người Hoa và một số dân tộc khác,
ñã nhào nặn nơi ñất này một sắc thái văn hóa khá ñộc ñáo, góp phần làm phong
phú cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Trải qua những thời kỳ lịch sử lâu dài, lam sơn chướng khí bị ñẩy lùi, hình
thành nên làng mạc, ruộng ñồng, kênh mương, nhà cửa, cây ña, bến nước, ñình
làng, thành quách, phố xá, nơi lưu dấu biết bao mồ hôi, xương máu, nước mắt và
nụ cười của lớp lớp thế hệ chủ nhân ñất Quảng Ngãi.
Các dân tộc ở Quảng Ngãi là người dân Việt Nam, mang ñặc tính chung của
người Việt Nam và với sự nỗ lực của mình, người Quảng Ngãi ñã góp phần tô ñậm
những nét ñẹp quý báu của người Việt Nam. Qua thử thách trong môi trường tự
nhiên và xã hội khắc nghiệt, người Quảng Ngãi ñã rèn ñúc cho mình thêm sự cứng
cỏi, dẻo dai, không chỉ có sức chịu ñựng mà còn ñủ ý chí, nghị lực, sức sáng tạo ñể
cải biến tự nhiên, xây dựng xã hội ngày càng tốt ñẹp hơn.
Ngược dòng lịch sử, vào thế kỷ XVIII, cùng với Bình ðịnh, Quảng Ngãi cũng
ñược xem là cái nôi của phong trào nông dân Tây Sơn ngay từ khi nó mới khởi

phát và sau ñó ñã có những ñóng góp không nhỏ vào các cuộc chống ngoại xâm
của dân tộc, tạo lập nên các chiến công oanh liệt ñánh tan quân Xiêm, ñại phá
quân Thanh. Quảng Ngãi là quê hương của Trần Quang Diệu, Trương ðăng ðồ


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
5

và nhiều vị văn thần, võ tướng khác của nhà Tây Sơn. Thời Pháp khởi sự xâm lược
Việt Nam, Quảng Ngãi có Hộ ñốc Võ Duy Ninh là vị chỉ huy cao cấp ñầu tiên của
triều ñình Huế tử tiết vì thành Gia ðịnh (1859); tiếp sau có Bình Tây ðại nguyên
soái Trương ðịnh trở thành một thủ lĩnh nghĩa quân Nam Kỳ chống Pháp. Sau
ngày Kinh ñô Huế thất thủ (1885), Quảng Ngãi là nơi phất cờ khởi nghĩa Cần
vương chống Pháp ñầu tiên ở Nam Trung Kỳ, dưới sự lãnh ñạo của Lê Trung
ðình, Nguyễn Tự Tân và mặc dù bị kẻ ñịch dìm trong bể máu, phong trào Cần
vương ở Quảng Ngãi vẫn liên tục tồn tại hàng chục năm sau. ðầu thế kỷ XX,
Quảng Ngãi ghi dấu vào lịch sử Việt Nam bằng những hoạt ñộng mạnh mẽ, tích
cực của Duy tân Hội, với các chí sĩ yêu nước Lê ðình Cẩn, Nguyễn Bá Loan, Lê
Tựu Khiết… ñặc biệt là phong trào cự sưu, khất thuế rầm rộ, có tiếng vang trong
khắp cả nước thời bấy giờ. Mặc dù bị kẻ ñịch ñàn áp khốc liệt, nhiều nhà yêu nước
và quần chúng bị ñịch giết hại, tù ñày nhưng phong trào yêu nước ở Quảng Ngãi
vẫn ñược tiếp nối với Việt Nam Quang phục Hội, xuất hiện hàng loạt chí sĩ, như Lê
Ngung, Nguyễn Thụy, Phạm Cao Chẩm trong cuộc khởi nghĩa bất thành năm
1916. Các phong trào, hoạt ñộng yêu nước cuối thế kỷ XIX, ñầu thế kỷ XX tuy bị
ñàn áp ñẫm máu, khốc liệt, nhưng lòng yêu nước của người dân Quảng Ngãi
không vì thế mà bị dập tắt, nguội lạnh; ngược lại, nó ñã liên tục bùng lên mạnh
mẽ, nhất là sau khi Ðảng Cộng sản Việt Nam rồi ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi ñược
thành lập. Tiếng trống ðức Phổ vang ñộng ngay từ năm 1930 ñã lan ra toàn tỉnh.
Người Bí thư ñầu tiên của ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi là ñồng chí Nguyễn Nghiêm

hy sinh, nhưng cuộc ñấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát
triển. Nhiều cán bộ Quảng Ngãi cũng góp sức cho phong trào cách mạng ở các
tỉnh bạn, nhất là các tỉnh Nam Trung Kỳ. Nhiều chiến sĩ cộng sản xuất hiện như
những tấm gương sáng ngời trong ñấu tranh cách mạng. Quảng Ngãi là nơi bùng
nổ của Khởi nghĩa Ba Tơ và thành lập ðội du kích Ba Tơ - tiền thân của lực lượng
vũ trang Liên khu V. Trong Cách mạng tháng Tám, Quảng Ngãi là nơi diễn ra
cuộc Tổng khởi nghĩa sớm trong cả nước (14.8.1945) và trở thành cái nôi của
vùng tự do Liên khu V trong kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, Quảng Ngãi có những sự kiện quan trọng như cuộc Khởi nghĩa Trà
Bồng và miền Tây Quảng Ngãi tháng 8.1959, Chiến thắng Ba Gia 31.5.1965,
Chiến thắng Vạn Tường 18.8.1965, ñánh dấu ñược những chiến công huy hoàng;
ñồng thời, Quảng Ngãi cũng là nơi chịu nhiều ñau thương mất mát, ñiển hình là vụ
thảm sát Sơn Mỹ 16.3.1968, làm chấn ñộng dư luận thế giới và lương tâm loài
người.
Trải qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, Quảng Ngãi ñã xuất hiện biết bao tấm
gương hy sinh vì nước, rèn ñúc ñược nhiều nhà lãnh ñạo, nhiều vị tướng lĩnh tài ba
thao lược, như Nguyễn Chánh, Trần Văn Trà, Phạm Kiệt, Trần Quý Hai, Trần
Nam Trung, Nguyễn ðôn… và nổi bật là ñồng chí Phạm Văn ðồng, người hiến
dâng cả cuộc ñời cho cách mạng và ñể lại dấu ấn sâu ñậm trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam trong suốt nhiều thập niên của thế kỷ XX.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
6

Quảng Ngãi không chỉ nổi bật ở truyền thống yêu nước và cách mạng, mảnh ñất
này còn nổi bật ở truyền thống lao ñộng sáng tạo, truyền thống văn hóa, tinh thần
hiếu học.
Từ nhiều thế kỷ trước, hàng trăm guồng xe nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ

ñã ñược xây dựng kỳ vĩ giữa non sông, khiến khách qua ñây không khỏi ngạc
nhiên, khâm phục và liên tưởng ñến hình ảnh của sự nhẫn nại, ñức cần cù và tiềm
năng sáng tạo lớn lao của người dân miền Ấn - Trà. Từ một vùng quê nhiều giông
bão, lũ lụt, hạn hán, bằng bàn tay và khối óc của mình, con người nơi ñây ñã cải
biến cả vùng ñất thiên nhiên khắc nghiệt này thành nơi ñất lành. Sản vật của tự
nhiên qua bàn tay con người ñã trở thành những món ăn ñậm phong vị quê hương.
Từ loài cá bống, cá thài bai nhỏ nhoi trên sông Trà mà khiến người nơi xa phải
nhớ. Từ loài nhuyễn thể vùng nước lợ mà thành món don ñậm hương quê nhà.
Quảng Ngãi còn nổi tiếng là xứ sở mía ñường, là nơi sản xuất ñường phèn, ñường
phổi, kẹo gương, mạch nha và rất nhiều món ăn ñặc sản khác. Ở miền núi thì có ốc
ñá, cá niêng, có rượu ñót, rượu cần. Ở hải ñảo thì có hải sâm và nhiều loài hải sản
mặn mà vị biển. ðồng bằng có vị ngọt của mía thì miền núi có vị thơm nồng của
quế Trà Bồng, vị thơm cay của cau Sơn Hà, Sơn Tây, vị ngọt chát của chè Minh
Long, vị ngọt lịm của dứa Ba Tơ.
Vượt lên những lo toan cơm áo hằng ngày, người Quảng Ngãi biết tạo dựng nhà
rường, nhà lá mái ở miền xuôi, nhà sàn ở miền núi. Những câu ca dao, ñiệu hò,
ñiệu lý, hát bả trạo, sắc bùa, bài chòi ở miền xuôi; những khúc dân ca, dân nhạc
miền núi; những lễ hội… cùng tạo cho cuộc sống người dân ñất này thêm phần
ñáng yêu và mang nhiều dáng nét riêng. Quảng Ngãi là nơi sinh thành của một số
nhà thơ, của các nghệ sĩ lớn của ñất nước. Quảng Ngãi nổi tiếng là ñất học từ xưa
với nhiều nhà khoa bảng Nho học, sang thời kỳ Tân học và nền giáo dục cách
mạng càng nổi lên truyền thống hiếu học với nhiều người học giỏi, nhiều người trở
thành những nhà học thuật nổi tiếng trong nước.
Từ sau khi ñất nước hòa bình, thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ
sau khi ðảng Cộng sản Việt Nam chủ trương ñổi mới (1986), mở cửa hội nhập khu
vực, quốc tế, Quảng Ngãi ñã có những bước phát triển căn bản về nhiều mặt.
Quảng Ngãi ñã hoàn thành công trình ñại thủy nông Thạch Nham, tưới cho
50.000ha ñất canh tác, tạo nên một sức bật mới cho kinh tế nông nghiệp của tỉnh.
Các Khu công nghiệp Quảng Phú, Tịnh Phong hình thành. ðặc biệt, Khu Kinh tế
Dung Quất trong vùng kinh tế trọng ñiểm miền Trung ñược xây dựng, tạo ra một

bước ñột phá mới cho kinh tế của tỉnh. Thị xã Quảng Ngãi ñã trở thành thành phố
trực thuộc tỉnh. Các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng phát triển. Lĩnh
vực văn hóa - xã hội cũng có nhiều chuyển biến ñi lên. ðời sống mọi mặt của
người dân Quảng Ngãi ngày càng ñược nâng cao.
Sự phát triển sinh ñộng, phong phú về nhiều mặt của Quảng Ngãi trong sự phát
triển chung của ñất nước là thuận lợi rất lớn nhưng ñồng thời tự thân nó cũng là
một thử thách không nhỏ ñối với người nghiên cứu. Vấn ñề ñầu tiên mà những


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
7

người thực hiện tự hỏi là mình nghiên cứu như thế là ñã ñúng, ñầy ñủ, tương xứng,
phù hợp với hiện thực của Quảng Ngãi trong quá khứ và hiện tại hay chưa? ðây
lại là công trình ñịa chí Quảng Ngãi ñầu tiên kể từ sau Cách mạng tháng Tám ñến
nay. Hiểu ñược những khó khăn ấy, ñể các nhà nghiên cứu thực hiện tốt nhiệm vụ
của mình, Hội ñồng Biên soạn công trình ñã bàn bạc, ñề ra nhiều giải pháp, biện
pháp thực hiện ñúng ñịnh hướng và có hiệu quả theo chỉ ñạo của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy. Hội ñồng ñã mời Phó Giáo sư Trần Nghĩa, Giáo sư Phan Ngọc Liên làm
cố vấn chuyên môn và giúp chỉnh biên toàn bộ công trình; ñã mời các nhà nghiên
cứu, các cán bộ có chuyên môn vững trong tỉnh và trong nước hình thành các tổ
tham gia nghiên cứu, biên soạn các phần của công trình. Một khối lượng công việc
rất lớn, nhưng quỹ thời gian và ñiều kiện lại rất có hạn. Trong hai năm 2004 -
2005, những người thực hiện ñã làm việc cật lực ñể công trình hoàn thành ñúng
tiến ñộ, ñảm bảo chất lượng. Cho ñến cuối năm 2005, công trình ñã cơ bản hoàn
thành khối lượng như kế hoạch ñề ra, kịp ra mắt chào mừng ðại hội ðảng bộ tỉnh
Quảng Ngãi lần thứ XVII.
"ðịa chí Quảng Ngãi" là một công trình khoa học lớn của tỉnh nhà, với rất
nhiều nội dung, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. ðối với loại công trình như thế này,

bản thân những người nghiên cứu dù ñã hết sức cố gắng vẫn không dám quả quyết
rằng mọi thứ ñều ñã tốt ñẹp. Dù ñã nghiên cứu nghiêm túc, nhưng cho ñến sau khi
xuất bản, công trình vẫn rất cần sự chỉnh sửa, bổ khuyết, rất cần sự ñóng góp chân
thành của ñộc giả ñể ngày càng tiến ñến hoàn thiện.
Thay mặt Hội ñồng Biên soạn công trình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Ban Chỉ
ñạo công trình, cảm ơn các cơ quan, ñơn vị, cá nhân, ñịa phương ñã hết sức giúp
ñỡ, ñặc biệt cảm ơn các nhà nghiên cứu ñã không quản gian khó, ñem hết tâm lực
của mình ñể công trình ñạt kết quả cao nhất.
TS. NGUYỄN KIM HIỆU
Chủ tịch Hội ñồng Biên soạn


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
8

Phàm lệ
I. VỀ DANH XƯNG (TÊN GỌI) CÁC DÂN TỘC
Tỉnh Quảng Ngãi là ñịa bàn cư trú lâu ñời của 4 dân tộc anh em Việt (Kinh),
Hrê, Cor, và Ca Dong. Do nhiều nguyên nhân, cách gọi tên và cách viết tên các
dân tộc có tình trạng không thống nhất. Trong ðịa chí Quảng Ngãi, chúng tôi
thống nhất viết tên các dân tộc như sau: 1) Dân tộc Việt; 2) dân tộc Hrê; 3) Dân tộc
Cor; 4) Dân tộc Ca Dong.
Ngoài ra, các từ "Kinh", "Thượng" cũng ñược sử dụng khi ñề cập ñến quan hệ
giữa dân tộc chiếm ña số cư dân (người Việt, sống chủ yếu ở vùng ñồng bằng) và
cộng ñồng các dân tộc thiểu số anh em sống chủ yếu ở miền núi, vùng cao.
Cách gọi như trên hiện nay ñã trở nên phổ biến trong giao tiếp giữa các dân tộc,
sử dụng trong các văn bản hành chính, tài liệu và phương tiện thông tin ñại chúng
ở Quảng Ngãi, ñồng thời ñược ñồng bào các dân tộc thừa nhận. ðể tiện cho việc
tìm hiểu, tra cứu của ñông ñảo bạn ñọc và các nhà chuyên môn, những cách gọi

khác cũng như nhiều vấn ñề liên quan ñến các dân tộc anh em ở Quảng Ngãi,
chúng tôi trình bày cụ thể tại chương VI, phần I của ðịa chí Quảng Ngãi.
Các dân tộc trên ñây sẽ ñược trình bày theo thứ tự về quy mô dân số; dân tộc có
số dân ñông hơn sẽ giới thiệu trước, dân tộc có số dân ít hơn sẽ giới thiệu sau, cụ
thể là: Việt, Hrê, Cor, Ca Dong. Trường hợp ñề cập ñến một dân tộc cụ thể trong
mối quan hệ với các dân tộc khác, thì dân tộc này ñược nêu trước, các dân tộc có
quan hệ sẽ nêu sau, tùy văn cảnh cụ thể.
II. VỀ NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
ðịa chí Quảng Ngãi không sử dụng những chữ viết tắt, khi cần thiết chỉ viết tắt
những cụm từ ñã trở nên thông dụng, quen thuộc trong phạm vi cả nước, ñược
cộng ñồng sử dụng quốc ngữ chấp nhận, như tên gọi viết tắt chính thức của các tổ
chức quốc tế, hoặc tên gọi ñối ngoại của các tổ chức trong nước (ASEAN,
UNICEF, UNESCO, VIETCOMBANK,…) ñược sử dụng như tên gọi chính thức
của tổ chức ñó.
III. VỀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
Mục "Tài liệu tham khảo" ở cuối sách liệt kê các tài liệu, sách, văn bản, báo, tạp
chí… (gọi chung là tài liệu) ñược các tác giả tham khảo trong quá trình biên soạn
ðịa chí Quảng Ngãi.
Sách tham khảo ñược sắp xếp theo thứ tự A, B, C, ñược ghi rõ các yếu tố (nếu
có) như: tên tác giả (hoặc nhóm tác giả); tên tác phẩm; tên nhà xuất bản (hoặc cơ


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
9

quan xuất bản); tên nơi xuất bản; năm xuất bản; số tập (nếu là tác phẩm nhiều tập);
số kỳ (nếu là tạp chí), vv.
Báo, tạp chí dùng tham khảo viết theo thứ tự tên báo (tạp chí, ñặc san, chuyên
san), số, ngày, tháng, năm phát hành, ñịa ñiểm phát hành.

Nếu tác phẩm có nhiều người viết thì ở mục tác giả có thể ghi ñủ tên các tác giả
(nếu không quá 3 người), hoặc chỉ ghi tên người chủ biên (hoặc chủ trương), tiếp
theo ñó là cụm từ "và nhiều người khác".
Trường hợp tên cơ quan xuất bản ñã chỉ ñịnh ñịa phương nơi xuất bản (ví dụ Uỷ
ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xuất bản; Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh,…) thì có thể loại bớt phần tên tỉnh, thành phố nơi ñóng trụ sở cơ quan
xuất bản, nhà xuất bản.
Ngoài ra, các tác phẩm chỉ dùng tham khảo chuyên biệt trong phạm vi một
chương thì không liệt kê vào mục "Tài liệu tham khảo" mà chỉ chú thích ngay phía
dưới trang sách. Thứ tự kê cứu nguồn chú thích như mục "Tài liệu tham khảo"
nhưng ghi rõ số trang ở cuối dòng chú thích (nếu là sách, tài liệu có ñánh số trang)
hoặc mục (nếu tác phẩm không kê số trang). Trường hợp chú thích là của tác phẩm
dẫn nguồn thì ñánh dấu hoa thị (*) và ghi rõ tên nguồn có chú thích.
IV. VỀ PHIÊN ÂM
Trừ một số thuật ngữ mang tính chuyên môn sâu, tất cả các từ nước ngoài còn
lại (kể cả tên người, tên ñất) ñều ñược phiên âm sang quốc ngữ. ðối với các ngôn
ngữ ña âm (tiếng Anh, tiếng Pháp,…), các âm tiết trong một từ khi phiên âm ñều
viết liền nhau, liền sau từ phiên âm là từ gốc, ñược viết trong ngoặc ñơn, ví dụ
Giơnevơ (Genève), ðờ Gôn (De Gaule)… ðối với các từ lặp lại nhiều lần thì chỉ
chuẩn từ gốc vào lần ñầu tiên. Các ngôn ngữ sử dụng mẫu tự Xlavơ (Slave) như
tiếng Nga, tiếng Hungari thì khi cần viết lại từ gốc sẽ chuyển sang mẫu tự Latinh
(Latin) theo thông lệ quốc tế. ðối với tiếng Hán hiện ñại (tiếng Trung Quốc) thì
việc phiên âm (thường là tên người, tên ñất) dùng cách phiên âm Latinh theo cách
phiên âm ñược Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chấp nhận.
V. VỀ CÁCH VIẾT HOA
Theo thông lệ, ðịa chí Quảng Ngãi viết hoa tất cả các thành phần cấu tạo ñịa
danh, nhân danh; ví dụ: Quảng Ngãi, Ba Tơ, Ba Làng An… (ñịa danh); Mai Bá,
Phạm Văn ðồng, Lê Trung ðình, Trịnh Thị Tuyết Anh… (nhân danh). ðối với các
danh từ chung ñặt trước ñịa danh khi ñịa danh ấy dùng ñể gọi tên thì không viết
hoa; ví dụ: sông Vệ, sông Rinh, núi Ấn… (ñịa hình thiên nhiên); chợ Mới, cầu

Cháy, ngã ba Thạch Trụ, ñường Lê Ngung… (công trình xây dựng); thôn 1, thành
phố Quảng Ngãi, huyện Lý Sơn… (ñơn vị hành chính); vùng An Ba, khu vực Dung
Quất, chòm Miếu Bà… (một khu vực không có ranh giới rõ rệt).


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
10

Thành phần nằm sau danh từ của một kết hợp từ kiểu Hán - Việt hiện còn sử dụng
hạn chế, cũng không viết hoa, ví dụ: Trà giang, Ấn sơn…; nhưng khi thành phần này
ñã chuyển ñổi thành danh từ riêng (ñịa danh) thì viết hoa, ví dụ: sông Bàu Giang,
núi Dương Sơn…
Viết hoa các thành phần cấu tạo ñịa danh vốn ban ñầu chỉ có tác dụng phân biệt,
nhưng về sau ñã chuyển ñổi thành bộ phận của ñịa danh, ví dụ: ðại An ðông, Tịnh
Ấn Tây, Thi Phổ Nhất,…
Viết hoa tên cụ thể của các cơ quan, ñơn vị, mặc dù gốc từ là danh từ chung, ví
dụ Hội Nông dân tỉnh Quảng Ngãi, Trường Cao ñẳng Tài chính - Kế toán…

VI. VỀ SẮP XẾP THỨ TỰ CÁC ðƠN VỊ HUYỆN, THÀNH PHỐ TRỰC
THUỘC TỈNH
Khi liệt kê tên hoặc trình bày nội dung về các huyện, thành phố trực thuộc tỉnh,
ðịa chí Quảng Ngãi sắp xếp theo thứ tự: ñầu tiên là thành phố Quảng Ngãi (tỉnh
lỵ), tiếp theo là các huyện ñồng bằng, rồi ñến các huyện miền núi (kể từ Bắc vào
Nam), sau cùng là huyện ñảo Lý Sơn.
VII. VỀ ẢNH TƯ LIỆU
Tranh ảnh minh họa trong ðịa chí Quảng Ngãi ñược lấy từ các nguồn như cơ
quan lưu trữ trung ương và ñịa phương, tài liệu nước ngoài, kể cả một số tư liệu
cá nhân hoặc tập thể, tất cả ñều ñược ghi rõ xuất xứ. Cụ thể, nguồn ảnh tư liệu có
thể chia thành hai nhóm: 1) Ảnh của các tác giả: Nguyễn Ngọc Trinh, ðăng Lâm,

ðăng Vũ, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Hy, Lê Văn Sơn, Lý Văn Hiền, Cao Chư,
Thanh Long, Huỳnh Thế, Hồng Khánh, Trần ðăng, ðặng Tùng, ðoàn Ngọc Khôi
và các tác giả khác; 2) Ảnh tư liệu của các cơ quan, tổ chức: Thông tấn xã Việt
Nam, Tạp chí Cẩm Thành, Bảo tàng Tổng hợp Quảng Ngãi, Bảo tàng Chăm ðà
Nẵng, Trung tâm Văn hoá - Thông tin Quảng Ngãi, vv.
Ngoài những vấn ñề ñã nêu, trong từng phần, từng chương nếu có biệt lệ thì có
chú thích cụ thể ở ngay phía dưới trang sách ñể người ñọc tiện theo dõi.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
11

Tổng luận
về “ðịa chí Quảng Ngãi ”
ðể làm nền cho một cái nhìn toàn cảnh về "ðịa chí Quảng Ngãi", hãy nói một
chút về khái niệm ñịa chí, các loại ñịa chí và lịch sử ñịa chí Việt Nam.
NGHĨA CHỮ "ðỊA CHÍ"
"ðịa chí" là gì? Xét theo nghĩa gốc thì "ñịa" (地) là ñịa, "chí" (志 ,誌) là ghi
chép; "ñịa chí" là ghi chép về ñịa. Nhưng thế nào là "ñịa"? Trong tiếng Việt, "ñịa"
và "thổ" (土) thường ñược dịch chung là ñất. ðiều này làm lu mờ sự khác nhau
về ngữ nghĩa của chúng. Trong tiếng Hán, nếu "thổ" chỉ có mỗi một cách viết là
土, phác họa hình một ñống ñất ñược tuyến hóa, thì "ñịa" lại có ñến 6 ký tự là , ,
, , và 地. Ngoại trừ "地", dạng cuối cùng của chữ "ñịa" ñược cấu tạo theo
kiểu hình thanh, các trường hợp còn lại ñều cấu tạo theo kiểu hội ý: " " gồm
sơn (núi) + thủy (nước) + thổ (ñất); " " gồm phụ (gò) + thỉ (lợn) + thổ (ñất);
" " gồm phụ (gò) + phương (bang, quốc) + thổ (ñất); " " gồm nhân (người) +
lưỡng thỉ (hai con lợn, viết bớt nét) + thổ (ñất); " " gồm sơn (núi) + thỉ (lợn) +
lưỡng thổ (hai ñống ñất). Có thể thấy trong quan niệm người xưa, "ñịa" không chỉ

là ñất, mà còn bao gồm cả nhiều thứ liên quan ñến ñất như núi, nước, gò, lợn, bang
quốc, con người Những thành tố tạo nên chữ "ñịa" ở ñây phần lớn mang tính biểu
trưng. Thí dụ "thỉ" (lợn) ñại diện cho gia súc, kể cả các loài ñộng vật tồn tại trên quả
ñất nói chung. "Nhân" (người) ñại diện cho dân cư, chủng tộc. Chính bởi các lẽ trên
mà trong một số cuốn từ ñiển, "ñịa chí" ñược ñịnh nghĩa là "sách viết về ñịa dư;
phàm là phương vực, sơn xuyên, phong tục, sản vật ñều ñược ghi chép" (Từ
nguyên); hay "sách miêu thuật tường tận về ñịa hình, khí hậu, dân cư, chính trị, sản
vật, văn hóa của một nước hay một vùng miền" (Từ hải).
CÁC LOẠI "ðỊA CHÍ"
ðịa chí (về sau phát triển thành khoa học ñịa lý hay ñịa lý học, cách trình bày
tuy ít nhiều có khác, nhưng về tính chất thì cơ bản vẫn thống nhất với nhau, vì vậy
có thể gọi chung là ñịa chí) bao gồm nhiều loại:
Nếu lấy không gian làm tiêu chí ñể phân biệt, ta có ñịa chí thế giới, ñịa chí
châu lục, ñịa chí khu vực, ñịa chí quốc gia. Trong phạm vi ñịa chí quốc gia, lại
có thể chia thành ñịa chí toàn quốc (nhất thống chí) và ñịa chí ñịa phương (ñịa
phương chí). Trong ñịa chí ñịa phương lại còn có thể chia thành những ñơn vị
không gian nhỏ hơn nữa như: ñịa chí một tỉnh (tỉnh chí), ñịa chí một huyện
(huyện chí), ñịa chí một xã (xã chí), vv.
Nếu lấy thời gian làm tiêu chí ñể phân biệt, ta có ñịa chí cổ ñại, ñịa chí trung
ñại và ñịa chí hiện ñại. ðịa chí cổ ñại chủ yếu tìm hiểu về vị trí, hình dạng, kích
cỡ và cách thức miêu thuật các yếu tố ñịa lý. ðịa chí trung ñại (cuối thế kỷ
XVIII ñến ñầu thế kỷ XIX) ñặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ nhân quả giữa các


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
12

yếu tố ñịa lý. Còn ñịa chí hiện ñại thì từ chỗ miêu thuật ñịnh tính theo trạng thái
tĩnh vươn tới phân tích ñịnh lượng theo trạng thái ñộng, không ngoài mục ñích

trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố ñịa lý, từng bước lý giải và tạo lập sự hòa hợp
giữa con người và môi trường. Bởi vì vấn ñề ñang ñặt lên hàng "nghị trình"
không phải là con người kiểm soát thiên nhiên, mà là thiên nhiên kiểm soát con
người, con người phải biết cách "ăn ở" với thiên nhiên và mong ñược thiên
nhiên "phù hộ"!
Nếu lấy ñối tượng khảo sát làm tiêu chí, ta có ñịa chí tự nhiên và ñịa chí nhân
văn. ðịa chí tự nhiên nghiên cứu ñặc ñiểm, cấu trúc của môi trường ñịa lý, cùng sự
hình thành và diễn biến của các vùng hay tiểu vùng ñịa lý khác nhau. ðịa chí nhân
văn, dựa vào lý thuyết tương quan giữa con người và ñịa bàn cư trú, tìm hiểu sự
phân bố, thay ñổi của các hiện tượng nhân văn, cùng ảnh hưởng của chúng ñối với
hoạt ñộng xã hội của con người. Có thể chia ñịa chí nhân văn ra làm nhiều mảng
ñể tiếp cận như ñịa chí kinh tế, ñịa chí chính trị, ñịa chí dân cư, ñịa chí văn hóa xã
hội, vv.
LƯỢC SỬ ðỊA CHÍ VIỆT NAM
Trên thế giới, lịch sử ñịa chí ñược bắt ñầu từ rất sớm. Ở phương ðông, môn "ñịa
lý" ñã thấy nói tới trong Kinh Dịch: "Ngước lên ñể xem thiên văn, cúi xuống ñể xét
ñịa lý" (Hệ từ thượng). Tác phẩm ñịa chí cổ nhất Trung Quốc là thiên Vũ cống
trong sách Thượng Thư ñược biên soạn vào thời Chiến quốc (475 - 221 trước
Công nguyên), và muộn hơn một chút là cuốn Sơn hải kinh. Ở phương Tây, người
ñầu tiên dùng từ "ñịa lý học" là nhà ñịa lý cổ ñại Hy Lạp Êratôxtênêt
(Eratosthenês) sống vào khoảng cuối thế kỷ III, ñầu thế kỷ II trước Công nguyên.
Ở Việt Nam, tuy là nước "ñất không rộng, người không ñông", chúng ta cũng có
một lịch sử ñịa chí ñáng ghi nhận. Về ñịa chí toàn quốc, có các tác phẩm ñáng chú
ý như Nam Bắc phiên giới ñịa ñồ (1172) hiện ñã mất, chưa rõ tác giả; An Nam chí
lược (1339) của Lê Trắc; ðịa dư chí (1435) của Nguyễn Trãi; Thiên hạ bản ñồ
(1490) ñời Lê Thánh Tông; Kiền khôn nhất lãm (cuối thế kỷ XVIII, ñầu thế kỷ
XIX) của Phạm ðình Hổ, có chép cả ñịa lý một số nước trong khu vực; Hoàng Việt
nhất thống ñịa dư chí (1806) của Lê Quang ðịnh; Thiên tải nhàn ñàm (1810) của
ðàm Nghĩa Am; Hoàng Việt ñịa dư chí (1833) của Phan Huy Chú; ðại Việt ñịa dư
toàn biên (1882) của Nguyễn Văn Siêu; ðại Nam nhất thống chí (1882) của Quốc

Sử quán triều Nguyễn; ðồng Khánh ñịa dư chí (1886 - 1888), gồm ñịa lý 25 tỉnh từ
Cao Bằng ñến Bình Thuận (không có các tỉnh vùng Nam Bộ vì hồi này, Nam Bộ
ñang ñặt dưới quyền trực tiếp cai trị của thực dân Pháp), vv.
Về ñịa chí vùng miền, có thể kể các sách Ô Châu cận lục (1555) của Dương Văn
An; Hải ðông chí lược (1772) của Ngô Thì Nhậm; Phủ biên tạp lục (1776) của Lê
Quý ðôn; Hưng Hóa xứ phong thổ lục (1778) của Hoàng Bình Chính; Cao Bằng
lục (thế kỷ XVIII) của Phan Trọng Phiên; Gia ðịnh thành thông chí (cuối thế kỷ
XVIII, ñầu thế kỷ XIX) của Trịnh Hoài ðức; Cao Bằng thực lục (1810) của
Nguyễn Hựu Cung; Nghệ An ký (ñầu thế kỷ XIX) của Bùi Dương Lịch; Bắc Thành


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
13

ñịa dư chí lục (1845) của Lê Chất; Hưng Hóa ký lược (1856) của Phạm Thận Duật;
Cao Bằng tạp chí (1920) của Bế Huỳnh, vv.
ðể có một ý niệm nào ñó về các nội dung thường ñược ñề cập trong một tác
phẩm ñịa chí thời trước, ta có thể dẫn ra ñây ba trường hợp tương ñối tiêu biểu là
bộ ðại Nam nhất thống chí do Quốc Sử quán triều Nguyễn chủ trì, cuốn Nghệ An
ký do Bùi Dương Lịch biên soạn, và cuốn Cao Bằng tạp chí do Bế Huỳnh phác
thảo.
ðại Nam nhất thống chí thuộc loại sách viết về ñịa lý của một nước, ñây là ñịa
lý Việt Nam, gồm 12 tập, 28 quyển. Sách chép riêng từng tỉnh hoặc thành phố theo
kiểu Nhất thống chí của nhà Thanh. Cụ thể là: Tập 1 viết về Cao Bằng, Lạng Sơn,
Hưng Hóa; Tập 2 viết về Hà Nội, Bắc Ninh; Tập 3 viết về Hưng Yên, Ninh Bình;
Tập 4 viết về Hải Dương, Quảng Yên; Tập 5 viết về Tuyên Quang, Thái Nguyên,
Sơn Tây; Tập 6 viết về Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh; Tập 7 viết về Quảng Bình,
Quảng Trị; Tập 8 viết về Thừa Thiên; Tập 9 viết về Kinh sư (Huế), Quảng Nam,
Quảng Ngãi; Tập 10 viết về Bình ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Cao

Miên; Tập 11 viết về Gia ðịnh, ðịnh Tường, Hà Tiên; Tập 12 viết về An Giang,
Vĩnh Long, Biên Hòa. Có một dị bản còn chép cả Xiêm La, Thủy Xá, Hỏa Xá,
Miến ðiện, Nam Chưởng và Vạn Tượng.
Mỗi tỉnh hoặc thành phố ñược lần lượt trình bày theo các mục sau ñây: 1) Phận
dã (vị trí vùng trời, lấy các ngôi sao ổn ñịnh làm mốc); 2) Kiến trí diên cách (quá
trình lập tỉnh và những thay ñổi về ñịa bàn tỉnh nếu có); 3) Hình thế (tọa ñộ và ñịa
hình); 4) Khí hậu (thời tiết, lượng mưa, nhiệt ñộ); 5) Phong tục (thói quen, tục lệ);
6) Thành trì (thành và hào, có bản ñồ minh họa); 7) Học hiệu (trường học); 8) Hộ
khẩu (số ñinh); 9) ðiền phú (thuế ruộng); 10) Sơn xuyên (núi sông); 11) Cổ tích (di
tích lịch sử - văn hóa); 12) Quan tấn (cửa ải, ñồn biển); 13) Thị tập (chợ búa); 14)
Tân lương (bến sông, cầu ñập); 15) ðê yển (ñê ñiều); 16) Lăng mộ (mồ mả vua
chúa); 17) Từ miếu (ñền miếu); 18) Tự quán (chùa thờ Phật, quán ðạo giáo); 19)
Nhân vật (người có tên tuổi trong lịch sử); 20) Liệt nữ (phụ nữ lừng danh); 21)
Tiên thích (ñạo sĩ, tăng lữ); 22) Thổ sản (sản vật ñịa phương); 23) Giang ñạo
(ñường sông); 24) Tân ñộ (ñò ngang, ñò dọc).
Nghệ An ký thuộc loại sách viết về ñịa lý vùng miền, ñây là tỉnh Nghệ An. Sách
gồm 3 quyển, ñược sắp xếp theo trật tự "tam tài", tức "thiên, ñịa, nhân" hay "thiên
văn, ñịa lý, nhân sự". Cụ thể là: Thiên chí (Quyển 1), gồm 2 mục: 1) Thiên dã (vị
trí vùng trời, lấy sao làm ñiểm mốc); 2) Thiên khí (khí hậu). ðịa chí (Quyển 2),
gồm 4 mục: 1) Cương vực (bờ cõi và vấn ñề diên cách); 2) ðiều lý (mạch ñất, vùng
thấp, vùng cao); 3) Sơn (núi); 4) Thủy (sông ngòi, hồ, ñầm, khơi). Nhân chí (Quyển
3), gồm 3 mục: 1) Khí chất (thể trọng, tính cách);2) Sinh lý (ñời sống vật chất); 3)
Nhân vật (người danh tiếng, trong ñó có ñế vương, văn nhân, võ tướng ).
Cao Bằng tạp chí cũng thuộc loại sách viết về ñịa lý vùng miền, ñây là tỉnh Cao
Bằng. Sách cũng gồm 3 quyển, nhưng lại ñược sắp xếp theo trật tự "tam quang",
tức "nhật, nguyệt, tinh". Cụ thể là: Nhật (Quyển 1), gồm 4 mục: 1) ðịa danh


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang

14

nguyên thủy dĩ cập canh trương (nguồn gốc ñịa danh và việc thay ñổi qua các
thời kỳ lịch sử); 2) Tỉnh hạt danh sơn (núi có tiếng trong tỉnh); 3) Tỉnh hạt ñại
xuyên (sông lớn trong tỉnh); 4) Tỉnh hạt danh nham (hang ñộng có tiếng trong
tỉnh). Nguyệt (Quyển 2), gồm 3 mục: 1) Tiền chiến kỷ (các trận ñánh thời trước);
2) Bản triều chiến kỷ (các trận ñánh vào triều Nguyễn); 3) Quý bảo hộ thời kỳ
chiến kỷ (các trận ñánh dưới thời Pháp thuộc). Tinh (Quyển 3), gồm 6 mục: 1)
Thần từ cổ tích (ñền thờ các vị thần); 2) Nhân vật lục (sự tích các nhân vật có tên
tuổi trong lịch sử); 3) Dị ñoan lục (các tục lệ mê tín dị ñoan như phù thủy, ñạo
sư, ñồng bóng); 4) Kỹ nghệ thổ sản (các nghề thủ công và sản vật ñịa phương); 5)
Giải ñộc chỉ nam (cách cứu chữa người bị trúng ñộc); 6) Chủng loại nguyên nhân
(nguồn gốc các dân tộc thiểu số như người Thổ, người Nùng, người Ngạn, người
Mường Hạo, người Mán Tiền, người Mán Cóc, người Mèo ðăm cùng nghề
nghiệp, tôn giáo, tín ngưỡng, nhà ở, trang phục, cách ăn uống, cưới xin, ma chay,
giao tiếp, tết nhất, mừng thọ, mừng sinh nhật, cúng giỗ, bệnh tật của họ).
Tiếp sang thời Pháp thuộc và thời kỳ hiện ñại, nhiều công trình ñịa chí các ñịa
phương trong nước lần lượt ñược nghiên cứu, biên soạn. ðiều ñáng chú ý là ñến
nay, vẫn không có hình mẫu chung nào cho toàn bộ các công trình ñịa chí, bởi sự
khác nhau về quan niệm và ñặc thù riêng của từng ñịa phương.
Từ các kiến giải mang tính chất nền tảng trên ñây, ta có thể ñi vào những vấn ñề
bao quát của "ðịa chí Quảng Ngãi".
NGUỒN TƯ LIỆU ðỂ VIẾT "ðỊA CHÍ QUẢNG NGÃI"
Tư liệu ñể viết "ðịa chí Quảng Ngãi" gồm hai nguồn chính là nguồn tư liệu
thành văn và nguồn tư liệu ñiền dã.
NGUỒN TƯ LIỆU THÀNH VĂN
Không ñợi ñến bây giờ, mà ngay từ những năm ba mươi của thế kỷ XX ñã xuất
hiện những công trình ñịa chí nghiêm túc dành riêng cho tỉnh Quảng Ngãi, như
Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác và Nguyễn ðình Chi ñăng trên tạp chí
Nam phong năm 1933; ðịa dư tỉnh Quảng Ngãi của Nguyễn ðóa và Nguyễn ðạt

Nhơn, Huế - 1939; ðịa phương chí Quảng Ngãi do chính quyền Sài Gòn soạn thảo
vào năm 1968, vv. Gần ñây, Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi lại cho ra mắt
bạn ñọc cuốn Quảng Ngãi - ñất nước, con người, văn hóa do Bùi Hồng Nhân chủ
biên, Quảng Ngãi - 2001, cũng là một tác phẩm ñịa - văn hóa biên soạn công phu.
Tuy nhiên, ñể ñáp ứng nhu cầu hiểu biết về ñồng ñất - con người Quảng Ngãi
một cách có hệ thống, với tầm ñộ vừa rộng lại vừa sâu, nhất là tình hình tỉnh
Quảng Ngãi từ thế kỷ XIX trở về trước, cần có những nỗ lực mới theo hướng bổ
sung, nâng cấp những gì ñã biết về ñịa chí Quảng Ngãi. Muốn thế, phải có thêm tư
liệu, nhất là loại tư liệu gốc, tức nguồn thông tin cấp I. Về phương diện này, ngoài
những thông tin cập nhật do các ngành khảo cổ học, ñịa chất học, thủy văn học,


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
15

dân tộc học… cung cấp, ta rất cần ñến sự trợ giúp của kho sách Hán Nôm do cha
ông ñể lại.
Có thể chia số thư tịch Hán Nôm liên quan ñến việc biên soạn ñịa chí Quảng
Ngãi mà chúng ta hiện biết ra làm ba loại chính sau ñây:
Bản ñồ (gồm ñịa ñồ, lộ ñồ, hải ñồ và bản ñồ tổng hợp)
Về ñịa ñồ, có các sách liên quan ñến Quảng Ngãi như: An Nam hình thắng ñồ
A.3034(*) (ñời Lê); An Nam quốc Trung ñô tính thập tam thừa tuyên hình thế
A.2531 (ñời Lê); Hồng ðức bản ñồ VHt.41 và A.2499 (ñời Lê); Càn khôn nhất
lãm A.414 (ñời Lê); Thiên hạ bản ñồ A.2628 (ñời Lê); Thiên hạ bản ñồ tổng mục
lục ñại toàn A.1362 (ñời Lê); Bản quốc dư ñịa ñồ lược A.2584 (ñời Nguyễn); Bản
quốc dư ñồ A.1106 (ñời Nguyễn); Bản quốc dư ñồ bị lãm A.2026 (ñời Nguyễn);
ðại Nam nhất thống dư ñồ A.3142 (ñời Nguyễn); ðại Nam toàn ñồ A.2959 (ñời
Nguyễn); ðịa ñồ A.589 (ñời Nguyễn); Nam Bắc Kỳ hội ñồ A.95 (ñời Nguyễn).
Về lộ ñồ (bản ñồ ñường bộ) và hải ñồ (bản ñồ ñường biển), có các sách liên

quan ñến Quảng Ngãi như: Thiên Nam lộ ñồ A.1081 (ñời Lê); Toàn tập Thiên
Nam ñịa ñồ A.1174 (ñời Lê); Thiên Nam tứ chí lộ ñồ thư A.73 (ñời Lê); An Nam
thông quốc bản ñồ VHv.1358.2 (ñời Lê).
Riêng bản ñồ tổng hợp (gồm cả ñịa ñồ, lộ ñồ, hải ñồ), có Giao Châu dư ñịa chí
VHt.30 (ñời Lê) và ðịa chí A.343 (ñời Nguyễn).
Trong các bản ñồ trên, vùng ñất thuộc ñịa bàn Quảng Ngãi ngày nay thường
xuất hiện dưới các tên gọi như "Chiêm Lũy", "Cổ Lũy" (ñộng), "Tư" (châu) và
"Nghĩa" (châu), "Tư Nghĩa" (phủ); "Quảng Nghĩa" hay "Quảng Ngãi" (phủ, dinh,
trấn, tỉnh). Về mặt hành chính, vùng ñất này lần lượt nằm dưới sự quản lý của các
vua Hùng, tiếp ñến là Chămpa (Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành), và cuối
cùng là Việt Nam (ðại Việt).
ðịa chí (gồm tỉnh chí, xã chí )
Liên quan ñến Quảng Ngãi ở cấp tỉnh, có các sách như: Dư ñịa chí của Nguyễn
Trãi trong bộ Ức Trai di tập VHv.1772.2,3 (ñời Lê); ðại Việt sử ký toàn thư A.3.1-
4 (ñời Lê); Phủ biên tạp lục VHv.1737.1-2 (ñời Lê); ðại Nam nhất thống chí
A.69.1-12 (do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn vào thời Tự ðức; ở Tập 9 có
chép về Quảng Ngãi); ðại Nam nhất thống chí A.853.1-8 (do Cao Xuân Dục làm
Tổng tài, in năm 1910; ở Quyển 6 có chép về Quảng Ngãi); ðồng Khánh dư ñịa
chí A.537.1-24 (do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn; ở Tập 16 có chép về
Quảng Ngãi); Hoàn vũ kỷ văn A.585 (ñời Nguyễn); Nam dư yếu lược A.1518 (ñời
Nguyễn); Nam quốc ñịa dư VHv.2742 (ñời Nguyễn); Nam quốc dư ñịa chí lược
VHv.1723 (ñời Nguyễn); Nam Việt ñịa dư trích lục A.2139 (ñời Nguyễn); Phủ
man tạp lục VHv.1239 (ñời Nguyễn); Quảng Thuận ñạo sử tập VHv.1375 (ñời


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
16

Nguyễn); Tàng thư lâu bạ tịch A.968 (ñời Nguyễn); Thành bảo lược sao A.2746

(ñời Nguyễn); Trung Kỳ dư ñịa chí lược sao A.2516 (ñời Nguyễn).
Liên quan ñến Quảng Ngãi ở cấp xã, có Xã chí Quảng Ngãi AJ.24. ðây là các
bản ñiều tra, khảo sát trên thực ñịa Quảng Ngãi vào những năm 1943, 1944 theo 11
ñề mục cho sẵn: Bia (Stèle); Thần sắc (Brevets de Génie); Thần tích (Légendes
écrites); Cổ chỉ (Archives); Tục lệ (Coutumes écrites); ðình (Description du ðình);
Tượng và tự khí (Description des objects de culte); Hội (Date des fêtes); Cổ tích
(Vestiges antiques); Quan lộ (Route d'accès); Thổ sản và nghề nghiệp (Production
et profession des habitants du village). Ngoài ra, còn có cuốn Quảng Ngãi tỉnh tập

phi ở các ñền và giấy tờ, công văn của một số xã như Phú Nhơn, Mỹ Khê thuộc
phủ Sơn Tịnh cũ; Tiên Sai, Thi Phổ thuộc phủ Tư Nghĩa cũ; Thạch Trụ thuộc phủ
Mộ ðức cũ, tỉnh Quảng Ngãi.
Tác giả, tác phẩm
Trước hết là những tác giả, tác phẩm có nguồn gốc từ Quảng Ngãi ñược chép
trong kho sách Hán Nôm:
Bùi Phụ Cát (? - ?): người xã Thu Phố, huyện Chương Nghĩa cũ, tỉnh Quảng
Ngãi, một danh sĩ triều Nguyễn. Tác phẩm có Sớ bẩm văn sao VHb.75, gồm 6 bài
sớ, trình bày những kiến nghị về ñường lối chính sách trị nước.
Nguyễn Bá Nghi (1807 - ?): tự Sư Phần, người xã Lạc Phố, huyện Mộ ðức, tỉnh
Quảng Ngãi, ñỗ Phó bảng năm Minh Mạng 13 (1832), làm Tổng ñốc. Tác phẩm có
Sư Phần thi văn tập VHv.99.
Nguyễn Tấn (? - ?): tự Tử Vân, hiệu Ôn Khê, người xã Thạch Trụ, huyện
Mộ ðức, tỉnh Quảng Ngãi, ñỗ Cử nhân năm Thiệu Trị 3 (1843), làm Tham tri kiêm
Tĩnh man Tiễu phủ sứ. Tác phẩm có Phủ man tạp lục VHv.1239.
Quốc sư Nghiễm (? - ?): tên là Nghiễm, chưa rõ họ gì, làm Quốc sư, người xã
Sung Tích, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Tác phẩm có bài văn tứ lục nhan ñề
Thánh triều hỉ ðường Ngu lạc Thương Chu, hiện in trong Ứng chế tứ lục tuyển
A.1456.
Trần Công Hiến (? - 1817): tước Ân Quang Hầu, người huyện Chương Nghĩa
cũ, tỉnh Quảng Ngãi, làm Tổng nhung cai cơ, trấn thủ Hải Dương. Tác phẩm ñược

chép trong nhiều sách như Hải Dương phong vật chí A.882; Danh thi hợp tuyển
A.212; Danh văn tinh tuyển A.1702; Danh phú hợp tuyển A.2802.1-2, vv. Hiện
nay ở thôn ðôn Thư, xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương còn có ñền thờ
Trần Công Hiến.
Trương ðăng Quế (1793 - 1865): tự Diên Phương, hiệu ðoan Trai, biệt hiệu
Quảng Khê, tước Tuy Thịnh Quận công, người xã Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, tỉnh


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
17

Quảng Ngãi, ñậu Cử nhân năm Gia Long 18 (1819), làm Phụ chính ñại thần. Tác
phẩm có Quảng Khê văn tập A.3045; Trương Quảng Khê văn tập VHv.1142;
Trương Quảng Khê tiên sinh thi tập A.777; Sứ trình vạn lý tập A.2769; Duyệt
Giáp Thìn khoa ñiện thí văn VHv.78; Phê bình cuốn Diệu Liên thi tập VHv.685;
Nhật Bản kiến văn tiểu lục A.1164. Ông còn tham gia chủ trì hoặc biên tập các bộ
sách như ðại Nam liệt truyện tiền biên VHv.1320.1-4; ðại Nam thực lục chính
biên A.2772.1-67; Hoàng Nguyễn thực lục tiền biên VHv.140; Hoàng Nguyễn thực
lục hậu chính biên VHv.141, vv.
Trương Quang ðản (? - ?): tự Tử Minh, hiệu Cúc Khê (hoặc Cúc Viên), người
xã Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, ñỗ Tú tài thời Tự ðức, làm quan
ñến ðông các ðại học sĩ. Tác phẩm có Trương Cúc Khê thủ chuyết lục VHv.240;
ðại Nam thực lục chính biên ñệ tứ, ñệ ngũ kỷ A.27.
Vũ Văn Tiêu (? - ?): người Quảng Ngãi, có dâng cho vua Minh Mạng cuốn Cố
sự biên lục (theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim).
Nhiều tác giả: Quảng Ngãi tỉnh nữ học trường, gồm một số bài cáo thị, ñáp từ
và bài ca nhân dịp mở trường Nữ tiểu học ở tỉnh Quảng Ngãi.
Ngoài ra còn có những tác phẩm của người nơi khác viết về Quảng Ngãi từng
ñược kho sách Hán Nôm giới thiệu, như:

Quảng cư ký ngôn, trong sách Nguyễn Hoàng Trung thi sao A.2274, có chép
nhiều bài thơ do Nguyễn Hoàng Trung (? - ?), chưa rõ người ở ñâu, sáng tác khi
ông dạy học ở Quảng Ngãi.
Quảng Nghĩa tỉnh tạ ngự chế thi biểu của Lê Nguyên Trung, người xã Hoạch
Trạch, huyện ðường An, tỉnh Hải Dương, ñỗ Cử nhân năm Thành Thái 18 (1906),
hiện chép trong Bi ký biểu văn tạp lục A.1470.
Quá Tư Nghĩa cựu hạt của ðặng Văn Kham (? - ?), chưa rõ người ở ñâu, hiện
chép trong Hy Trương văn tập A.1276.
Quảng Nghĩa thập vịnh, gồm 10 bài thơ vịnh về phong cảnh ở Quảng Ngãi như
Thiên Bút hoành vân, Long ðầu hí thủy, An Hải sa bàn, La Hà thạch trận của
Trần Huy Tích (1828 - ?), biệt hiệu Quán Sơn Cư Sĩ, người phường Dũng Thọ,
huyện Thọ Xương, nay là vùng phố Mã Mây, Hà Nội, ñỗ Tiến sĩ năm Tự ðức 4
(1851), ñược bổ ðốc học Hải Dương, sau xin từ chức ñể ngao du ñây ñó. Các bài
thơ trên hiện chép trong Quán Sơn thi thảo A.1216.
Ký ñề Quảng Ngãi thắng tích nhị thủ do Nguyễn Miên Trinh (1820 - 1897), tự
Khôn Chương, hiệu Tĩnh Phố, biệt hiệu Vi Dã, tước Tuy Quận công, là con thứ 11
của vua Minh Mạng sáng tác, hiện in trong Tuy Quốc công thi tập VHv.35.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
18

Bên cạnh các tư liệu chữ Hán, nguồn tư liệu Pháp ngữ và chữ Quốc ngữ cũng
hết sức quan trọng.
Tư liệu Pháp ngữ chủ yếu xuất hiện trong thời Pháp thuộc, gồm các tư liệu do
người Pháp biên soạn. Tiêu biểu như:
A.Laborde với Province de Quảng Ngãi (Tỉnh Quảng Ngãi) gồm tư liệu tổng
hợp nhiều mặt về tỉnh Quảng Ngãi.
Borel với Notes sur les Norias de la Province de Quảng Ngãi (Ghi chép về các

guồng xe nước ở tỉnh Quảng Ngãi), ñăng trên tạp chí Kinh tế ðông Dương
(B.E.I.C) năm 1906.
P. Guilleminet với Une industrie Annamite: Les Norias du Quảng Ngãi (Một
ngành công nghiệp An Nam: Các guồng xe nước ở Quảng Ngãi), 1926.
H. Haguet với bài viết về dân tộc thiểu số ở Quảng Ngãi ñăng trên tạp chí ðông
Dương 1905; Borier viết về trồng và buôn bán quế ở Trung Bộ; Phó ðức Thành
viết về ñề tài tương tự (B.E.I.C, 1936), vv.
ðó chỉ mới là một số trong khá nhiều tư liệu Pháp ngữ, kể cả các văn bản hành
chính, vẫn còn lưu giữ ñược.
Về tư liệu Quốc ngữ từ ñầu thế kỷ ñến nay hết sức phong phú, nhất là các sách,
báo xuất bản từ thời Pháp thuộc mãi ñến sau 1975, ñã ñược thể hiện khá ñầy ñủ, cụ
thể trong các chương và phần danh mục tài liệu tham khảo ở cuối công trình này,
chúng tôi xin khỏi phải nhắc lại.
NGUỒN TƯ LIỆU ðIỀN DÃ
Một nguồn tư liệu cũng không kém phần quan trọng so với tư liệu thành văn là
các tư liệu ñiền dã. Những người thực hiện công trình này ñã chú trọng ñúng mức
ñến các tư liệu ñiền dã, ñã ñến các ñịa phương trong tỉnh ñể sưu tầm các tư liệu tại
chỗ ñể có dịp bổ sung, phối kiểm, giúp công trình thêm ñầy ñủ, phù hợp, sát ñúng.
Tóm lại, công trình này dùng nhiều tư liệu khác nhau từ hai nguồn thư tịch thành
văn và ñiền dã. Biên soạn một công trình ñịa chí, thì nguồn tư liệu sẽ có vai trò
quan trọng ñặc biệt, góp phần quyết ñịnh chất lượng công trình.
ðẶC ðIỂM SÁCH "ðỊA CHÍ QUẢNG NGÃI"
Tập sách "ðịa chí Quảng Ngãi" do chúng tôi biên soạn có một số ñiểm ñáng chú ý
như sau:
Về mặt không gian ñịa lý, như tiêu ñề sách ñã xác ñịnh, bao gồm những ghi
chép liên quan ñến vùng ñất thuộc ñịa bàn Quảng Ngãi ngày nay. Vùng ñất này
qua sự diễn tiến của lịch sử, từng mang các tên gọi khác nhau như "Chiêm Lũy",


Ñòa chí Quaûng Ngaõi

Trang
19

"Cổ Lũy" (ñộng), "Tư" (châu) và "Nghĩa" (châu), "Tư Nghĩa" (phủ), "Hòa Nghĩa"
(phủ), "Quảng Nghĩa" hay "Quảng Ngãi" (phủ, dinh, trấn, tỉnh) như trên kia ñã
thấy.
Về mặt thời gian và chủ thể ñịa lý, sách chia lịch sử vùng ñất Quảng Ngãi ra làm
ba thời ñại lớn, tương ứng với ba giai ñoạn phát triển chính yếu của xã hội loài
người là thời ñại ñồ ñá, thời ñại ñồ ñồng và thời ñại ñồ sắt ñể tiến hành khảo sát.
Cụ thể là:
Quảng Ngãi trong thời ñại ñồ ñá: ñược chứng thực bởi các di vật khảo cổ tìm
thấy ở các di chỉ Gò Trá (xã Tịnh Thọ, huyện Sơn Tịnh) và di chỉ Gò Vàng ( xã
Sơn Kỳ, huyện Sơn Hà), có niên ñại cách ñây khoảng 14 ñến 15 vạn năm.
Quảng Ngãi trong thời ñại ñồ ñồng: ñược xác nhận qua các di vật khảo cổ tìm
thấy ở di chỉ Long Thạnh (xã Phổ Thạnh, huyện ðức Phổ), di chỉ Bình Châu I (xã
Bình Châu, huyện Bình Sơn) và Bình Châu II (thôn Châu Thuận, xã Bình Châu,
huyện Bình Sơn) và di chỉ Sa Huỳnh (ñông nam huyện ðức Phổ). Di chỉ Long
Thạnh thuộc sơ kỳ ñồng thau, có niên ñại xác ñịnh 1430 ± 60 năm trước Công
nguyên, tức cách ñây khoảng 3500 năm. Di chỉ Bình Châu thuộc trung kỳ ñồng
thau, có niên ñại cách ñây khoảng 3000 năm. Di chỉ Sa Huỳnh xuyên suốt từ sơ kỳ
ñồng thau ñến sơ kỳ sắt sớm và ñến thời ñại ñồ sắt.
Tuy nhiên, do mức ñộ tư liệu thu thập ñược, công trình tập trung chính vào thời
kỳ lịch sử cổ - trung ñại trở về sau, cụ thể với Quảng Ngãi gồm 4 thời kỳ chính
như sau:
Quảng Ngãi dưới thời Vương quốc Chămpa (Lâm Ấp - Hoàn Vương - Chiêm
Thành), tức từ cuối thế kỷ II ñến năm 1471. Thời kỳ này chủ yếu căn cứ vào các di
vật - di tích khảo cổ và chủ yếu xét về phương diện văn hóa.
Quảng Ngãi sau khi trở thành một bộ phận của ðại Việt (Việt Nam sau này), từ
1471 cho ñến năm 1884 - tức ñất Quảng Ngãi nằm dưới chính quyền phong kiến
ðại Việt dưới các triều ñại khác nhau trong thời kỳ ñộc lập.

Quảng Ngãi dưới thời Pháp thuộc (1885 - 1945), nói cụ thể là từ khi ách ñô hộ
của thực dân Pháp ñặt ñến Quảng Ngãi dưới hình thức chế ñộ bảo hộ ñối với Trung
Kỳ ñến Cách mạng tháng Tám 1945.
Quảng Ngãi dưới chính thể Dân chủ cộng hòa Việt Nam (1945 - 1975) và Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1975 trở ñi), trong ñó có khoảng 20 năm do
chính quyền Sài Gòn quản lý (1954 - 1975).
Tất nhiên, cách phân ñoạn như trên chỉ dùng cho kết cấu chung nhất; trong
những trường hợp cụ thể, việc phân ñoạn có thể linh hoạt ít nhiều.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
20

Về mặt thể cách, sách không viết theo kiểu một cuốn ñịa chí cổ hay một tác
phẩm ñịa lý học hiện ñại, vì một ñằng thì dễ rơi vào tình trạng sơ lược, chung
chung, còn một ñằng thì ñòi hỏi phải chuyên sâu, quy chuẩn, cả hai ñều tỏ ra
không phù hợp với ñối tượng ñộc giả mà cuốn sách nhắm ñến. ðể cho người bình
thường có thể ñọc ñược, mà các nhà chuyên môn, kể cả những người làm công tác
quản lý cũng cảm thấy hữu ích, không thể bỏ qua, chúng tôi dùng cách viết dung
hợp kim cổ, chia sẻ những mặt thành công của các sách ñịa chí xưa và nay. Nếu
nói ở "ðịa chí Quảng Ngãi" có sự giao hòa giữa ñịa chí truyền thống và ñịa lý học
hiện ñại thì cũng ñược.
"ðịa chí Quảng Ngãi" cũng không trình bày theo kiểu ñoạn ñại hay ñồng ñại, vì
như vậy, e sách sẽ mất cân ñối. Có một thực tế là, trong khi mảng "ñịa lý tiền sử"
(thời ñại ñồ ñá, thời ñại ñồ ñồng) của Quảng Ngãi hầu như không có tư liệu gì ñể
viết ngoài một số ít di vật do khảo cổ học cung cấp, thì mảng còn lại, tức giai ñoạn
cư dân Quảng Ngãi từ giã "cuộc sống nguyên thủy" ñể bước vào "cuộc sống văn
minh" (thời ñại ñồ sắt), văn hiến lại khá dồi dào! Cách viết lịch ñại, hay ñúng hơn
là dung hợp và lịch ñại, do vậy ñã ñược chúng tôi lựa chọn ñể biên soạn sách "ðịa

chí Quảng Ngãi".
KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG SÁCH "ðỊA CHÍ QUẢNG NGÃI"
Sách "ðịa chí Quảng Ngãi" gồm 5 phần chính sau ñây:
1. ðịa lý hành chính, tự nhiên và dân cư
Phần này ñược trình bày qua 6 chương ñầu của cuốn sách: Chương I viết về ñịa
lý hành chính và ñịa lý lịch sử của Quảng Ngãi; Chương II viết về ñịa hình tỉnh
Quảng Ngãi; Chương III viết về ñịa chất, khoáng sản và thổ nhưỡng; Chương IV
viết về khí hậu và thủy văn; Chương V viết về ñộng vật và thực vật; Chương VI
viết về tình hình dân cư và dân tộc ở Quảng Ngãi.
Cách bố trí các chương như vậy, mới nhìn qua có vẻ lủng củng: chương I và VI
là thuộc về ñịa lý nhân văn, trong khi các chương II, III, IV và V lại thuộc về ñịa lý
tự nhiên. Thật ra ở ñây có dụng ý của người biên soạn: cung ứng trước cho bạn ñọc
và cả cho bản thân cuốn sách các tên gọi "ñịa danh hành chính" và "chủ thể ñịa lý"
ñể dễ dàng tiếp cận với các phần, các chương còn lại của cuốn sách mà bạn ñọc
ñang cầm trên tay, nghĩa là vẫn có chỗ hợp lý của nó.
ðặc biệt nếu muốn biết cụ thể về vị trí, giới cận, diện tích của Quảng Ngãi, ta
có thể tìm ñọc ở Chương I: "Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, có
tọa ñộ ñịa lý 14°32´ - 15°25´ vĩ Bắc, 108°06´ - 109°04´ kinh ðông; phía bắc giáp
tỉnh Quảng Nam trên ranh giới các huyện Bình Sơn, Trà Bồng và Tây Trà; phía
nam giáp tỉnh Bình ðịnh trên ranh giới các huyện ðức Phổ, Ba Tơ; phía tây, tây
bắc giáp tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum trên ranh giới các huyện Tây Trà, Trà
Bồng, Sơn Tây và Ba Tơ; phía tây nam giáp tỉnh Gia Lai trên ranh giới huyện
Ba Tơ; phía ñông giáp Biển ðông, có ñường bờ biển dài 130km với 5 cửa biển


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
21

chính là Sa Cần, Sa Kỳ, cửa ðại, Mỹ Á và Sa Huỳnh". "Tỉnh Quảng Ngãi có

diện tích tự nhiên 5.131,5km
2
, bằng 1,7% diện tích tự nhiên cả nước, bao gồm 14
huyện, thành phố, trong ñó có 1 thành phố, 6 huyện ñồng bằng ven biển, 6 huyện
miền núi và 1 huyện ñảo".
2. Truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Phần này viết về ñịa - chính trị, chủ yếu trình bày truyền thống yêu nước và cách
mạng của cư dân Quảng Ngãi qua các giai ñoạn lịch sử, gồm cả thảy 5 chương, từ
Chương VII ñến Chương XI của cuốn sách. Các giai ñoạn lịch sử ñược nêu lên ñể
khảo sát là từ sơ sử ñến 1885 (Chương VII); từ 1885 ñến 1945 (Chương VIII); từ
1945 ñến 1975 (Chương IX); từ 1975 ñến 2005 (Chương X).
Qua các chương vừa kể, ta khả dĩ hình dung ñược truyền thống kiến tạo và bảo
vệ quê hương của cư dân Quảng Ngãi suốt từ quá khứ xa xăm cho ñến thời kỳ hiện
ñại; trong ñó, nổi bật lên là tinh thần tích cực tham gia phong trào Cần vương,
phong trào Duy tân, phong trào xin xâu khất thuế, sự ra ñời của ðảng bộ ðảng
Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi, những ñóng góp không nhỏ của nhân dân
Quảng Ngãi dưới sự lãnh ñạo của ðảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945 - 1954 và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975.
Chương XI, chương cuối cùng của phần II, dành ñể giới thiệu tiểu sử các nhân
vật lịch sử tiêu biểu của ñất Quảng Ngãi.
3. Kinh tế
Phần này viết về ñịa - kinh tế, gồm cả thảy 9 chương, từ Chương XII ñến
Chương XX của cuốn sách.
Tiến trình phát triển kinh tế Quảng Ngãi với các ngành như nông nghiệp và thủy
lợi (Chương XII), lâm nghiệp (Chương XIII), ngư nghiệp (Chương XIV), công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (Chương XV), thương mại, dịch vụ và du lịch
(Chương XVI), tài chính, tiền tệ và ngân hàng (Chương XVII), giao thông - vận tải
(Chương XVIII), bưu ñiện (Chương XIX), ñiện lực (Chương XX) ñều ñược giới
thiệu khá kỹ ở ñây.
Về nông nghiệp và thủy lợi, có tình hình khai khẩn ñất ñai và cày cấy trồng trọt

dưới thời Vương quốc Chămpa cũng như dưới thời các chúa Nguyễn; tình hình
ruộng ñất, chiếm hữu ruộng ñất và trồng trọt, chăn nuôi vào thời Pháp thuộc; các
phong trào cải cách nông nghiệp, ñiều chỉnh ruộng ñất cho dân nghèo, hợp tác hóa
nông nghiệp từ năm 1945 ñến năm 2005; ñặc ñiểm các con sông và thời tiết, khí
hậu ở Quảng Ngãi, vv.
ðây là một bước tiến ñáng ghi nhận về nông nghiệp: Ở thời ñiểm 1975, nông
nghiệp Quảng Ngãi còn trong tình trạng sản xuất tự túc, tự cấp, lương thực làm ra
không ñáp ứng ñược nhu cầu của dân, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất quá yếu kém.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
22

Sau một quá trình nỗ lực phấn ñấu, nông nghiệp Quảng Ngãi ñã ñạt ñược những
thành tựu ñáng ghi nhận, ñược thể hiện qua một số mặt như: tốc ñộ phát triển của
ngành luôn ñạt ở mức cao và ổn ñịnh; cơ cấu kinh tế ngành bước ñầu ñã có sự
chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa; sản xuất lương thực ñủ ñáp ứng nhu
cầu người dân trên ñịa bàn; nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất
lượng tốt ñã ñược ñưa vào sản xuất ngày càng phổ biến, cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất và dân sinh ngày càng ñược hoàn thiện, ñời sống của người nông dân từng
bước ñược nâng cao. Bên cạnh những thành tựu vừa nêu, sản xuất nông nghiệp
Quảng Ngãi vẫn còn những mặt yếu: cơ cấu kinh tế nông nghiệp tuy có chuyển
dịch nhưng còn chậm và chưa rõ nét; tỷ trọng chăn nuôi còn thấp so với trồng trọt;
tỷ trọng cây lương thực vẫn còn cao so với các loại cây trồng khác; vùng nguyên
liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến phát triển chưa ổn ñịnh; ñời sống của một
bộ phận nông dân còn khó khăn, nhất là ñồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi.
Và ñây là những giải pháp tích cực ñể khai thác tốt tiềm năng của hệ thống các
công trình thủy lợi ở Quảng Ngãi ñến năm 2010: Tiến hành ñầu tư xây dựng hồ
chứa nước Nước Trong ñể ñiều tiết nước cho hệ thống thủy lợi Thạch Nham và

cung cấp nước cho các khu công nghiệp, ñặc biệt là Khu kinh tế Dung Quất. Tiến
hành nạo vét 5 trục tiêu nước chính là sông Gò Mã, sông Cái Bứa, sông La Hà,
kênh Tứ ðức, sông Thoa với tổng chiều dài 15.300m ñể tiêu úng, thoát lũ cho cây
trồng và các khu dân cư.
Về lâm nghiệp từ năm 1954 trở về trước, sách cung cấp cho ta các thông tin liên
quan ñến hệ thực vật, ñộng vật rừng. Còn giai ñoạn từ năm 1976 trở về sau, sách ñi
sâu vào các mặt như tổ chức sản xuất lâm nghiệp, kế hoạch phát triển lâm sinh,
việc khai thác lâm sản, tiềm năng và triển vọng phát triển lâm nghiệp Quảng Ngãi
trong thời gian tới.
Về ngư nghiệp, sách trước hết cho thấy ñiều kiện ñịa lý, ñịa hình liên quan ñến
việc ñánh bắt và nuôi trồng thủy sản như vùng biển, bờ biển và hải ñảo, vùng cửa
sông và ven biển, sông suối hồ ao nước ngọt. Tiếp ñó là các ngư trường và nguồn
lợi thủy sản biển, nguồn lợi thủy sản nước lợ, nguồn lợi thủy sản nước ngọt. Và
sau cùng là các lĩnh vực thuộc ngành kinh tế thủy sản Quảng Ngãi hiện nay: ñánh
bắt thủy sản, nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản, ñóng mới và sửa chữa tàu
thuyền, dịch vụ hậu cần nghề cá.
Ở ñây còn có những thông tin thú vị về hoạt ñộng của các ñội Hoàng Sa, Bắc
Hải liên quan ñến ngư dân Quảng Ngãi dưới thời các chúa Nguyễn. Hồi bấy giờ,
theo ghi chép của Lê Quý ðôn trong sách Phủ biên tạp lục, Hoàng Sa lệ thuộc vào
sự cai quản của phủ Quảng Nghĩa. Hàng năm, chúa Nguyễn lập ñội Hoàng Sa gồm
70 người, là các dân binh lấy từ ngư dân hai xã An Hải và An Vĩnh thuộc huyện
Bình Sơn (nay An Hải thuộc huyện Bình Sơn, An Vĩnh thuộc huyện Sơn Tịnh),
sau ñó là người phường An Hải và phường An Vĩnh thuộc ñảo Lý Sơn (cù lao Ré)
ñi thuyền ñến Hoàng Sa ñể tuần phòng và khai thác ñồi mồi, ba ba, hải sâm, san
hô, ñôi khi họ còn nhặt ñược cả báu vật nữa. "Từ tháng giêng, họ ñi nhận quyết


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
23


ñịnh cử làm sai dịch và bắt ñầu xuất phát. Mỗi người ñược cấp 6 tháng lương. Họ
chèo 5 chiếc thuyền câu nhỏ, sau ba ngày ba ñêm thì ñến ñảo. Họ tha hồ lượm nhặt
các thứ ñồ vật và bắt chim bắt cá ñể làm thức ăn. Họ nhặt ñược các ñồ vật như
gươm và ngựa ñúc bằng ñồng, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, ñồ ñồng, thiếc khối, chì
ñen, súng ống, ngà voi, sáp ong vàng, ñồ len dạ, ñồ sứ Họ còn nhặt ñược vỏ ñồi
mồi, hải sâm và vô số vỏ ốc vằn. ðến tháng tám thì ñội Hoàng Sa ấy mới về. Họ
ñến thành Phú Xuân trình nộp các thứ ñồ lấy ñược. Người ta cân, kiểm tra, phân
loại và biên nhận các ñồ vật, riêng khoản ốc vằn, ba ba, hải sâm thì cho phép ñội
ñược tự ý ñem bán lấy tiền" (Phủ biên tạp lục, Quyển 2).
Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, sách cũng ñã giới thiệu một cách tỉ
mỉ. Tiểu thủ công nghiệp Quảng Ngãi có nghề làm ñường mía, nghề nấu ñường
phèn, nghề làm ñường phổi, nghề làm kẹo gương, nghề làm mật nha, hầu hết ñều
là ñặc sản ñịa phương (theo Phủ biên tạp lục thì ở xã Ái Tử thuộc huyện Hương
Trà cũng biết làm ñường phèn, ở ðiện Bàn cũng biết làm ñường phổi, nhưng
không nổi tiếng bằng Quảng Ngãi). Ngoài ra còn có nghề gốm, nghề dệt chiếu,
nghề ñúc ñồng, nghề chế tác sừng, nghề rèn, nghề làm mắm, nghề ñan lát, nghề dệt
thổ cẩm mà các tỉnh khác cũng có.
Công nghiệp Quảng Ngãi có những ngành chủ yếu như chế biến thực phẩm và
ñồ uống, khai thác khoáng sản và vật liệu xây dựng, công nghiệp hóa chất, công
nghiệp cơ khí và ñiện tử, tin học. ðặc biệt là ba khu công nghiệp lớn trên ñịa bàn
tỉnh: Khu công nghiệp Tịnh Phong sản xuất vật tư, vật liệu xây dựng; Khu công
nghiệp Quảng Phú chế biến nông lâm thủy sản; và Khu công nghiệp Dung Quất mà
tầm cỡ và tính chất của nó ñược phản ánh qua ñoạn viết sau ñây: Khu công nghiệp
Dung Quất (nay là Khu kinh tế Dung Quất) "là khu công nghiệp lọc hóa dầu ñầu
tiên của cả nước, tập trung nhiều ngành công nghiệp có quy mô lớn, gắn với cảng
biển nước sâu Dung Quất và sân bay quốc tế Chu Lai ( )". Khu công nghiệp Dung
Quất có "tổng diện tích là 14.000ha, trải dài từ mũi Kỳ Hà ñến phía nam sân bay
Chu Lai thuộc tỉnh Quảng Nam với diện tích 3.700ha, phần còn lại từ phía nam sân
bay Chu Lai ñến ðô thị Vạn Tường thuộc ñịa phận Quảng Ngãi với diện tích

10.300ha. Khu Công nghiệp Dung Quất là một khu công nghiệp lớn, ñược quy
hoạch bao gồm hạ tầng kỹ thuật như hệ thống ñường giao thông, hệ thống ñiện
nước, thông tin liên lạc, sân bay Chu Lai, cảng biển nước sâu Dung Quất và thành
phố Vạn Tường. Ngoài ra, còn có nhiều cụm công nghiệp: công nghiệp kỹ thuật
cao, công nghiệp nặng (lọc dầu, ñóng sửa tàu biển, luyện cán thép), công nghiệp
hóa dầu, hóa chất, công nghiệp cơ khí sửa chữa lắp ráp, kho dầu, kho bãi, sản xuất
vật liệu xây dựng".
Về thương mại, dịch vụ và du lịch Quảng Ngãi qua các thời kỳ lịch sử, sách cho
thấy tuy có nhiều tiềm lực, nhưng nhìn chung, ñây chưa phải là mặt mạnh của tỉnh
nhà.
Về tài chính, tiền tệ, ngân hàng, sách ñiểm qua tình hình tài chính, tiền tệ ở xứ
"ðàng Trong" dưới thời các chúa Nguyễn; tài chính, tiền tệ dưới thời Tây Sơn; tài


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
24

chính, tiền tệ dưới thời nhà Nguyễn; tài chính, tiền tệ, ngân hàng dưới thời Pháp
thuộc; và ñặc biệt là tình hình tài chính, tiền tệ, ngân hàng Quảng Ngãi từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945 ñến nay.
Về giao thông - vận tải, sách giới thiệu tình hình cụ thể trong thời phong kiến,
thời Pháp thuộc, thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, và ñặc biệt là các hệ
thống ñường bộ, ñường sắt, ñường thủy của Quảng Ngãi từ năm 1975 ñến nay.
Nhìn chung, giao thông - vận tải ở Quảng Ngãi ngày càng gắn chặt, có tính tương
hỗ và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Ngãi. Sự phát
triển của giao thông - vận tải là một trong những sự phản ánh trung thực nhất của
kinh tế, ñồng thời nó cũng mở ñường cho phát triển kinh tế, nhất là trong thời kỳ
hiện ñại. Xét ở các lĩnh vực liên quan, thì giao thông - vận tải hầu như ñều có mối
quan hệ chặt chẽ, như với công - nông nghiệp, thương mại - dịch vụ, bưu chính -

viễn thông, tài chính - ngân hàng ðặc biệt ñối với Quảng Ngãi là tỉnh vốn xuất
phát từ nền kinh tế thấp kém, sự phát triển về giao thông - vận tải càng mang một ý
nghĩa ñặc biệt ñối với sự phát triển kinh tế nói chung. Yếu tố xã hội cũng là một
phần quan trọng trong sự phát triển giao thông - vận tải xưa nay, với ý nghĩa là
phát triển giao thông - vận tải không chỉ ñể phát triển kinh tế, mà còn là giải quyết
các nhu cầu xã hội ngoài kinh tế, nhưng luôn bao hàm yếu tố tăng cường nội
lực ñể phát triển.
Về bưu ñiện, sách phác họa tinh hình thông tin liên lạc ở Quảng Ngãi dưới thời
phong kiến và thời Pháp thuộc, ñặc biệt là việc thông tin liên lạc bí mật phục vụ
cho công tác ðảng trong giai ñoạn 1930 - 1945, cũng như thông tin liên lạc trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Từ năm 1975 ñến nay, ngành bưu
ñiện Quảng Ngãi ñã có những tiến bộ vượt bậc và ñạt ñược nhiều thành tích ñáng
ghi nhận. ðặc biệt trong 30 năm sau ngày giải phóng, bưu ñiện Quảng Ngãi không
ngừng phát triển và ñã nhận ñược nhiều phần thưởng cao quý: ñược Chủ tịch nước
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, nhiều lần ñược tặng Bằng
khen của Thủ tướng Chính phủ về thành tích góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nhiều năm liền ñược nhận cờ thi ñua của Bộ Bưu chính Viễn
thông, cờ Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh.
Về ñiện lực, chủ yếu là từ 1954 trở lại ñây, Quảng Ngãi cũng ñã có những khởi
sắc. Tuy nhiên, ñể ñáp ứng ñược nhu cầu về ñiện ngày càng tăng của xã hội, nhất
là của sự phát triển kinh tế, ngành ñiện lực Quảng Ngãi còn phải phấn ñấu nhiều
hơn nữa.
4. Văn hóa - xã hội
Phần này viết về ñịa - văn hóa, gồm cả thảy 14 chương, từ Chương XXI ñến
Chương XXXIV của cuốn ñịa chí.
Khởi ñầu là Chương XXI nói về ăn, mặc, ở. Do có sự ña dạng về môi trường
sinh thái: núi ñồi, trung du, ñồng bằng, thung lũng, ñầm phá, ven biển, hải ñảo và
sự ña dạng về tộc người: Kinh, Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống trên ñịa bàn Quảng



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
25

Ngãi mà nơi ñây có cách ăn, mặc, ở khác nhau giữa các vùng miền. Về ăn và mặc,
sự khác nhau giữa các tộc người chưa nhiều. Về phương diện cư trú, sự khác nhau
giữa các tộc người ñược thể hiện ở cách làm nhà cửa và cách chọn ñịa bàn cư trú.
Với cư dân vùng ñồng bằng thì có sự hòa huyết giữa người Việt với người Chăm.
Từ thế kỷ XVII, XVIII trở về sau, còn có sự cộng cư và hòa huyết với người Hoa ở
vùng Cổ Lũy, Thu Xà và vùng quanh thành Gấm cũ. Làng người Việt ra ñời bằng
chính sự tái tạo làng Việt của các lưu dân Thanh - Nghệ - Tĩnh, nguồn cư dân chủ
yếu trong tiến trình ñịnh cư, khai phá trên quê hương Quảng Ngãi, nhưng do có sự
tiếp nhận trong chừng mực nào ñó phương thức sinh sống của các nguồn cư dân
khác nhau thuộc bản ñịa, ñặc biệt là người Chăm, mà làng của người Việt ở Quảng
Ngãi cũng có nhiều khác biệt so với làng của người Việt ở miền Bắc. Còn với cư
dân miền núi thì các "plây" của người Hrê, Ca Dong hay "nóc" của người Cor,
tương ñương với làng của người Việt, lại không chịu sự chi phối bởi tư tưởng
phong thủy truyền thống phương ðông. Họ chọn nơi ở theo một kiểu môi trường
khác. "Plây" hay "nóc" ñược lập theo các nguyên tắc: phải là nơi quang ñãng, khô
ráo, không quá dốc; phải có khu vực sản xuất, săn bắn, hái lượm; phải là nơi gần
nguồn nước ñể tiện lợi trong sinh hoạt hàng ngày như nấu ăn, uống, tắm rửa, giặt
giũ và nhất là phải có sự ñồng ý của thần linh qua bói giò gà và thử ống nước,
thử ñóng cây phép.
Tiếp ñến là Chương XXII, nói về quan hệ gia ñình, làng bản. Người Quảng Ngãi
cũng như cộng ñồng cư dân các tỉnh Nam Trung Bộ có những cách ứng xử trong
gia ñình, làng xóm gần giống nhau. ðại bộ phận người Việt ở vùng ñất này có
nguồn gốc từ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh nên ñã kế thừa truyền thống ứng xử của
người Việt ở vùng quê gốc. Các dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi vốn nằm trong
một dòng chảy văn hóa - lịch sử với các dân tộc vùng Trường Sơn - Tây Nguyên
nên cũng có cách ứng xử trong gia ñình, làng xóm giống với các dân tộc khác trên

vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Tuy nhiên, do ñiều kiện tự nhiên, thành phần,
nguồn gốc dân cư có ít nhiều khác biệt nên các dân tộc trên quê hương Quảng
Ngãi, hay gọi chung là người Quảng Ngãi, cũng có những cách ứng xử trong gia
ñình lẫn ngoài xã hội có ít nhiều nét riêng so với người ở những ñịa phương khác.
Chương XXIII nói về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo. Chung quanh vấn
ñề này, Phan Kế Bính trong lời Tựa sách Việt Nam phong tục có lý giải như sau: "Mỗi
nước có một phong tục riêng. Phong tục ấy kỳ thủy hoặc bởi tự một vài người mà rồi
bắt chước nhau thành ra thói quen; hoặc bởi ở phong thổ và cách chính trị, cách giáo
dục trong nước mà thành ra; hoặc bởi cái phong trào ở ngoài tràn vào rồi dần dần tiêm
nhiễm thành tục. Nhưng ñại ñể tục gì cũng vậy, phải trải lâu tháng lâu năm mới
thành ñược, mà trong những tục ấy cũng có những tục hay, cũng có những tục dở.
Duy chỉ bởi tai mắt người ñã quen, lòng người ñã tin dùng, thì dẫu có người biết là
dở mà cũng không sao ñổi ngay ñi ñược". Riêng ở Quảng Ngãi, có những phong
tục, tập quán, tín ngưỡng nảy sinh từ bản ñịa, như lễ khao lề thế lính Hoàng Sa,
một lễ thức ñộc ñáo, chỉ thấy xuất hiện ở ñảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Còn phần
nhiều các phong tục tập quán khác ñều bắt nguồn từ phong tục, tập quán chung của
cả nước, thậm chí là của cả khu vực ðông Bắc Á hoặc ðông Nam Á.

×