Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Địa Đồ Duyên Hải Miền Trung - Sông Trà phần 10 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 109 trang )



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
108

HUY
ỆN TR
À B
ỒNG

T
RÀ BỒNG là huyện miền núi nằm ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi. Phía ñông giáp
hai huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh; phía tây giáp huyện Tây Trà; phía nam giáp huyện
Sơn Hà; phía bắc giáp huyện Trà My và huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam). Diện
tích 418,75km
2
. Dân số 29.316 người (năm 2005). Mật ñộ dân số khoảng 70
người/km<sup2
(1)
. ðơn vị hành chínhh trực thuộc gồm 9 xã (Trà Phú, Trà Bình, Trà
Giang, Trà Thuỷ, Trà Hiệp, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Sơn, Trà Lâm), 1 thị trấn (Trà
Xuân, huyện lị), với 44 thôn; trong ñó:
Thị trấn Trà Xuân có 3 thôn: Xuân Tây, Xuân Trung, Xuân ðông (ñều lấy chữ
Xuân làm ñầu), sau ñổi là tổ dân phố số 1, tổ dân phố số 2, tổ dân phố số 3;
Xã Trà Phú có 4 thôn: Phú Hòa, Phú An, Phú Long, Phú Tân (ñều lấy chữ Phú làm
ñầu);
Xã Trà Bình có 4 thôn: Bình Thanh, Bình Tân, Bình Trung, Bình ðông (ñều lấy
chữ Bình làm ñầu);
Xã Trà Giang có 3 thôn: thôn 1 Trà Mít (Trà Công), thôn 2 Trà Ngang (Trà
Giăng), thôn 3 (Trà Nhỉ);


Xã Trà Thuỷ có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 6;
Xã Trà Hiệp có 4 thôn: thôn Cả, thôn Cưa, thôn Nguyên, thôn Bằng;
Xã Trà Tân có 4 thôn: Tà Ót, Tà Ngon, Trường Biện, Trường Giang;
Xã Trà Bùi có 5 thôn: thôn Quế, thôn Tang, thôn Tây, thôn Gò, thôn Niêu;
Xã Trà Sơn có 7 thôn: Sơn Bàn, Sơn Thành, thôn ðông, thôn Bắc, thôn Trung,
Cà Tinh, thôn Tây;
Xã Trà Lâm có 4 thôn: Trà Xanh, Trà Khương, Trà Hoa, Trà Lạc (ñều lấy chữ Trà
làm ñầu).
Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến thị trấn Trà Xuân 55km, trong ñó có 24km Quốc lộ 1
và 21km ñường tỉnh lộ 622.
Trà Bồng là ñịa bàn cư trú lâu ñời của dân tộc Cor với cây quế nổi tiếng, với
vùng ñông là các xã người Kinh chuyên làm lúa nước. Nơi ñây từng nổ ra cuộc
Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi 28.8.1959. Trà Bồng chủ yếu phát
triển nông, lâm nghiệp, công - thương nghiệp phát triển chủ yếu ở các xã vùng thấp
trong huyện.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
109

*
* *
Về hành chính, Trà Bồng xưa là một trong bốn nguồn (nguyên) của tỉnh Quảng
Ngãi, thường ñược gọi là nguồn ðà Bồng, sau ñổi là nguồn Thanh Bồng, rồi ñồn
Trà Bồng, châu Trà Bồng, có 3 tổng, 34 sách (làng).
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, châu Trà Bồng ñổi là huyện Trà Bồng, các
sách cũ nhập thành các xã mới, các làng tây Bình Sơn nhập vào huyện Trà Bồng,
hình thành 13 xã: Trà Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Thanh,
Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thuỷ, Trà Sơn, Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình; ñại ñể tên

các xã không khác mấy với các xã, thị trấn ở hai huyện Trà Bồng, Tây Trà ngày
nay. ðến năm 1951, 3 xã Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình (nguyên là các làng Xuân
Khương, ðông Phú, Vinh Hòa thời Pháp thuộc) cắt giao về cho huyện Bình Sơn,
thành 1 xã là xã Bình Lâm.
Từ sau 1954, chính quyền Sài Gòn tiếp quản, ñến giữa năm 1958, ñổi huyện Trà
Bồng thành quận Trà Bồng, ñổi tên xã cũ thành tên xã mới (cũng lấy chữ Trà làm
ñầu): xã Trà Xuân ñổi thành Trà Khương; xã Trà Giang ñổi thành Trà Nhỉ; xã Trà
Thuỷ ñổi thành Trà Bắc; xã Trà Sơn ñổi thành Trà Lang; xã Trà Thanh ñổi thành
Trà ðoài; xã Trà Lâm ñổi thành Trà Binh; xã Trà Lãnh ñổi thành Trà Trung; xã
Trà Nham ñổi thành Trà Thượng; xã Trà Quân ñổi thành Trà Hương; xã Trà Khê
ñổi thành Trà Hoa; xã Trà Phong ñổi thành Trà Thạnh. Quận lỵ ñặt ở xã Trà
Khương (Trà Xuân).
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng kháng chiến quyết ñịnh cắt
các xã phía nam Cà ðam của huyện Sơn Hà có dân tộc Cor sinh sống là các xã Sơn
Thọ, Sơn Hiệp, Sơn Bùi, Sơn Tân nhập vào Trà Bồng, ñổi thành các xã Trà Thọ,
Trà Hiệp, Trà Bùi, Trà Tân. Có thời, các xã ñông bắc ñược cắt thành khu I, các xã
quanh núi Cà ðam ñược tách lập thành khu II, các xã phía tây huyện cắt lập thành
khu IX, trực thuộc vùng căn cứ ñịa của Tỉnh uỷ.
Sau năm 1975, sau nhiều lần tách nhập các xã, ñến cuối năm 2003, Trà Bồng có
19 xã thị trấn: Trà Thanh, Trà Khê, Trà Quân, Trà Phong, Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà
Lâm, Trà Lãnh, Trà Thuỷ, Trà Sơn, Trà Nham, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Phú, Trà
Bình, Trà Tân, Trà Trung, Trà Xinh và thị trấn Trà Xuân.
Cuối năm 2003, 9 xã phía tây huyện ñược tách lập thành huyện mới Tây Trà.
Trà Bồng còn 10 xã, thị trấn (như ñã kể trên).
Về tự nhiên, Trà Bồng là huyện miền núi, với diện tích ñồi núi chiếm phần lớn
ñất ñai trong huyện. Vùng ñồng bằng nằm ở phía ñông huyện, giáp giới với huyện
Bình Sơn và phía hữu ngạn sông Trà Bồng, ở các xã Trà Bình, Trà Phú và thị trấn
Trà Xuân. ðịa hình Trà Bồng khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các khối núi và
sông suối chằng chịt trong các thung lũng nhỏ hẹp. Núi ở ñây có ñộ dốc rất lớn.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
110

Núi ñồi bao bọc khắp nơi trong huyện, như núi Cà ðam, núi Răng Cưa, núi
Chớp Vung, núi Cà ðú Hệ thống sông suối gồm sông Trà Bồng, sông Giang,
sông Trà Bói, suối Cà ðú, suối Trà Cân, suối Nun. ðất bằng và thung lũng ở Trà
Bồng rất ít ỏi, nhỏ hẹp. Rừng núi Trà Bồng có nhiều lâm thổ sản, ñất ñai thích hợp
với cây quế. Phía ñông Trà Bồng có suối khoáng Thạch Bích ñang ñược khai thác
dùng trong công nghiệp nước uống.
Khí hậu Trà Bồng nắng lắm mưa nhiều, lượng mưa ở ñây thuộc hạng cao nhất
trong nước, gây ra nhiều hạn hán, lũ lụt, ñộ ẩm cũng khá cao.
Trong lời truyền của dân và trong các truyện cổ ñều thể hiện những ký ức kinh
hoàng về các trận lũ, nhất là trận lũ 1964. Tình trạng lở ñất xảy ra ở một số nơi,
hiện tượng nứt núi cũng xuất hiện, như tại thôn ðông xã Trà Sơn.
Tình trạng sử dụng quỹ ñất ở Trà Bồng năm 2005 như sau: 1) ðất nông nghiệp
5.308ha (cây hàng năm 3.942ha); 2) ðất lâm nghiệp 30.338ha; 3) ðất chuyên dùng
337ha; 4) ðất khu dân cư 195ha; 5) ðất chưa sử dụng 5.698ha.
Về dân cư, cư dân ở Trà Bồng chủ yếu là người Cor, người Việt. Người Cor
sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, trồng quế, bắp, săn bắn, hái lượm, chăn nuôi các
loại gia súc, gia cầm. Xã hội Cor xưa kia ở vào thời kỳ tiền giai cấp, tính cố kết
cộng ñồng cao, sống hiền hòa, cần cù nhẫn nại, có nhiều giá trị văn hóa cổ truyền
ñặc sắc. Người Việt cư trú chủ yếu ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân
phía ñông huyện, ven trục lộ giao thông, chủ yếu làm ruộng nước và buôn bán, làm
nghề thủ công, và có sự giao lưu với văn hóa Cor. Ngoài ra, còn có người Hrê chủ
yếu sống ở xã Trà Tân. Người Cor, người Việt, người Hrê ở Trà Bồng có truyền
thống ñoàn kết, có sự giao lưu buôn bán lâu ñời và có truyền thống yêu nước khá
nổi bật.
Trong số dân hơn 29.000 người ở Trà Bồng có trên 10.000 người Cor, trên

18.000 người Việt, trên 200 người Hrê. Số người Việt ñông nhất là ở thị trấn Trà
Xuân (trên 7.000 người), kế ñến là các xã Trà Bình, Trà Phú (toàn bộ số dân của 2
xã này). Người Cor sống ñều khắp ở các xã còn lại.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
111

Sự phân bố dân cư theo từng xã, thị trấn thời ñiểm 2005 như sau
(2):

TT Xã, thị trấn
Diện tích
(km
2
)
Dân số
(người)
Mật ñộ dân số
(người/km
2
)
1

Trà Xuân

6,09


7.380

1.212

2 Trà Giang 36,50 395 11
3 Trà Thủy 75,48 2.443 32
4 Trà Hiệp 49,00 1.645 34
5 Trà Phú 15,68 4.162 265
6 Trà Tân 70,75 1.575 22
7 Trà Sơn 56,49 4.094 72
8 Trà Lâm 34,61 1.595 46
9 Trà Bình 22,18 4.796 216
10 Trà Bùi 51,28 1.316 26

Toàn huyện
418,75 29.401 70
Thống kê trên cho thấy thị trấn Trà Xuân có số dân cao tuyệt ñối và mật ñộ dân
số cũng cao tuyệt ñối, trong khi diện tích thấp tuyệt ñối. Rộng nhất là xã Trà Thủy.
Dân số và mật ñộ thấp tuyệt ñối là xã Trà Giang. Các xã có người Việt sống tập
trung là Trà Bình, Trà Phú, dân số và mật ñộ dân số cao hơn hẳn so với các xã
khác.
*
* *
Nổi bật trong truyền thống yêu nước của người Cor ở Trà Bồng là sự tham gia
phong trào "Nước Xu ñỏ" từ năm 1938 và tiếp tục chống Pháp cho ñến Cách mạng
tháng Tám 1945 thành công. Năm 1938, bốn già làng có uy tín nhất của dân tộc
Cor là ông Gia, ông Chân, ông Phú, ông Tài ñã kêu gọi nhân dân quanh vùng ñứng
lên chống thực dân Pháp bắt xâu, thu thuế. Họ chỉ huy bốn ñội nghĩa quân trang bị
vũ khí thô sơ kéo về tấn công châu lỵ Trà Bồng nhưng bị thất bại, nhiều người hy
sinh. Dân các làng buộc phải quay về chịu xâu, thuế như cũ. Các thủ lĩnh, dẫn ñầu

là ông Gia, ông Tài, cùng dân của hàng chục làng kéo nhau lên Cà ðam, lên ñầu
nguồn sông Tang xây dựng căn cứ ñể chiến ñấu lâu dài. Nghĩa quân ñã gây cho
Pháp nhiều thiệt hại, ñã ñánh trận Gò Rô nổi tiếng (tháng 1.1939). Năm 1942, nhân
lúc giặc Pháp ñưa quân lên ñánh vùng cao, nghĩa quân lại kéo xuống tấn công châu
lỵ Trà Bồng, nhưng lại bị thất bại. Pháp tăng cường ñánh phá lên căn cứ và dụ dỗ,
mua chuộc. Các thủ lĩnh và dân các làng cương quyết cố thủ trong căn cứ cho mãi
ñến tháng Tám 1945. Khi ñược biết Việt Minh ñang lãnh ñạo nhân dân giành chính
quyền ở châu lỵ Trà Bồng, nghĩa quân kéo về tham gia. Ông Gia (lúc này ñã 90
tuổi) ñược cử làm Chủ tịch Trà Bồng.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
112

Các xã ở phía ñông huyện thuộc ñịa bàn cư trú của người Việt, hình thành tổ
chức cơ sở ðảng từ năm 1930 và liên tục ñấu tranh góp phần vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Trà Bồng trong kháng chiến chống Pháp là căn cứ ñịa vững chắc
của cách mạng, giữ vững tự do và ñóng góp sức người, sức của vào công cuộc
ñánh thắng quân Pháp xâm lược.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trà Bồng là căn cứ ñịa ñầu tiên của
tỉnh Quảng Ngãi. Cũng tại Gò Rô, ngày 7.7.1958, ðại hội nhân dân 4 dân tộc: Cor,
Hrê, Ca Dong, Kinh thể hiện quyết tâm ñánh Mỹ, ñược mệnh danh là ñại hội "Diên
Hồng" của nhân dân các dân tộc miền Tây Quảng Ngãi. Trà Bồng là nơi khởi phát
cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi 28.8.1959, một trong những
cuộc ñồng khởi nổi bật nhất ở miền Nam Việt Nam thời ấy. Sau cuộc khởi nghĩa,
nhiều vùng nông thôn ñã ñược giải phóng, các ủy ban tự quản xã ra ñời. Nhân dân
Trà Bồng ñã bẻ gãy các cuộc phản kích, ñánh phá của kẻ ñịch ñể giữ vững vùng
giải phóng và ñóng góp nhiều nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến ñến thắng lợi
hoàn toàn. Trà Bồng ñược giải phóng hoàn toàn ngày 18.3.1975.

Quân và dân Trà Bồng, quân và dân các xã Trà Sơn, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Lâm,
Trà Hiệp ñược phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Có
12 bà mẹ ñược phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
*
* *
Kinh tế Trà Bồng nhìn chung còn chậm phát triển. Hoạt ñộng kinh tế của nhân
dân Trà Bồng chủ yếu là nông, lâm nghiệp. Công, thương nghiệp và dịch vụ cũng
dần dần phát triển theo thời gian. Năm 2004, tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp là
55%; các hoạt ñộng công, thương nghiệp, dịch vụ ñã tăng lên 45% tổng giá trị. Tuy
nhiên, tỉ lệ trên chưa phản ánh thật rõ sự phát triển, vì giá trị sản xuất nông nghiệp
tương ñối thấp, trong khi ña số dân vẫn sống bằng nông nghiệp. Tính ở thời ñiểm
2005, số dân sống bằng nông, lâm nghiệp là 27.028 người với 5.568 hộ và 13.389
lao ñộng. Trong khi số dân sống bằng nghề khác là 2.551 người với 922 hộ và
2.928 lao ñộng.
Về nông nghiệp, các tài liệu cổ cho thấy nông nghiệp ở Trà Bồng xưa cũng có
một số ñiểm ñáng chú ý. Tập Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác và các tác
giả in trên Nam phong tạp chí (1933) có ghi ở thời ñiểm ấy, Trà Bồng (gồm cả
huyện Tây Trà ngày nay) có 1.282 mẫu ruộng (461,52ha), thu hoạch ñược 228 tấn
lúa mỗi năm. Có thể hiểu số ruộng này phần lớn nằm ở vùng thấp của huyện và
phần nhiều do người Việt canh tác. Ngoài ra, không thấy ghi chép về loại cây trồng
khác. Về chăn nuôi, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí ghi ở Trà Bồng có nuôi 88 con
trâu, 20 con bò, 4 con ngựa, 871 con heo, 4.121 con gà, song các tác giả cũng nhấn
mạnh các số liệu ấy cũng chỉ "phỏng chừng mà kê" nên ñộ chính xác chắc chắn
không cao. Trải qua hai cuộc kháng chiến, nông nghiệp ở Trà Bồng chưa có ñiều
kiện phát triển. Từ sau năm 1975, sản xuất nông nghiệp mới thực sự chuyển biến.
Tính ở thời ñiểm 2005, giá trị sản xuất nông nghiệp ở Trà Bồng là 52,743 tỷ ñồng,


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang

113

trong ñó trồng trọt 31,06 tỷ ñồng, chăn nuôi 21,128 tỷ ñồng. Do ñặc ñiểm tự nhiên
và tập quán canh tác mà nông nghiệp Trà Bồng có thể phân ra hai vùng khá rõ rệt:
nông nghiệp ở ba xã, thị trấn vùng thấp với ña số người Việt và nông nghiệp ở 7 xã
vùng cao với ña số ñồng bào Cor. Ba xã, thị trấn với ña số người Việt sinh sống ở
phía ñông huyện làm nông theo kiểu canh tác của miền xuôi, trồng lúa nước và các
loại cây hoa màu, cây lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ba xã, thị trấn này
tuy không rộng lắm nhưng nhờ kinh nghiệm thâm canh lúa nước, nên là nguồn
lương thực quan trọng của huyện, chủ yếu là lúa gạo. Thống kê cho thấy, trong
tổng sản lượng lương thực toàn huyện Trà Bồng năm 2005 là 7.020 tấn thì tổng
lượng lương thực của 3 xã, thị trấn vùng thấp ñã có 4.031 tấn (xã Trà Bình 1.864
tấn, xã Trà Phú 1.135 tấn, thị trấn Trà Xuân 1.032 tấn). Tuy nhiên, do vùng thấp
tập trung dân số với mật ñộ cao, nên bình quân lương thực ñầu người lại không
phải cao nhất trong huyện, trừ xã Trà Bình ñạt 388kg/người/năm (ñứng thứ hai sau
xã Trà Giang 463kg), thì ở xã Trà Phú chỉ 273kg, ở thị trấn Trà Xuân thì thuộc
hạng thấp nhất trong huyện (140kg). Bảy xã vùng cao nơi người Cor chiếm ña số,
do ñiều kiện thiên nhiên với nhiều thung lũng hẹp nên từ xưa không có truyền
thống trồng lúa nước như vùng người Hrê ở Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. ðể có
lương thực, xưa kia người Cor chủ yếu tỉa lúa rẫy, tỉa bắp, trồng bo bo… ñều ở trên
rẫy. Từ khi có chính quyền cách mạng, người Cor dần chuyển cư xuống thấp và
bắt ñầu có sự khai hoang làm ruộng nước. Xưa kia việc chăn nuôi gia súc như trâu,
heo cũng rất khó, vì vùng rừng núi Trà Bồng có rất nhiều thú dữ như voi, hổ. Qua
các thời kỳ cách mạng, canh tác nông nghiệp ở Trà Bồng mới dần dần có sự
chuyển biến. Người Cor sinh hoạt kinh tế nông, lâm nghiệp theo lối cổ truyền, có
thêm các nhân tố mới nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong ñó có cả
dấu ấn của kinh tế nông nghiệp sơ khai. Người Cor ngày nay, bên cạnh việc khai
hoang trồng lúa nước với kỹ thuật mới, vẫn thường xuyên trồng và khai thác quế
như xưa, phát nương làm rẫy tỉa lúa, ngô, nuôi trâu, gà, vịt ở làng, ñi rừng hái rau
ranh, bắt ốc, khai thác mật ong, ñót, các loại cây, dây rừng ñể về làm ñồ dùng, thức

ăn và bán lấy tiền. Sản vật ở rừng có nhiều, nhưng ngon nhất là ốc ñá, rau ranh và
mật ong hoa quế.
Theo thống kê, tổng sản lượng lương thực có hạt của Trà Bồng năm 2004 trên
6.368 tấn, bình quân lương thực ñầu người gần 219,7kg; sản lượng lương thực năm
2005 là 6.985 tấn, bình quân lương thực ñầu người là 238,3kg
(3)
, những con số còn
quá thấp so với nhiều nơi trong tỉnh Quảng Ngãi, nhưng là một tiến triển khá cao
trong ñiều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực.
Thống kê sau ñây sẽ cho thấy sự tiến triển ấy
(4)
:
Năm

1975

1980

1985

1990

1995

2000

2005

Bình quân
lương th

ực ñầu
người (kg)
73,1 134,2 159,1 129,1

107,6

163,5 238,3

Sự tăng ñột biến của 2 con số năm 2000 và 2005 có nguyên nhân từ việc chia tách


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
114

huyện Tây Trà (vùng có rất ít diện tích lúa nước), nhưng nhìn trên ñại thể từ 1975
ñến 2005, có thể thấy sự tăng tiến trong sản xuất lương thực.
Tính ở thời ñiểm 2005, sản lượng lương thực bình quân ñầu người cao nhất là ở
xã Trà Giang 463kg, xã Trà Bình 388kg, xã Trà Thủy 330kg, thấp nhất là xã Trà
Bùi 135kg, thị trấn Trà Xuân 140kg, các xã khác xê dịch trong khoảng 200 ñến
300kg.
Bên cạnh cây lương thực có hạt, ở Trà Bồng còn trồng nhiều khoai, sắn. Sau ñây
là thống kê về các loại cây trồng chính ở Trà Bồng năm 2005
(5)
:
TT

Cây tr
ồng


Di
ện tích (ha)

Năng su
ất (tạ/ha)

S
ản l
ư
ợng (tấn)

1

Lúa

2051

30,8

6.311

2

Ngô

312

21,6

674


3

S
ắn

2.312

79

18.262

4

L
ạc

155

13,7

212

5

Mía

194

433,4


8.408

6

ð
ậu các loại

111

9,6

107

7 Rau các loại
215 153,3 3297

Lúa trồng nhiều nhất ở xã Trà Bình với diện tích 510ha, sản lượng 1.751 tấn.
Năng suất lúa cao nhất ở thị trấn Trà Xuân với 40,36 tạ/ha, kế ñó là xã Trà Phú
37,21 tạ/ha, thấp nhất ở xã Trà Lâm 19,42 tạ/ha.
Ngô trồng nhiều nhất ở xã Trà Sơn với diện tích 94ha, sản lượng 190 tấn; tiếp ñó
là xã Trà Bình với diện tích 45ha, sản lượng 113 tấn; xã Trà Thủy với diện tích
41ha, sản lượng 91 tấn.
Sắn toàn huyện có diện tích khá lớn, trong ñó có diện tích sắn lớn nhất là xã Trà
Bình với 495ha, xã Trà Tân với 415ha, nhưng sản lượng sắn cao nhất lại là xã Trà
Phú với 5.076 tấn.
Lạc trồng nhiều nhất là ở xã Trà Bình với diện tích 120ha, sản lượng 174 tấn; xã
Trà Phú 21ha, sản lượng 31 tấn; thị trấn Trà Xuân 9ha, sản lượng 12 tấn. Các xã
khác không có.
Mía cũng tập trung ở ba xã, thị trấn vùng thấp, trong ñó tập trung ở xã Trà Bình

với diện tích 128ha, sản lượng 5.760 tấn mía cây, chiếm khoảng 2/3 về diện tích và
sản lượng mía toàn huyện.
ðậu các loại với diện tích ít ỏi phân bố ñều khắp các xã, thị trấn.
Rau các loại trồng nhiều nhất ở xã Trà Phú với diện tích 75ha, sản lượng 1.019
tấn, thị trấn Trà Xuân với 46ha, sản lượng 632 tấn.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
115

Về thủy lợi, tổng diện tích tưới nước bằng công trình thủy lợi có 516,4ha, trong
ñó tưới bằng công trình kiên cố có 421,4ha (năm 2004).
Các loại gia súc, gia cầm ở Trà Bồng phổ biến là bò, trâu, heo, gà, vịt. Tình
hình chăn nuôi vẫn chưa ở mức cao, như số liệu của năm 2004 cho thấy: toàn
huyện có 59 con trâu, 6.687 con bò, 14.611 con heo và trên 59.000 gia cầm. Năm
2005, Trà Bồng có 74 con trâu, 7.670 con bò, 15.249 con heo. Các xã Trà Giang,
Trà Phú, Trà Bùi không có trâu. Các xã khác có tối ña 22 con trâu. Trong tổng số
7.670 con bò trong toàn huyện, các xã, thị trấn vùng thấp có ñến 5.589 con, chiếm
tỷ lệ trên 2/3, cụ thể xã Trà Bình có 2.385 con, xã Trà Phú 1.926 con, thị trấn Trà
Xuân 1.278 con, các xã còn lại ñều có từ 600 con trở xuống. Các xã có số lợn trên
2 tháng tuổi từ 1.000 con trở lên gồm: xã Trà Phú 2.930 con, xã Trà Bình 2.855
con, thị trấn Trà Xuân 2.827 con, xã Trà Thủy 1.700 con, xã Trà Sơn 1.550 con, xã
Trà Hiệp 1.411 con. Các xã khác chỉ có từ 700 con trở xuống.
Về lâm nghiệp, thuở xưa vùng Trà Bồng nổi tiếng với loại cây trồng ñặc chủng
là cây quế, thường ñược gọi là quế Quảng. Bên cạnh một ít quế rừng mọc tự nhiên,
người Cor chuyên việc trồng quế trên rẫy, thành rừng. Nhiều thương nhân người
Việt ñã lên các làng người Cor ñể mua quế về xuôi bán lại cho người Hoa xuất
khẩu. Thời nhà Nguyễn, hằng năm các vua Nguyễn ñều cho ñặt mua quế Trà Bồng.
Người dân Cor bóc vỏ quế bán ñể mua về các vật dụng thiết yếu. Quế ñược trồng

bổ sung hằng năm. Ngoài việc trồng quế, hoạt ñộng lâm nghiệp của người Cor chủ
yếu là khai thác sản vật ở rừng. Trải qua quá trình khai thác và qua hai cuộc chiến
tranh, rừng Trà Bồng bị tàn phá nặng, trong khi ñồng bào dân tộc Cor vẫn dựa vào
việc khai thác lâm thổ sản như một nguồn bổ sung quan trọng cho cuộc sống, thì
ñối với chính quyền ñịa phương, việc bảo vệ, khoanh nuôi, trồng rừng phòng hộ,
rừng nguyên liệu là nhiệm vụ quan trọng và cũng là sự tạo môi trường thuận lợi,
hỗ trợ cuộc sống cho nhân dân. Việc khai thác chủ yếu tập trung vào gỗ rừng trồng
như keo, bạch ñàn, các loại cây thiên nhiên như tre, nứa, lồ ô, mây, ñót khô. Riêng
vỏ quế xô hằng năm khai thác vài trăm tấn. Diện tích trồng quế tính ở thời ñiểm
năm 2004 có 3.387ha. Việc trồng và khai thác quế trong hàng chục năm trở lại ñây
ñã suy giảm, nằm ở mức thấp, vì giá quế trên thị trường xuống rất thấp. ðây là một
vấn ñề khá nan giải cho vùng ñất quế Trà Bồng. Bà con dân tộc Cor vốn trông cậy
nhiều ở cây quế và ñiều kiện, ñịa hình, khí hậu ở ñây không dễ chuyển ñổi sang
cây trồng khác. Cây keo lai ñang ñược trồng khá nhiều.
Về tiểu thủ công nghiệp, ở Trà Bồng chủ yếu vẫn là các nghề thủ công mang tính
tự túc, tự cấp của người Cor, trong ñó chủ yếu là ñan lát các vật dụng dùng cho sinh
hoạt và sản xuất như gùi các loại, chiếu nằm, chiếu phơi lúa, mủng, giỏ nhốt gà với
những nét ñan lát khá tinh xảo. Vật liệu ñan chủ yếu dùng mây, cây lùng, nứa. Nghề
thủ công của người Kinh thì chủ yếu là các nghề thông dụng như hồ, mộc, làm gạch
ngói, rèn, khai thác ñá. Từ sau năm 1975, ở Trà Bồng còn có thêm nghề sản xuất ñồ
thủ công mỹ nghệ từ vỏ quế, như bình ly, ống ñựng tăm, quả bánh bằng vỏ quế già
(quế tam sơn), nhưng việc tiêu thụ chưa nhiều. Suối Thạch Bích tại xã Trà Bình ñã
ñược Nhà máy nước khoáng của Công ty ñường Quảng Ngãi khai thác và ñóng chai


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
116

với thương hiệu cùng tên, là một sản phẩm rất ñược ưa chuộng trên thị trường. Thống

kê cho biết năm 2005, Trà Bồng có 235 cơ sở sản xuất công nghiệp cá thể với 308
lao ñộng, tập trung ở thị trấn Trà Xuân, xã Trà Bình, xã Trà Phú, xã Trà Sơn và xã
Trà Tân. Công nghiệp Trà Bồng chủ yếu tập trung ở việc chế biến thực phẩm, may
mặc, sản phẩm gỗ, tre nứa. Giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn là 4,547 tỷ
ñồng theo giá hiện hành năm 2005.
Mặc dù cho ñến trước Cách mạng tháng Tám 1945 ñồng bào dân tộc Cor ở Trà
Bồng vẫn trong trạng thái kinh tế - xã hội thời tiền giai cấp, nhưng ñã có giao
thương xuôi ngược với người Việt, người Hoa từ rất sớm. Chợ Thạch An nằm ở
phía tây huyện Bình Sơn là một ñiểm giao thương khá sầm uất từ nguồn về biển.
Người Cor mang quế ñến bán, mua về nồi, niêu, cồng, chiêng, chè, vải, muối, gạo,
rìu, rựa tức những vật dụng thiết yếu cho sinh hoạt và sản xuất. Cũng rất phổ
biến là các thương nhân người Việt mang cõng lên các làng nóc nằm ở lưng chừng
các núi ñể thực hiện việc buôn bán tại chỗ. Từ sau năm 1975, các hình thức buôn
bán như vậy vẫn rất thường thấy. Tuy nhiên, các ñiểm thương mại, dịch vụ, các
chợ ñã dần ñược xây dựng ở các xã, ở huyện lỵ, ñã trở thành nơi tập trung buôn
bán của ñồng bào các dân tộc tại Trà Bồng. Chợ Trà Bồng ở trung tâm thị trấn Trà
Xuân và các cửa hiệu ở xung quanh ngày càng buôn bán sầm uất. Ở các thôn, làng
của ñồng bào Cor, thông thường mỗi nơi có một vài tiệm bán tạp hóa với các mặt
hàng thiết yếu, do người Việt ñảm nhiệm. Thống kê cho biết trong trong ñịa hạt
Trà Bồng năm 2005 có 805 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với tổng
cộng 871 lao ñộng, phân bố rải rác trong huyện, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là
ở Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình.
Cơ sở hạ tầng ở Trà Bồng ñã có sự phát triển khá. Từ nhiều trăm năm trước,
ñường từ miền xuôi lên nguồn Trà Bồng ñã có, nhưng chỉ là ñường ñất. Trà Bồng
ñược xem là vùng rừng thiêng nước ñộc, xa xôi hiểm trở. Châu lỵ Trà Bồng trước
Cách mạng tháng Tám 1945 tuy ñã có nhưng còn sơ sài, chỉ có ñồn binh và nhà
cửa của quan cai trị. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu
nước, ñường sá có phần ñược cải thiện hơn trước.
Cuối thập niên năm mươi của thế kỷ XX, vợ cố vấn Ngô ðình Nhu là Trần Lệ
Xuân ra lệnh cho cấp dưới làm ñường ở ñịa hạt Trà Bồng ñể ñộc quyền khai thác,

buôn bán quế. ðường rừng ñi Trà Phong, ñường nước ñi dọc các xã Trà Thuỷ, Trà
Hiệp qua huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) có xây cầu cống, tu sửa, cầu bắc qua sông
Trà Bồng ñược xây dựng, năm 1964 bị trận lũ lớn cuốn trôi (ñến năm 2005 xây dựng
lại). Tuy nhiên phải ñến sau 1975, ñường sá mới thật sự chuyển biến. Tỉnh lộ 622 từ
Châu Ổ (huyện Bình Sơn) nối với huyện lỵ Trà Bồng ñã ñược trải nhựa. ðường Trà
Bồng - Trà Phong (huyện lỵ Tây Trà) ñược xây dựng, trải nhựa. Hiện nay, ñoạn
tỉnh lộ 622 từ thị trấn Trà Xuân qua cầu men theo tả ngạn sông Trà Bồng dẫn ñến
Trà My ñã có kế hoạch xây dựng, nâng cấp. ðường huyết mạch từ Trà Tân ñi Trà
Bùi ñang ñược xây dựng. Các con ñường nối các xã dần dần ñã ñược bêtông hóa.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
117

Về thông tin liên lạc, ở huyện lỵ Trà Bồng có bưu ñiện huyện, ở các xã có nhà
bưu ñiện văn hóa xã. Số máy ñiện thoại cố ñịnh năm 2004 là 1.265 máy, năm 2005
là 1.650 máy.
Sự chuyển biến rõ nhất là ở ñiện lực. Xưa kia, Trà Bồng không có ñiện, ở người
Việt, việc thắp sáng chủ yếu dựa vào dầu thực vật như dầu dừa, dầu phụng, sáp ong
và dầu hoả; còn ở người Cor thì chủ yếu nhờ lửa củi. Từ năm 1990, thuỷ ñiện Cà ðú
với công suất 400kW ñược xây dựng ñưa ñiện về thắp sáng huyện lỵ. Năm 1995,
lưới ñiện quốc gia kéo về huyện lỵ và các xã. Năm 2004, số hộ dùng ñiện là 4.672
hộ, chiếm 75% tổng số hộ trong toàn huyện. ðiện kéo về ñã góp phần làm biến ñổi
lớn chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, nhất là khi các
phương tiện nghe nhìn, truyền thông ñại chúng ngày càng lan rộng.
Các cơ sở công cộng, như cơ quan, trạm y tế ñược xây dựng ngày càng khang
trang. Ở các xã người Việt, ña số nhà ở ñã ñược ngói hóa. Ở các làng người Cor,
nhiều người ñã làm ñược nhà ngói, có làng ñã ngói hóa hoàn toàn như thôn 2 xã
Trà Thủy. Tuy vậy, nhìn chung ñời sống của nhân dân còn quá thấp là một trở ngại

trên con ñường phát triển.
*
* *
ðiểm nổi bật trong văn hóa ở Trà Bồng là các di sản văn hóa cổ truyền và các
hoạt ñộng văn hóa mới. Ở dân tộc Cor, di sản văn hóa khá phong phú. Trà Bồng là
ñịa bàn cư trú chính của dân tộc Cor. Nơi ñây, người dân vẫn bảo tồn ñược các di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý báu. Người Cor vốn có tín ngưỡng nguyên
thuỷ vạn vật hữu linh. Trong di sản văn hóa dân tộc Cor có truyện cổ tích (ñã phần
nào ñược sưu tầm, dịch thuật và xuất bản), có các làn ñiệu dân ca như xà-ru, a-giới,
cà-lu, a-rợp Người Cor thích ñánh chiêng và có nhiều giai ñiệu chiêng ñặc sắc. Lễ
hội của người Cor thì có lễ ăn lúa mới, làm nhà mới; ñặc sắc có lễ cưới, lễ hội ăn
trâu rất ñậm màu sắc dân tộc. Trong lễ ăn trâu có cây nêu và cái gu, các bái vật hết
sức ñộc ñáo. Cây nêu của dân tộc Cor ñược dựng khá cao, với nhiều nét hoa văn,
ñan, khắc tinh xảo, có hình tượng chim chèo bẻo trên ñầu nêu, thể hiện quan niệm
thẩm mỹ và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân Cor. Riêng bộ gu thờ treo trong nhà
là di sản riêng có của dân tộc Cor, không thể tìm thấy ở các dân tộc khác. Gu thờ có
gu pi treo giữa nhà, có con chim ñại bàng lớn ñược khắc vạch các hoa văn ñỏ, trắng
trên nền ñen. Gu dẹt hay các la vang treo ở cửa ra vào, cửa xuống bếp và gu treo ở
bếp. Trên các la vang là cả một bức tranh liên hoàn, trong ñó có vẽ các hình ảnh,
hoa lá, sinh hoạt rất ñặc thù. Người Cor còn giỏi nghề ñan. Những sản phẩm ñồ ñan
của người Cor thật sự là những tác phẩm nghệ thuật, tinh xảo, ñẹp mắt. Những kinh
nghiệm về trồng, chế biến, khai thác quế, kinh nghiệm về chữa bệnh cũng là
những tri thức dân gian quý báu. Về di sản văn hóa Việt ở Trà Bồng, có thể kể ñến
những bài ca dao, các ñiệu hát còn lưu truyền ở những người già. ðiều ñáng lưu ý là
có sự giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Cor ở Trà Bồng khá ñậm nét:
người Cor có bộ lễ phục áo dài vốn là sản phẩm của miền xuôi. Ở ñiện Trường Bà


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang

118

(thị trấn Trà Xuân), người Cor, người Việt ñều tới cúng lễ. ðền thờ hổ ở xã Trà Hiệp
cũng là một biểu tượng của giao thoa văn hóa Việt - Cor. Bên cạnh ñó, di sản thiên
nhiên ở Trà Bồng cũng rất quý, như các suối thác, ñồi núi hùng vĩ và nên thơ, nổi
tiếng như thác Cà ðú, thác Xăng Bay, suối Nước Nun, suối Trà Cân, suối Nang, núi
Răng Cưa Di tích thì có ñiện Trường Bà, các ñiểm di tích chung quanh cuộc
Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi. Từ 1999, Nhà Bảo tàng Khởi
nghĩa Trà Bồng ñã ñược xây dựng, trưng bày các hình ảnh, hiện vật dân tộc học và
về cuộc khởi nghĩa. ðó là những di sản văn hóa quý báu, có khả năng thu hút
khách tham quan du lịch.
Trong các hoạt ñộng văn hóa hiện nay, các di sản văn hóa cổ truyền ñã ñược chú
ý khai thác, phát huy. ðó là các cuộc liên hoan cồng chiêng, thi trang phục dân tộc,
hội diễn ca múa nhạc dân tộc, thi hát dân ca từ phong trào văn nghệ quần chúng
ở huyện, ở tỉnh. ðồng thời, phong trào toàn dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn
hóa cũng ñược quan tâm. Có thể lấy mốc Cách mạng tháng Tám 1945 là thời ñiểm
dân tộc Cor ở Trà Bồng bước vào nếp sống hiện ñại. Tuy nhiên, do phải trải qua
hai cuộc chiến tranh, ñồng bào Cor chủ yếu vẫn sống theo nếp cũ. Chỉ ñến sau năm
1975, ñồng bào mới từ các sườn núi cao xuống thấp, ñịnh cư ở các thung lũng, bãi
bỏ các tập tục lạc hậu và xây dựng ñời sống mới. Vừa kế thừa các tinh hoa văn hóa
cổ truyền, vừa tiếp thu văn hóa mới là nét nổi bật trong văn hóa các dân tộc ở Trà
Bồng ngày nay. Các sinh hoạt thể thao quần chúng dần dần thâm nhập trong ñời
sống ở nhiều làng xã. Ở huyện có ñài truyền thanh và trạm phát lại truyền hình, ở
xã có ñài truyền thanh xã. Sinh hoạt văn hóa của ñồng bào các dân tộc ở Trà Bồng
ñã ñược cải thiện, nâng cao hơn nhiều so với trước kia.
Về giáo dục, xưa kia, việc học dường như chỉ hạn chế ở ñồng bào Việt và trong
ñồng bào Việt cũng chỉ có một số ít con nhà khá giả ñược học. ða số dân Việt và
dân Cor ñều mù chữ. Trải qua thời gian và các cuộc chiến tranh với rất nhiều gian
khó, việc học ở Trà Bồng ngày nay ñã thực sự phát triển. Giáo dục ở Trà Bồng dần
dần tiến bộ và ñã ñi vào nề nếp. ðến 2005, Trà Bồng có tổng số 16 trường học,

trong ñó có 1 trường Trung học phổ thông, 10 trường Trung học cơ sở, 11 trường
Tiểu học; có 3.875 học sinh Tiểu học với 144 lớp, 2.879 học sinh Trung học cơ sở
với 81 lớp, 1.780 học sinh Trung học phổ thông với 39 lớp. Hệ mẫu giáo có 11
trường, 45 lớp với 1.892 học sinh. Nhiều người dân tộc Cor học lên bậc ðại học.
Một số gia ñình người Việt ñã nuôi con học ñến Tiến sĩ. Tuy vậy, do ñời sống khó
khăn nên số học sinh bỏ học, nhất là ở dân tộc Cor vẫn còn cao.
Chăm sóc sức khoẻ là một vấn ñề ñược quan tâm ở Trà Bồng. Xưa kia, người
Việt, người Cor chữa bệnh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian từ nhiều ñời
truyền lại. Từ sau 1975, bệnh xá huyện ñược xây dựng. Hệ thống y tế gồm Trung
tâm y tế huyện, ñội vệ sinh phòng dịch và 10 trạm y tế ở 10 xã, thị trấn. Việc chăm
sóc sức khoẻ, phòng và chữa bệnh ngày càng ñược tốt hơn. Bệnh viện huyện có
100 giường bệnh. Số cán bộ y tế có 83 người, trong ñó có 9 bác sĩ, 1 dược sĩ ñại
học, riêng trạm y tế xã chỉ mới ở Trà Hiệp có bác sĩ. ðồng bào Cor ñã cơ bản bãi


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
119

bỏ việc cúng chữa bệnh. Việc ăn ở vệ sinh, dùng thuốc chữa bệnh ñã trở thành phổ
biến trong nhân dân.
Về các vấn ñề xã hội: Nguồn lao ñộng ở Trà Bồng ngày càng tăng lên về số
lượng và có sự cải thiện ñáng kể về chất lượng. Mỗi năm, số lượng lao ñộng tăng
bình quân khoảng 4,5 - 5%. Chất lượng lao ñộng cũng có tăng lên, nhờ nhiều
người có học vấn cao hơn, ñược ñào tạo ngành nghề. Với ñà phát triển kinh tế, mỗi
năm trên ñịa bàn huyện giải quyết ñược khoảng 400 - 500 việc làm cho người lao
ñộng. Tuy vậy, việc làm, ñói nghèo vẫn là vấn ñề lớn ở Trà Bồng. Thống kê năm
2005 cho biết toàn huyện có 16.317 lao ñộng, trong ñó số người trong ñộ tuổi lao
ñộng không làm việc là 417 người, số người trong ñộ tuổi có khả năng lao ñộng
không có việc làm là 589 người. Số người ngoài tuổi lao ñộng có tham gia lao

ñộng cũng khá cao với 2.254 người (1.126 người già, 1.128 trẻ em). Nhà nước ñã
thực hiện trợ giá, trợ cước và phát không một số mặt hàng cho ñồng bào vùng cao.
Số hộ nghèo ở Trà Bồng có giảm ñi, nhưng tỷ lệ vẫn còn cao.

(1) Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.
(2) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Trà Bồng. Tổng số dân theo Niên giám thống kê
huyện Trà Bồng có khác chút ít so với Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.
(3), (5) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi, các số liệu này có chênh lệch nhưng
không ñáng kể so với Niên giám thống kê huyện Trà Bồng.
(4) Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.





Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
120

HUY
ỆN TÂY TR
À


T
ÂY TRÀ là huyện miền núi ở phía tây - tây bắc tỉnh Quảng Ngãi. Phía ñông
giáp huyện Trà Bồng; phía tây và bắc giáp huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam); phía
nam giáp hai huyện Sơn Hà, Sơn Tây. Diện tích 336,8km
2
. Dân số 15.520 người

(năm 2005). Mật ñộ dân số 46 người/km
2(1)
. ðơn vị hành chính trực thuộc gồm có
9 xã, tên các xã ñều lấy chữ Trà làm ñầu như ở huyện Trà Bồng (Trà Phong, Trà
Quân, Trà Khê, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Xinh, Trà Trung),
với 37 thôn; trong ñó:
Xã Trà Phong có 7 thôn: Trà Nga, Trà Niêu, Gò Rô, Hà Riềng, Trà Bung, Trà Na,
Trà Reo.
Xã Trà Quân có 3 thôn: Trà Bao, Trà Xuông, Trà Ong;
Xã Trà Khê có 3 thôn: thôn Sơn, thôn Hà, thôn ðông;
Xã Trà Thanh có 4 thôn: thôn Vuông, thôn Cát, thôn Gỗ, thôn Môn;
Xã Trà Thọ có 5 thôn: Bắc Dương, Nước Biếc, thôn Tre, thôn Tây, Bắc Nguyên;
Xã Trà Lãnh có 4 thôn: Trà Lương, Trà Linh, Trà Dinh, Trà Ích;
Xã Trà Nham có 4 thôn: Trà Cương, Trà Huynh, Trà Long, Trà Vân;
Xã Trà Xinh có 3 thôn: Trà Veo, Trà Ôi, Trà Kem;
Xã Trà Trung có 4 thôn: thôn ðam, thôn Vàng, thôn Xanh, thôn ðông.
Huyện lỵ ñóng ở xã Trà Phong. Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến Tây Trà khoảng
90km.
Tây Trà là huyện mới tách lập từ vùng ñất phía tây huyện Trà Bồng kể từ ñầu
năm 2004. Huyện nằm ở vị trí xa xôi nhất của tỉnh Quảng Ngãi, ñời sống kinh tế
còn hết sức khó khăn.
*
* *
Về hành chính: Diễn tiến hành chính xin xem ở phần viết về Trà Bồng. Tây Trà
và Trà Bồng là một trong bốn nguồn chính ở tỉnh Quảng Ngãi, xưa có tên là nguồn
ðà Bồng, nguồn Thanh Bồng. Tây Trà với ý nghĩa là Tây Trà Bồng, là vùng núi
cao của tỉnh Quảng Ngãi, có núi rừng trùng ñiệp. Thuở trước, nơi ñây là rừng
thiêng nước ñộc, với rừng rậm, nhiều chim thú, nhiều voi, hổ và các loài ñộng vật
hoang dã khác.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
121

Về tự nhiên: ðịa hình Tây Trà bị chia cắt mạnh bởi sông núi. Là một huyện
miền núi nằm ở phía ñông dãy Trường Sơn, Tây Trà có ñộ cao trung bình 500 -
700m, ñịa hình thấp dần từ tây sang ñông, ñộ dốc bình quân 15 - 20
o
.

Các núi cao
là Cà ðam (tức Ngất Cà ðrook), Măng Xinh, Giơ Lốc, Trà Rút. Có các con sông
Hà Riềng (ðắk Xa Riếc), sông Tang (ðắk Ka Tốc), Nước Biếc (ðắk Xa Biếc),
sông Trà Ích (ðắk La Buốc). Các sông nhỏ hợp nước với sông Tang, chảy theo
hướng tây bắc - ñông nam, nhập vào với sông Rinh tại xã Sơn Bao ở tây bắc huyện
Sơn Hà. Sông Rinh chảy về ñông, lại nhập với sông Rhe thành sông Trà Khúc, con
sông lớn nhất của tỉnh Quảng Ngãi. Do vậy, có thể hiểu các sông ở Tây Trà là phụ
lưu phía bắc của sông Rinh hay của sông Trà Khúc. Tại xã Trà Thanh cực tây bắc
huyện là ñiểm xuất phát của sông Trường, chảy theo hướng tây - tây bắc vào ñịa
hạt tỉnh Quảng Nam Giữa các khối núi có các thung lũng sâu và ñồng bằng rất
hẹp. Tài nguyên chủ yếu là rừng tự nhiên với hệ ñộng thực vật khá phong phú. ðất
ở Tây Trà chủ yếu là ñất triền dốc, thích hợp với cây quế và một số cây trồng khác.
Theo bản ñồ thổ nhưỡng tỉnh Quảng Ngãi (năm 1998, theo tiêu chuẩn của FAO -
UNESCO) thì Tây Trà có 2 nhóm ñất chính: nhóm ñất xám (AC) chiếm ñến
96,46%, nhóm ñất phù sa chỉ chiếm 3,54% diện tích tự nhiên (dọc theo các con
sông).
Về khí hậu, ñịa bàn Tây Trà có khí hậu khá khắc nghiệt, lượng mưa lớn, nắng
nóng gắt, thường gây ra hạn hán, lũ lụt. Lượng mưa trung bình hàng năm lên ñến
3.450mm, thường gây lụt lớn, lũ quét, sạt lở núi. Khi mưa dông có sấm sét dữ dội,

có lúc ñánh chết người.
Về tài nguyên thiên nhiên ở Tây Trà có thể kể ñến ñất ñai, tài nguyên rừng, tài
nguyên nước và khoáng sản.
Tài nguyên ñất: Tính ở thời ñiểm 2005, tình trạng sử dụng ñất ñai ở Tây Trà
như sau: 1) ðất nông nghiệp 3.390,4ha (2.856ha trồng cây hàng năm và 528,4ha
trồng cây lâu năm); 2) ðất lâm nghiệp 18.954ha (rừng tự nhiên 12.642,8ha, rừng
trồng 6.311,2ha); 3) ðất chuyên dùng 599,6ha; 4) ðất ở 148,8ha; 5) ðất chưa sử
dụng 10.586,2ha.
Tài nguyên rừng: Rừng tự nhiên ở Tây Trà thường là rừng gỗ lá rộng, rừng già
còn lại không nhiều. Do việc ñốt nương làm rẫy, diện tích rừng ngày càng thu hẹp,
ñất ñai bị xói mòn.
Tài nguyên nước: Nguồn nước khá dồi dào, nhưng do ñịa hình phức tạp nên
việc dùng nguồn nước từ sông suối cho sản xuất và ñời sống khó khăn. Hiện
Quảng Ngãi ñang xây dựng hồ chứa nước lớn trên sông Tang (hồ Nước Trong).
Tài nguyên khoáng sản: Chưa ñược khảo sát, ñánh giá ñầy ñủ. Chủ yếu là ñá
xây dựng, ñá ốp lát, trữ lượng vài triệu mét khối.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
122

Về dân cư, các phát hiện khảo cổ học gần ñây tại xã Trà Phong ñã cho biết, tại
ñịa bàn Tây Trà ngày nay, từ thời thượng cổ ñã có các lớp cư dân sinh sống. Cư dân ở
Tây Trà ngày nay hầu hết là người Cor, một số người Ca Dong, người Hrê và người
Việt. Người Cor ở Tây Trà là một bộ phận của dân tộc Cor cư trú tập trung ở các
huyện Trà Bồng, Tây Trà, Trà My (Quảng Nam), tây bắc Quảng Ngãi và tây nam
Quảng Nam, trong ñó số dân Cor ở Tây Trà là ñông nhất.
Trong tống số 15.520 người tại thời ñiểm 2005 ở Tây Trà, người Cor có tới
13.139 người (hơn 84,6%), sống ở khắp nơi trong huyện.

Trong huyện Trà Bồng cũ thì dân tộc Cor có Cor "ñường rừng" và Cor "ñường
nước". ðồng bào Cor ở ñịa bàn Tây Trà ngày nay chủ yếu là Cor "ñường rừng".
ðặc ñiểm chung của dân tộc Cor từ Cách mạng tháng Tám 1945 trở về trước là
ñang ở trạng thái kinh tế - xã hội tiền giai cấp, trong ñó, sản xuất chưa thực sự phát
triển, chế ñộ tư hữu chỉ mới manh nha, tinh thần cố kết cộng ñồng cao, hiền hòa,
dũng cảm, hiếu khách, sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, trồng quế, kết hợp
với săn bắn, hái lượm.
Người Ca Dong ở Tây Trà hầu hết sống ở xã Trà Xinh (Măng Xinh xưa), với số
dân 1.449 người (chiếm hơn 9,3% dân số toàn huyện), có ñặc ñiểm chung với
người Ca Dong ở huyện Sơn Tây láng giềng.
Người Hrê ở Tây Trà có 459 người (hơn 2,9% dân số toàn huyện), cư trú chủ yếu ở
hai xã Trà Xinh, Trà Thọ giáp giới với huyện Sơn Hà và mang ñặc ñiểm chung với
dân tộc Hrê nơi ñây.
Người Việt có nét văn hóa Việt ở ñồng bằng, với số lượng 452 người (hơn 2,9%
dân số toàn huyện), trong ñó có 301 người ở xã Trà Phong, số còn lại ở rải rác tất
cả các xã.
Các dân tộc anh em ở ñịa bàn Tây Trà chủ yếu sống bằng nghề nương rẫy (riêng
người Việt chủ yếu là làm công chức, giáo viên, buôn bán), có truyền thống ñoàn
kết, tương thân tương ái trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xét về diện tích tự nhiên, xã có diện tích rộng nhất là Trà Xinh (79,87km
2
), xã
có diện tích hẹp nhất là Trà Quân (17,51km
2
).
Xét về dân số, lấy thời ñiểm năm 2005 làm mốc, thì xã có số dân ñông nhất là
Trà Phong (nơi ñóng huyện lỵ) với 3.240 người, xã có số dân ít nhất là Trà Trung
với 792 người. Về mật ñộ dân số, trung bình trong toàn huyện là 46 người/km
2
, xã

có mật ñộ cao nhất là Trà Quân (97 người/km
2
), xã có mật ñộ thấp nhất là Trà Xinh
(21 người/km
2
). Mật ñộ dân số ở Tây Trà khá thưa thớt và sự phân bố dân cư
không ñồng ñều. Cụ thể diện tích, dân số và mật ñộ dân số các xã ở Tây Trà năm
2005 như sau
(2)
:



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
123

TT Xã Diện tích (km
2
) Dân số (người)
M
ật ñộ dân số
(người/km
2
)
1

Trà Phong

38,48


3.240

84

2

Trà Th


49,56

1.787

36

3

Trà Khê

32,32

1.351

42

4

Trà Nham


21,18

1.637

77

5

Trà Thanh

48,48

1.745

36

6

Trà
Quân

17,51

1.706

97

7

Trà Lãnh


28,95

1.610

56

8

Trà Trung

20,44

792

39

9
Trà Xinh 79,87 1.652
21
*
* *
Về truyền thống yêu nước, Tây Trà với huyện Trà Bồng gần như là một. ðồng
bào các dân tộc ở Tây Trà ñã có nhiều cuộc nổi dậy chống phong kiến, ñế quốc từ
trước Cách mạng tháng Tám 1945, trong ñó nổi bật là phong trào "Nước Xu ñỏ"
mang màu sắc thần bí từ những năm 1937 - 1938. Cũng như các dân tộc ở bắc Tây
Nguyên, dân tộc Cor tham gia nổi dậy và tin vào thứ "nước thần" thiêng liêng.
ðoàn nghĩa quân Cor kéo về ñánh châu lỵ Trà Bồng thất bại, kéo lên núi Cà ðam
xây dựng căn cứ chống Pháp, từng ñẩy lùi cuộc càn quét của quân Pháp ở Gò Rô,
cầm cự cho mãi ñến Cách mạng tháng Tám 1945, dưới sự lãnh ñạo của cụ Gia, cụ

Bung, cụ Triều, cụ Tài. Nghĩa quân Cor nhiều lần bẻ gãy các cuộc tấn công của quân
Pháp, giết ñược tên quan hai Pháp La Booctê (La Borté), ñồn trưởng Trà Bồng. Trong
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước, ñịa bàn Tây Trà tiếp tục là căn cứ ñịa
vững chắc của cách mạng. Núi Cà ðam trở thành nơi ñóng căn cứ của tỉnh trong
những năm ñầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị thể hiện lòng quyết
tâm ñánh Mỹ, ñược mệnh danh là ðại hội "Diên Hồng" của các dân tộc tỉnh Quảng
Ngãi, ñược tổ chức ngày 7.7.1958 tại Gò Rô lịch sử. Trong cuộc Khởi nghĩa Trà
Bồng và miền Tây Quảng Ngãi ngày 28.8.1959, hầu hết các xã ở Tây Trà ñều nổi
dậy ñánh ñịch, giải phóng quê hương, nay còn lại các di tích ở Gò Rô (Trà Phong),
Eo Chim (Trà Lãnh), Làng Ngải (Trà Xinh), Nước Xoay (Trà Thọ) Năm 1962,
lực lượng cách mạng bẻ gãy cuộc hành quân chiến thuật trực thăng vận của ñịch ở
Nà Niêu (Trà Phong). Tháng 4.1964, quân giải phóng ñánh thắng cuộc càn quét
mang tên "quyết thắng 203" của ñịch tại Măng Xinh (Trà Xinh). Sau năm 1975,
nhân dân các dân tộc trên ñịa bàn Tây Trà tiếp tục truyền thống xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên ñịa bàn, xây
dựng thế trận lòng dân vững chắc.
Quân và dân Tây Trà, quân và dân 3 xã Trà Phong, Trà Trung, Trà Lãnh ñược
phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.
*
* *


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
124

Về hoạt ñộng kinh tế, ở Tây Trà còn mang ñậm dấu vết của kinh tế nông
nghiệp sơ khai, nặng tính chất tự túc tự cấp. Cho ñến năm 2004, tổng giá trị sản
xuất toàn huyện chỉ ñạt 16,1 tỉ ñồng, trong ñó nông, lâm nghiệp chiếm ñến 98,1%
cơ cấu kinh tế của huyện.

Trong nông nghiệp, người dân Tây Trà từ xưa không có ruộng nước, chỉ canh
tác lúa rẫy, trỉa bắp ñể có lương thực duy trì cuộc sống. Cây trồng ñặc chủng
truyền thống ñã có từ xưa là cây quế. Trong một thời gian dài của lịch sử, cây quế
là nguồn sống chủ yếu của dân tộc Cor. Cây quế ở Tây Trà nói riêng, cả Trà Bồng,
Trà My (Quảng Nam) nói chung là giống quế Quảng nổi tiếng trong nước. Tuy
vậy, trải qua thời gian, cây quế ñã bị xuống giá, nên không còn ñóng vai trò chính
trong nông, lâm nghiệp ở Tây Trà. Năm 2004, sản lượng quế vỏ khai thác chỉ
khoảng 40 tấn, năm 2005 là 65 tấn, bằng một phần rất nhỏ so với trước kia. Người
dân tăng cường trồng các loại cây lương thực ñể sinh sống, tuy nhiên do ñất ñai,
nguồn nước không thật thuận lợi, nên việc phát triển cũng còn khá chậm chạp, lúa
nước chủ yếu ở hai xã Trà Thọ, Trà Phong như các ñồng Nà Niêu (Trà Phong), Nà
Pút. Cây lúa nước vốn không phải là cây trồng truyền thống, chỉ mới xuất hiện
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sau năm 1975. Diện tích ñất dành cho
trồng lúa năm 2005 chỉ 304ha. Năm 2004, tổng diện tích gieo cấy lúa nước chỉ có
593ha, năng suất lúa cả năm trong toàn huyện chỉ ñạt 17,8 tạ/ha, ở các xã chỉ trên
dưới con số này chút ít. ðồng ruộng hẹp, năng suất lại quá thấp, nên sản lượng lúa
thu hoạch ít ỏi. Nghề làm rẫy với hai loại cây trồng chính là lúa rẫy và ngô tiếp tục
duy trì. Lúa rẫy có khoảng trên 600ha, ngô có hơn 200ha (2004). Tổng diện tích
gieo trồng cây lương thực năm 2004 là 1.417ha, năm 2005 là 1.468ha. Sản lượng
lương thực năm 2004 là 2.282,1 tấn, năm 2005 là 2.694,4 tấn. Bình quân lương
thực ñầu người năm 2004 là 152kg, năm 2005 là 173,6kg, còn xa mới bảo ñảm
ñược nguồn lương thực tại chỗ. Diện tích gieo trồng lúa năm 2005 của Tây Trà là
1.206ha, trong ñó trừ xã Trà Trung thấp nhất với chỉ 51,6ha, các xã khác xê dịch từ
100 ñến 200ha, không có xã nào thực sự cao vượt trội. Cây khoai lang dường như
ít ñược ưa chuộng. Cây ngô có diện tích 262ha, thu hoạch ñược 541,9 tấn. Cây
khoai mì ñược chú ý trồng nhiều từ khi có Nhà máy tinh bột mỳ Sơn Hải (huyện
Sơn Hà) ñược xây dựng. Năm 2005, Tây Trà có 1.112ha mì, sản lượng 9.766 tấn.
Các loại rau, ñậu tuy có ñược trồng nhưng không thật ñáng kể. Thuở xưa, ñịa hạt
Tây Trà trồng rất nhiều ñậu xanh, loại ñậu phổ biến ở nhiều vùng nhưng có lẽ ñược
trồng nhiều ở ñây có thể vì loại cây trồng này chịu ñược nắng hạn. Nghề chăn nuôi

không thật phát triển. Năm 2005, toàn huyện Tây Trà chỉ có 119 con trâu, 1.609 con
bò (trong ñó chỉ có 13 con bò lai), 3.548 con heo, 12.420 con gà, 359 con dê, nếu so
với chỉ một xã có nông nghiệp phát triển khá ở miền xuôi, vẫn còn kém xa, mặc dù
nơi ñây có thuận lợi hơn về ñồng cỏ. Các xã có ngành chăn nuôi khá là Trà Phong,
Trà Thọ, Trà Xinh, Trà Nham, tuy nhiên do tập quán chăn nuôi thả rông còn phổ
biến, nên chất lượng, năng suất ñều không cao. Cây lúa nước ở Tây Trà chưa thể
phát triển mạnh. Do ñặc ñiểm của ñịa chất, ñịa hình, dòng chảy trên ñịa bàn cư trú
mà người dân Cor ở Tây Trà không có truyền thống canh tác lúa nước như người
Việt hay người Hrê ở các huyện láng giềng. Từ sau năm 1975, với phong trào ñịnh
canh ñịnh cư, người Cor mới dần từ bỏ khu vực cư trú ở cheo leo giữa sườn núi


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
125

xuống cư trú dưới các trảng bằng và mới bắt ñầu khai ruộng, tập làm lúa nước. Nếu
không kể huyện Lý Sơn chủ yếu làm nghề cá, thành phố Quảng Ngãi trọng tâm là
công - thương nghiệp, thì lương thực bình quân ñầu người hằng năm ở Tây Trà là
thấp nhất trong các huyện nông nghiệp trong tỉnh, chỉ bằng một nửa bình quân
lương thực ñầu người trong toàn tỉnh (320,3kg/năm 2005).
Sau ñây là thống kê tổng hợp về các cây trồng và vật nuôi chính của Tây Trà năm
2005
(3)
.
Các loại cây trồng chính năm 2005
TT Cây trồng Diện tích canh tác (ha) Sản lượng (tấn)
Năng su
ất
(tạ/ha)

1

Lúa

1.206

2.152,1

17,8

2 Ngô 262 541,9 20,7
3 Khoai lang 32,5 133,9 41,5
4 Sắn 1.112 9.766 87,8
5 Vừng 19,5 4,5 2,3
6 Lạc 21 21 10
7 Rau các loại 140 796,7 56,9
8 ðậu các loại 119 90,6 7,6
Các vật nuôi chính năm 2005
V
ật nuôi

Trâu



L
ợn






V
ịt

Ngan, ng
ỗng

S
ố l
ư
ợng (con)

118

1.609

3.548

359

12.420

62.000

249.000

Nguồn sống của người dân Tây Trà cũng khó có thể trông cậy vào lâm nghiệp.
Do sự tàn phá nặng nề của chiến tranh cộng với sự khai thác thiếu kế hoạch của
con người, rừng ở ñây từ lâu ñã trở nên nghèo kiệt. Theo thống kê của huyện Tây

Trà, tổng diện tích rừng và ñất lâm nghiệp của toàn huyện là 30.478ha, trong ñó
diện tích ñất có rừng chỉ là 8.733ha (chiếm 9%), diện tích ñất trống có ñến
21.743ha (71%). ðiều này ñặt ra một vấn ñề rất lớn về việc trồng rừng, khoanh
nuôi, bảo vệ rừng. Do vậy, sản lượng khai thác lâm sản ngoài cây quế trồng như ñã
kể, chủ yếu vẫn là khai thác ñót (sản lượng khoảng 303 tấn năm 2005) và lồ ô
(khoảng 143 ngàn cây). Dân vùng Trà Niêu xưa kia còn trồng nhiều chè, cắt chè lá
cõng ñi bán sang chợ Di Lăng (huyện Sơn Hà), nay chè cũng không phát triển.
Người dân Tây Trà có nghề ñi lấy mật ong về bán. Ong hoa quế khá thơm ngon.
ðặc biệt, ở xã Trà Xinh có rừng nguyên sinh, thường có mật ong tốt. Rừng ñã
nghèo kiệt nên ñối với Tây Trà ngày nay, lâm nghiệp chủ yếu tập trung vào việc
trồng rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên. Nguồn sống từ vật nuôi cây
trồng khó khăn, người dân ở Tây Trà tiếp tục săn bắt, hái lượm ñể bù ñắp sự thiếu


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
126

hụt về lương thực, thực phẩm của mình, như bắt cá, săn thú rừng, hái rau, bắt ốc
quanh các suối, thác
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở ñịa hạt Tây Trà hầu như chưa có gì ñáng
kể, ngoài nghề ñan lát cổ truyền của các dân tộc nhằm tự cung, tự cấp các vật dụng
hằng ngày. Năm 2005, toàn huyện chỉ có 25 cơ sở công nghiệp cá thể với 40 lao
ñộng, giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn chỉ 882,9 triệu ñồng theo giá hiện
hành.
Về thương mại - dịch vụ, xưa kia, những thương nhân người Việt từng lặn lội
tận các làng trên cao ñể mua quế và bán các vật dụng thiết yếu cho ñồng bào Cor ở
ñây. Từ sau 1975, ngành thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán hình
thành và hoạt ñộng. Chuyển sang cơ chế thị trường, ở Tây Trà (mà chủ yếu là ở
Trà Phong trung tâm huyện) mới mọc lên một số tiệm buôn bán, dịch vụ. Năm

2005, chỉ mới có 163 hộ kinh doanh mua bán nhỏ với 326 lao ñộng. Tổng mức bán
lẻ hàng hóa và dịch vụ chỉ ñạt 727,7 triệu ñồng. Phương thức hàng ñổi hàng giữa
người dân với nhau còn phổ biến. ðể ñảm bảo nhu cầu của người dân còn ñang rất
khó khăn, nhà nước ñã tổ chức cấp không một số mặt hàng và bán trợ giá, trợ cước
một số mặt hàng thiết yếu cho dân. Hiện ñời sống kinh tế của nhân dân ở Tây Trà
vẫn hết sức khó khăn và không thể một sớm một chiều có thể khắc phục ñược.
Một cái nhìn tổng quát ñối với Tây Trà thì ñó là một huyện rất nghèo, thu nhập
bình quân ñầu người năm 2004 chỉ khoảng 130.000 ñồng/tháng. Tất cả các xã
trong huyện ñều là xã ñặc biệt khó khăn. Theo ñiều tra của huyện ở thời ñiểm
tháng 6.2004, số lượng hộ nghèo ở Tây Trà là 2.577 hộ, chiếm ñến 83,6% tổng số
hộ trong huyện theo chuẩn cũ; còn theo chuẩn mới diện ñói nghèo chiếm ñến 95%.
Tất cả các xã ñều có số hộ nghèo từ 83% trở lên, xã Trà Trung ở lưng chừng núi
Cà ðam có 100% số hộ nghèo. Nguyên nhân của tình trạng ñói nghèo ở Tây Trà
ngoài ñịa hình tự nhiên không thuận lợi, thiếu ñất sản xuất, cây trồng chủ lực là cây
quế truyền thống bị xuống giá nghiêm trọng, còn có nguyên nhân thiếu kinh
nghiệm làm ăn, thiếu vốn, thiếu lao ñộng và ñông người ăn theo
ðể thúc ñẩy, kích thích sự phát triển mọi mặt của ñời sống nhân dân, công tác
xây dựng cơ sở hạ tầng ñược nhà nước cấp trên tập trung ñầu tư, chú ý ñẩy mạnh.
Về ñiện, trước kia ở các xã thuộc huyện Tây Trà hầu như không có nguồn ñiện
nào, những năm từ ñầu thế kỷ XXI ñã kéo lưới ñiện quốc gia về trung tâm huyện
và dần dần ñến tất cả các xã trong huyện. Tuy nhiên, ñến năm 2004 chỉ mới có
10% số hộ dùng ñiện, do dân cư có thu nhập quá thấp và do tình trạng cư trú tản
mát, xa xôi.
Về giao thông, tổng chiều dài ñường giao thông toàn huyện là 145km, trong ñó
có nhiều ñường nhỏ khó ñi lại. Trục giao thông huyết mạch của huyện là tuyến
ñường từ huyện lỵ Trà Bồng (tỉnh lộ 622) ñi huyện lỵ Tây Trà (Trà Phong) dài gần
40km, trong ñó tuyến ñường nằm trên ñịa hạt Tây Trà dài 21km ñã hình thành từ rất
lâu ñời. Tuy vậy, ñây chỉ là nền ñường ñất, qua nhiều ñèo dốc cao, khe suối sâu, nên



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
127

ñến mùa mưa ñường sá thường bị tắc, chia cắt các xã trong vùng với bên ngoài, gây
trở ngại rất lớn cho sản xuất và ñời sống. Từ năm 2004, tuyến ñường này bắt ñầu
ñược xây dựng, nhựa hóa và cho ñến cuối năm 2005 ñã xong về cơ bản. Tuyến ñường
liên huyện thứ hai từ Di Lăng (huyện lỵ Sơn Hà) chạy theo hướng tây bắc qua xã Sơn
Bao, nối với Trà Thọ dẫn ñến huyện lỵ tại Trà Phong, dài 9km, ñường ñất, trong
tương lai sẽ không còn tồn tại vì ở ñây sẽ xây dựng hồ Nước Trong. ðường liên xã
có tổng chiều dài 70,7km, từ huyện lỵ ñi ñến các xã và giữa các xã trong huyện với
nhau. Riêng từ Trà Phong ñi Trà Thanh, xã cực bắc của huyện ñến năm 2004 vẫn
chưa có ñường ô tô. Các tuyến ñường liên xã, nội hạt xã vẫn ñang trong quá trình
xây dựng. Cũng cần biết thêm rằng, tỉnh lộ 622 từ Bình Sơn ñến huyện lỵ Trà Bồng
thì rẽ qua sông (phía tả ngạn sông Trà Bồng) qua các xã Trà Thủy, Trà Hiệp (huyện
Trà Bồng), ñã băng qua xã Trà Thanh nối liền với huyện Trà My (tỉnh Quảng
Nam). Như vậy, tuy chưa có ñường ôtô nối với huyện lỵ, nhưng xã Trà Thanh
thông với Trà Bồng và huyện Trà My, có khả năng phát triển tốt về dân sinh.
Nhiều công trình thuỷ lợi cỡ nhỏ ñã ñược xây dựng ñể phục vụ sản xuất. Tuy
nhiên, ở ñây cũng có hai khía cạnh khác nhau của một vấn ñề về phát triển thủy
lợi. Công trình thủy lợi phải gắn liền với ruộng lúa nước, và có công trình thủy lợi
mới có thể mở rộng diện tích cây lúa nước (nếu ñịa hình cho phép). Nhìn vào các
công trình thủy lợi ñã có của Tây Trà, người ta không khỏi băn khoăn: trong tổng
số 5 ñập nước ñáng chú ý nhất là ñập Nước Doanh (Trà Lãnh), ñập Trà Ong (Trà
Quân), ñập Nước So (Trà Phong), ñập Nước Tiên (Trà Quân), ñập Suối Lót (Trà
Xinh) xây dựng trong các năm từ 1985 ñến 2001, mà năng lực thiết kế chỉ tưới
ñược cho 42,5ha, nhưng năng lực tưới thực tế lại còn thấp hơn (23ha). Theo tính
toán của huyện Tây Trà, nếu một số ñập ñược tu sửa, nâng cấp, cũng chỉ tăng ñược
năng lực tưới lên 100 - 150ha. ðiều này ñặt ra vấn ñề có nên ñầu tư cho việc xây
dựng ñập hay không, hay nên ñầu tư vào chăn nuôi gia súc hoặc theo hướng khác.

Các trường học, trạm y tế ở Tây Trà cũng phần nào ñược xây dựng, kiên cố hóa.
Bưu ñiện Tây Trà ñã ñược thiết lập với tổng ñài dung lượng 250 số, ñã có 5 nhà
bưu ñiện văn hóa xã ñược xây dựng và ñưa vào hoạt ñộng. Số máy ñiện thoại trên
ñịa bàn năm 2004 là 160 máy, năm 2005 là 210 máy.
Trọng tâm trước mắt của Tây Trà trong công tác xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn là
xây dựng trung tâm huyện lỵ, với các trụ sở hành chính và các thiết chế văn hóa xã
hội ñều ñang phải bắt tay xây dựng mới, làm nền tảng kích thích sự phát triển của
cả huyện. Sự phát triển kinh tế - xã hội còn phải tính những bước ñường dài.
*
* *
Về văn hóa - xã hội, ñịa hạt Tây Trà có nhiều ñiểm ñáng lưu ý. Bốn dân tộc anh
em trong huyện có vốn văn hóa cổ truyền rất quý giá, cùng góp phần làm phong
phú cho di sản văn hóa của huyện và của tỉnh. Văn hóa Cor ở Tây Trà là văn hóa
Cor "ñường rừng", mang nét riêng của vùng cao nhất. Người Cor ở Tây Trà có


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
128

nhiều truyện cổ, dân ca, dân nhạc mang ñậm bản sắc dân tộc, có các lễ hội như lễ
ăn trâu, có các loại cột lễ trong ñó có loại nêu dù, "nêu ñu ñủ" rất ñộc ñáo. Người
Cor ở ñây cũng rất giỏi nghề ñan lát. Văn hóa ẩm thực thì có loại rượu ñoak lấy từ
cây ñoak. Về văn hóa vật thể, ñáng chú ý có di chỉ khảo cổ từ thời kỳ ñồ ñá ở Trà
Phong mới ñược khai quật, bao gồm các loại rìu ñá khá tinh xảo. Trên ñịa bàn
huyện cũng có nhiều thắng cảnh ñẹp, kỳ thú, mà hùng vĩ nhất là ngọn Cà ðam gắn
với các di tích lịch sử. Núi Cà ðam ñang ñược thăm dò ñể lập dự án xây dựng
thành khu du lịch sinh thái tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
Xưa kia, các làng người Cor sống theo lối chung cư trong một ngôi nhà dài và
rộng. Sau 1975, với sự phát triển xã hội, ñịnh canh, ñịnh cư, ngôi nhà chung như

vậy tỏ ra không còn thích hợp. Bà con người Cor hầu hết ñã làm nhà trệt theo kiểu
người Việt ở miền xuôi, và các nóc nhà của một làng vẫn còn châu tuần san sát
nhau, thể hiện truyền thống cố kết cộng ñồng rất cao. Những thuần phong mỹ tục
như tinh thần tương trợ, giúp nhau trong công ăn việc làm, lòng hiếu khách ñược
bảo tồn và phát huy. Một số tập tục lạc hậu dần dần ñược xoá bỏ. Phong trào toàn
dân ñoàn kết xây dựng ñời sống văn hóa có sự phát triển. Trong sinh hoạt tinh
thần, văn hóa văn nghệ, các tinh hoa văn hóa dân tộc như trang phục, dân ca, dân
nhạc, ñặc biệt là cồng chiêng, hát xà ru, a giới ñược chú ý phát huy. Phong trào
văn nghệ, thể thao quần chúng ñều có sự tiến bộ.
Tây Trà là huyện mới tách lập, do ñịa hình thung lũng núi, thông tin có nhiều
khó khăn. Thuở trước ñất này là một vùng hẻo lánh, biệt lập, sống cách biệt với
thông tin từ bên ngoài. Cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 mở ra khả năng hòa nhập
văn hóa của cộng ñồng Cor nơi ñây với toàn dân tộc. Văn hóa mới, văn hóa cách
mạng bắt ñầu hình thành và thâm nhập trong ñời sống nhân dân trong hai cuộc
kháng chiến. Từ năm 1975 về sau, thay ñổi lớn nhất của người dân trên ñịa hạt Tây
Trà là sự chuyển dịch vùng cư trú, từ cheo leo trên các sườn núi cao, xuống ñịnh
cư dưới các trảng bằng trong các thung lũng. Nhiều hình thức thông tin mới ñã xác
lập. Truyền thanh, thu thanh dần phát triển. Ở Trà Phong có chảo parabol xem
truyền hình từ những năm chín mươi của thế kỷ XX. Ngày nay, ñài truyền thanh và
phát lại truyền hình của huyện ñang ñược xây dựng, kiện toàn. ðội chiếu bóng có
từ trước vẫn ñược duy trì, hằng năm ñi lưu ñộng ñể phục vụ ñồng bào ở các thôn
làng xa xôi. Một phần truyện cổ Cor, các lễ hội ñã ñược sưu tầm, nghiên cứu.
Về giáo dục, Tây Trà là huyện miền núi xa xôi nên là nơi giáo dục phát triển
muộn nhất trong tỉnh Quảng Ngãi. Thời ñiểm năm học 2004 - 2005, ở Tây Trà cả 9
xã ñều có trường Mẫu giáo, Tiểu học, Trung học cơ sở (riêng xã Trà Phong có 2
trường), huyện có 1 trường Trung học phổ thông. Tổng số có 4.218 học sinh phổ
thông, trong ñó có 2.771 học sinh Tiểu học, 1.238 học sinh Trung học cơ sở, 209
học sinh Trung học phổ thông. Tổng số giáo viên là 283 người, trong ñó có 161
giáo viên Tiểu học, 76 giáo viên Trung học cơ sở, 11 giáo viên Trung học phổ
thông. Tổng số lớp học phổ thông là 177 lớp, trong ñó có 128 lớp Tiểu học, 44 lớp

Trung học cơ sở, 5 lớp Trung học phổ thông. Hệ Mẫu giáo có 30 lớp với 711 học


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
129

sinh. Số lượng học sinh bỏ học còn nhiều (8%) và trường ốc vẫn còn tạm bợ, cần
phải tiếp tục xây dựng.
Về y tế, Tây Trà có trung tâm y tế huyện và các trạm y tế xã thực hiện khám
chữa bệnh cho dân, có ñội vệ sinh phòng dịch của Trung tâm y tế huyện. Tình
trạng cầu cúng lúc ốm ñau ñã ñược hạn chế. Tuy ñã có vận ñộng kế hoạch hóa gia
ñình, việc tăng dân số trong huyện vẫn còn khá cao (1,68%). Trung tâm y tế Tây
Trà ñóng ở trụ sở xưa kia chỉ là phòng khám khu vực của huyện Trà Bồng (cũ), cơ
sở chật hẹp, xuống cấp, nhưng chưa ñược xây dựng lại. Toàn huyện chỉ có 50
giường bệnh tập trung ở Trung tâm y tế huyện, có 8 trạm y tế xã trong huyện (trừ
xã Trà Trung vẫn chưa có trạm y tế), toàn huyện chỉ có 4 bác sĩ (trạm y tế các xã
ñều không có bác sĩ). Hoạt ñộng y tế vì vậy còn phải tiếp tục tăng cường.
Về xã hội, vấn ñề cấp bách và cơ bản nhất ở Tây Trà là vấn ñề mức sống của
nhân dân còn quá thấp, tỉ lệ ñói nghèo còn quá cao với hầu hết dân cư trong huyện;
buộc các cấp chính quyền và tự thân nhân dân phải nỗ lực cao trong việc tìm
phương hướng, biện pháp giải quyết. ðiều này thể hiện rõ trong ñề án xóa ñói
giảm nghèo ở Tây Trà giai ñoạn 2005 - 2010 và báo cáo chính trị của ðại hội ðảng
bộ huyện lần thứ I (2005).

(1) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.
(2) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tây Trà.
(3) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tây Trà.




Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
130

HUYỆN SƠ
N HÀ

S
ƠN HÀ là huyện miền núi ở phía tây tỉnh Quảng Ngãi. Phía ñông giáp các
huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Minh Long; phía tây giáp huyện Sơn Tây; phía nam
giáp huyện Ba Tơ và tỉnh Kon Tum; phía bắc giáp các huyện Trà Bồng và Tây Trà.
Diện tích 750,31km
2
. Dân số 65.937 người (năm 2005). Mật ñộ dân số khoảng 88
người/km
2(1)
. ðơn vị hành chính trực thuộc gồm 13 xã, ñều lấy chữ Sơn làm ñầu
(Sơn Trung, Sơn Thượng, Sơn Bao, Sơn Thành, Sơn Hạ, Sơn Nham, Sơn Giang,
Sơn Linh, Sơn Cao, Sơn Hải, Sơn Thuỷ, Sơn Kỳ, Sơn Ba), 1 thị trấn (Di Lăng
huyện lỵ, nguyên là xã Sơn Lăng), với 77 thôn và tổ dân phố; trong ñó:
Xã Sơn Trung có 6 thôn: Tà Màu, Gò Rộc, Làng Nà, Làng Rin, Làng ðèo, Gia
Ri;
Xã Sơn Thượng có 5 thôn: Nước Năm, Gò Ren, Tà Ba, Làng Vố, Làng Nưa;
Xã Sơn Bao có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 6: thôn 1 (Nước
Bao), thôn 2 (Mò O), thôn 3 (Mang Kmuồng), thôn 4 (Tà Lương), thôn 5 (Pó
Rang), thôn 6 (Làng Mùng);
Xã Sơn Thành có 5 thôn: Gò Ra, Nước Chu, Hà Thành, Gò Rin, Gò Gạo;
Xã Sơn Hạ có 5 thôn: Cà Tu, ðèo Gió, Trường Khay, Hà Bắc, ðèo Rơn;
Xã Sơn Nham có 5 thôn: Bàu Sơn, Cận Sơn, Xà Riêng, Xà Nay, Chàm Rao;

Xã Sơn Giang có 6 thôn: ðèo ðinh, Làng Rê, Gò Ngoài, ðồng Giang, Làng
Lùng, Làng Rí;
Xã Sơn Linh có 5 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 5: thôn 1 (Gò Da),
thôn 2 (Làng Ghè), thôn 3 (Bồ Nung), thôn 4 (Ca La), thôn 5 (Làng Xinh);
Xã Sơn Cao có 5 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 5: thôn 1 (Xà Ây),
thôn 2 (Làng Gung), thôn 3 (Làng Mon), thôn 4 (Làng Trăng), thôn 5 (Làng Trá);
Xã Sơn Hải có 4 thôn: Tà Bía, Tà Mát, Gò Sim, Làng Lành;
Xã Sơn Thuỷ có 4 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 4: thôn 1 (Tà Bi),
thôn 2 (Tà Bần), thôn 3 (Tà Cơm), thôn 4 (Làng Rào);
Xã Sơn Kỳ có 7 thôn: Làng Riềng, Làng Rút, Làng Rê, Tà Gâm, Làng Trăng,
Bồ Nung, Nước Lát;
Xã Sơn Ba có 5 thôn: Tà Gâm, Di Ôi, Làng Già, Mò O, Làng Bưng, Di Hoăn;


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
131

Thị trấn Di Lăng có 8 tổ dân số (tương ñương thôn): Cà ðáo, Nước Nia, Làng
Bồ, Gò Dép, Di Lăng, Hàng Gòn, nước Bung, Làng Dầu.
Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi ñến thị trấn Di Lăng 55km. Từ thị trấn Di Lăng ñi huyện
lỵ Sơn Tây 30km, Ba Tiêu - Ba Tơ 42km, Trà Phong (huyện lỵ Tây Trà) 35km,
Trà Xuân (huyện lỵ Trà Bồng) 40km.
Sơn Hà là huyện có tiềm năng kinh tế nông, lâm nghiệp khá phong phú, ñã và
ñang ñược khai thác ñể phát triển. Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế của huyện còn nhiều
hạn chế, ñời sống của nhân dân còn thấp.
*
* *
Về hành chính, huyện Sơn Hà nguyên xưa kia là nguồn Cù Bà, một trong bốn
nguồn của tỉnh Quảng Ngãi. ðời Minh Mạng, nguồn Cù Bà ñổi là nguồn Thanh

Cù. Năm 1915, nguồn Thanh Cù ñổi thành ñồn Sơn Hà. ðồn Sơn Hà ñược chia
thành 5 tổng: Sơn Hạ, Sơn Trung, Sơn Thượng, Sơn Nham, Sơn Thạch, với 47
sách (làng). Lỵ sở của Sơn Hà lúc này ñóng ở Hà Thành (nay thuộc xã Sơn
Thành). Còn Di Lăng (sau này là huyện lỵ) chỉ là căng an trí, nơi lưu ñày phạm
nhân.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền cách mạng ñổi là huyện Sơn Hà,
cấp tổng ñược bãi bỏ, các xã mới ñược hình thành với 15 xã, ñều lấy chữ Sơn làm
ñầu: Sơn Tinh, Sơn Liên, Sơn Hiệp, Sơn Thượng, Sơn Thọ, Sơn Tân, Sơn Trung,
Sơn Kỳ, Sơn Thuỷ, Sơn Thành, Sơn Hạ, Sơn Nham, Sơn Linh, Sơn Giang, Sơn
Cao. Từ năm 1952, 15 xã lại chia thành 28 xã: Sơn Hạ, Sơn Nam, Sơn Tong (thuộc
Sơn Hạ cũ), Sơn Thành, Sơn Kim (Sơn Thành cũ), Sơn Trung, Sơn Lăng (Sơn
Trung cũ), Sơn Thượng, Sơn Mùng (Sơn Thượng cũ), Sơn Linh, Sơn ðông (Sơn
Linh cũ), Sơn Thuỷ, Sơn Hải (Sơn Thuỷ cũ), Sơn Kỳ, Sơn Ba (Sơn Kỳ cũ), Sơn
Tinh, Sơn Dung, Sơn Màu, Sơn Long (Sơn Tinh cũ), Sơn Liên, Sơn Mùa, Sơn Bao
(Sơn Liên cũ), Sơn Hiệp, Sơn Thọ, Sơn Tân, Sơn Cao, Sơn Giang, Sơn Nham (giữ
nguyên). Huyện lúc này bao gồm cả huyện Sơn Tây và một phần các huyện Tây
Trà, Trà Bồng ngày nay. ðầu năm 1954, tỉnh Kon Tum giao thêm xã Sơn Bua;
giữa năm 1954 thành lập thêm xã Sơn Lập, Sơn Bùi. Huyện Sơn Hà lúc này có ñến
31 xã.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hành chính huyện Sơn Hà có sự thay
ñổi. Sau khi tiếp quản một thời gian, từ giữa năm 1958, chính quyền Sài Gòn ñồng
loạt ñổi huyện thành quận. Quận Sơn Hà ñược thành lập và ñổi tên các xã, lấy chữ
Hà làm ñầu: Hà Trung, Hà Lâm, Hà Bắc, Hà Thành, Hà Thạch, Hà Long, Hà Tây,
Hà ðông, Hà Châu, Hà Nam, Hà Thượng, Hà Khê. Quận lỵ ñóng ở Hà Trung (nay
là xã Sơn Giang). Nhưng chính quyền Sài Gòn quản lý chưa lâu thì phong trào
cách mạng ở Sơn Hà ñã phát triển. Một phần huyện Sơn Hà trở thành vùng căn cứ
ñịa của cách mạng. Việc hoạch ñịnh lại các ñơn vị hành chính là một yêu cầu cấp
bách trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
132

Năm 1955, các xã Sơn Hiệp, Sơn Thọ, Sơn Bùi nhập về huyện Trà Bồng. Tháng
7.1957, các xã Sơn Kỳ, Sơn Ba nhập với 9 xã của huyện Ba Tơ thành khu VI (sau
ñổi là huyện Sông Rhe). 9 xã khu tây là Sơn Tinh, Sơn Màu, Sơn Dung, Sơn Long,
Sơn Liên, Sơn Bua, Sơn Mùa, Sơn Bao, Sơn Lập thành lập khu VII (sau gọi là
huyện Sơn Tây); các xã còn lại của huyện hợp thành khu III (sau gọi là huyện Sơn
Hà).
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, năm 1976 huyện Sơn Tây và hai xã
Sơn Kỳ, Sơn Ba nhập lại về Sơn Hà; và sau khi tách nhập một số xã, huyện Sơn
Hà có 16 xã: Sơn Mùa, Sơn Tân, Sơn Bao, Sơn Dung, Sơn Tinh, Sơn Lăng, Sơn
Thượng, Sơn Thuỷ, Sơn Kỳ, Sơn Ba, Sơn Thành, Sơn Giang, Sơn Linh, Sơn Cao,
Sơn Hạ, Sơn Nham.
Năm 1994, bốn xã phía tây huyện là Sơn Mùa, Sơn Tinh, Sơn Tân, Sơn Dung
ñược tách ra hình thành huyện Sơn Tây. Huyện Sơn Hà còn 12 xã. Năm 1998, xã
Sơn Lăng tách lập thành thị trấn Di Lăng và xã Sơn Trung; xã Sơn Thuỷ tách lập
thành 2 xã Sơn Thuỷ, Sơn Hải. Huyện Sơn Hà có 14 xã, thị trấn (như ñã kể ở phần
ñầu).
Về tự nhiên, Sơn Hà là huyện có diện tích tự nhiên rộng thứ hai trong tỉnh
Quảng Ngãi (chỉ sau huyện Ba Tơ). ðịa bàn Sơn Hà trải rộng, ñồi núi, sông suối
chằng chịt, chia cắt bạo biệt; ñộ cao trung bình 500 - 1000m so với mặt nước biển.
Núi rừng: Chiếm hầu hết diện tích tự nhiên của toàn huyện. Phía ñông có ngọn
Thạch Bích (ðá Vách) giáp giới với huyện Tư Nghĩa, phía nam tiếp liền với dãy
Cao Muôn (Ba Tơ), núi Mum (Minh Long), phía bắc tiếp liền với các núi cao ở các
huyện Trà Bồng và Tây Trà, phía tây là các khối núi cao giáp với huyện Sơn Tây.
Rừng núi Sơn Hà có các loại gỗ quý như lim, sơn, chò, nhiều loại thú như hổ, nai,
trăn, nhiều mật ong, song mây.
Sông suối: Sơn Hà có mạng lưới sông suối chằng chịt, lớn nhất là các sông:

sông Rhe, sông Rinh, sông Xà Lò, sông Tang. Sông Rhe từ phía Nam (Ba Tơ) chảy
ra, hợp với sông Rinh, sông Xà Lò ở khu vực Hải Giá, chảy về phía ñông, là ñầu
nguồn của sông Trà Khúc lớn nhất trong tỉnh Quảng Ngãi. Sông suối ở Sơn Hà có
nhiều loại cá, ốc, ñặc biệt có ñặc sản cá niêng nổi tiếng. Các sông suối là nguồn
nước quan trọng và còn chứa tiềm năng về thuỷ lợi, thuỷ ñiện nhằm phục vụ sản
xuất và sinh hoạt. Các sông ở ñây ñều có lòng sông ñào sâu, khuất khúc, lòng sông
dốc, nước chảy xiết, nên thường gây lũ lớn về mùa mưa và dễ khô kiệt về mùa
nắng.
ðồng bằng: Nằm dọc theo thung lũng các sông, ñất ñai khá màu mỡ, như ñồng
bằng dọc sông Rhe chảy qua các xã Sơn Ba, Sơn Kỳ, Sơn Thuỷ, Sơn Hải, Sơn
Cao, Sơn Linh, Sơn Nham, Sơn Hạ. ðồng bằng thường có các cánh ñồng lúa, hoặc
trồng các loại hoa màu.

×