Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Những nguyên tắc trong phân loại thực vật có hoa pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.61 KB, 18 trang )





Thực vật có hoa
NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2006.
Tr 55 – 67.


Từ khoá: Ngành, lớp, bộ, họ, chi, loài.

Tài liệu trong Thư viện điện tử ĐH Khoa học Tự nhiên có thể được sử dụng
cho mục đích học tập và nghiên cứu cá nhân. Nghiêm cấm mọi hình thức
sao chép, in ấn phục vụ các mục đích khác nếu không được sự chấp thuận
của nhà xuất bản và tác giả.


Mục lục
Chương 5 NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG PHÂN LOẠI 3
5.1 CÁC BẬC PHÂN LOẠI VÀ TÔN TI TRẬT TỰ CỦA CHÚNG 3
5.2 CÁCH GỌI TÊN 4
5.2.1 Các nguyên tắc chung 5
5.2.2 Nguyên tắc công bố tên gọi 5
5.3 CÁC LOẠI MẪU CHUẨN (TYPUS) TÊN GỌI 6
5.3.1 Mẫu chuẩn tên gọi (typus) 6
5.3.2 Mẫu chuẩn tên gọi của loài và các taxôn trong loài 7
5.3.3 Các loại mẫu chuẩn 7
5.4 NGUYÊN TẮC ƯU TIÊN 8
Chương 5. Những nguyên tắc trong phân
loại


Nguyễn Nghĩa Thìn



5.4.1 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn bị chia nhỏ 9
5.4.2 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn chuyển vị trí 9
5.4.3 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi liên kết các taxôn 10
5.4.4 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi thay đổi bậc taxôn 10
5.5 BÃI BỎ TÊN GỌI 11
5.6 TÊN GỌI CỦA CÁC TAXÔN 12
5.6.1 Tên gọi các taxôn trên bậc chi 12
5.6.2 Tên chi và các phân hạng của nó 12
5.6.3 Tên loài 13
5.6.4 Tên gọi của taxôn dưới bậc loài 14
5.7 TRÍCH DẪN TÊN TÁC GIẢ VÀ CÁC TÀI LIỆU KÈM THEO TÊN
GỌI 14
5.7.1 Trích dẫn tên tác giả 14
5.7.2 Một số chỉ dẫn cần thiết cho việ
c trích dẫn tên tác giả 14
5.8 LUẬT CHÍNH TẢ VỀ TÊN GỌI VÀ DẤU VĂN PHẠM VỀ TÊN CHI
15
5.8.1 Luật chính tả về tên gọi và các tính ngữ 15
5.8.2 Giống văn phạm của tên chi cần xác định bằng cách 16
5.8.3 Cách viết tên tác giả 16
5.8.4 Cách ghi tài liệu tham khảo kèm theo tên gọi 17


3
Chương 5
NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG PHÂN

LOẠI
5.1 CÁC BẬC PHÂN LOẠI VÀ TÔN TI TRẬT TỰ CỦA
CHÚNG
Giới thực vật - Regnum: Vegatabile trong giới chia ra các đơn vị
− Ngành - Divisio (Phylum)
− Lớp - Classis
− Bộ - Ordo
− Họ - Familia
− Chi - Genus
− Loài - Species
Trong hệ thống học còn dùng các bậc trung gian. Ví dụ tông (Tribus) là bậc
giữa họ và chi. Nhánh (Sectio) và loạt (Serio) trung gian giữa chi và loài. Thứ
(Varietas) và dạng (Forma) là dưới loài.
Trong phân loại thực vật hay dùng đối với bậc phụ khác, thường thêm bằng
tiếp đầu ngữ super là liên và sub là phân.
Ví dụ phân lớp M
ộc lan: Subclassis Magnoliideae, liên bộ Bông: Superordo
Malvanae.
Bảng 5.1.
Các bậc theo luật quốc tế về tên gọi
Bậc của Taxôn (tiếng La Tinh) Ví dụ
Đuôi của các bậc trên
chi
Divisio (Phylum) Ngành Magnoliophyta -phyta
Classis Lớp Magnoliopsida -opsida
Subclasis Phân lớp Magnolidae -idae
Ordo Bộ Magnoliales -ales
Subordo Phân bộ Magnolinae -inae
Familia Họ Magnoliaceae -aceae
Subfamilia Phân họ Magnolioideae -oideae

Tribus Tông Magnolieae -eae
Subtribus Phân tông Magnoliineae -ineae
Genus Chi Magnolia -us, -a, um (on)


4
5.2 CÁCH GỌI TÊN
Để có sự thống nhất trong phân loại và để trao đổi thông tin giữa các nhà
khoa học luật tên gọi thực vật được hình thành. Cùng với sự gọi tên còn có sự
thống nhất các thuật ngữ của các taxôn.
Việc đặt tên cho thực vật trước đây rất tuỳ tiện vì vậy cần có sự thống nhất.
Luật được đặt ra với mục đích là để thống nhất cách gọi tên, tránh nhầm lẫ
n và để
bãi bỏ các tên gọi cũ chưa đúng, tránh cho tác giả đặt tên thừa, không cần thiết.
Luật gọi tên được bắt đầu năm 1753 do Linnê xây dựng. Từ nửa sau kỷ 18 đã chỉ
rõ nhiều nghiên cứu phát hiện rất nhiều loài mới nhưng ở mỗi nước có một cách
đặt tên gọi khác nhau, trong lúc cách đặt tên của Linnê chưa phổ biến. Do đó gặp
rất nhiều khó khăn.
Năm 1867 De Candolle đề
xướng nguyên tắc đặt tên cây trên cơ sở cách đặt
tên của Linnê. Đến nay đã hơn 16 đại hội về thực vật, để sửa đổi, bổ sung, hoàn
chỉnh luật đó cho nên nội dung cơ bản của bộ luật được coi là hoàn thiện.
− Đại hội lần 1 năm 1867 ở Paris (Pháp)
− Đại hội lần 2 năm 1906 ở Viên (Áo)
− Đại hội lần 3 năm 1910 ở Brucxen (Bỉ)
− Đại hội lần 4 năm 1930 ở Kembrit (Mỹ)
− Đại hội lần 5 năm 1935 ở Amxtecđam (Hà Lan)
− Đại hội lần 6 năm 1950 do Spargue sửa chữa luật Amxtecdam
− Đại hội lần 7 năm 1950 ở Stôckhôm (Thụy Điển)
− Đại hội lần 8 năm 1954 ở Paris (Pháp)

− Đại hội lần 9 năm 1959 ở Môngtrêan (Canađa)
− Đại hội lần 10 năm 1964 ở Êdinbua (Anh)

Đại hội lần 11 năm 1969 ở Sietưn
− Đại hội lần 12 năm 1975 ở Lêningrát (Nga)
− Đại hội lần 13 năm 1981 ở Sitni (Úc)
− Đại hội lần 14 năm 1986 ở Beclin (Đức)
− Đại hội lần 15 năm 1993 ở Tokyo (Nhật Bản)
− Đại hội lần 16 năm 1999 ở Xanh Louit (Mỹ)


5
5.2.1 Các nguyên tắc chung
1. Tên gọi thực vật không phụ thuộc vào tên gọi động vậtBộ luật áp dụng
cho tất cả thực vật, không liên quan việc lúc đầu nhóm đó có thuộc
thực vật hay không.
2. Việc sử dụng tên gọi của các nhóm phân loại được xác định nhờ mẫu chuẩn
danh pháp.
3. Tên gọi các nhóm phân loại dựa theo nguyên tắc ưu tiên trong khi
công bố.
4. Mỗi nhóm phân loại có giới hạn, vị
trí và bậc nhất định, không kể các
ngoại lệ quy định cụ thể, chỉ có thể có 1 tên đúng đắn duy nhất, đó là
tên có sớm nhất và hợp với quy tắc.
5. Tên khoa học của các nhóm phân loại đều được coi là tên La tinh
không phụ thuộc vào xuất xứ của nó.
6. Quy tắc của tên gọi có tác dụng nghịch đảo nếu như chúng không
được quy định giới hạn riêng (Những tên hợp pháp, hợp vớ
i luật thì
được dùng và ngược lại).

5.2.2 Nguyên tắc công bố tên gọi
5.2.2.1 Điều kiện và niên hiệu công bố thực tế
Sự công bố thành thực tế chỉ khi nào phát hành bản in: bán, trao đổi cho đại
chúng, hoặc ít nhất cùng cho cơ quan thực vật có thư viện lớn để cho các nhà thực
vật đọc được. Sự công bố không thể tiến hành bằng cách thông báo tên mới trong
hội nghị, niêm yết các tên đó trong tập mẫu vật, hay trong vườn bách thảo cho
quần chúng xem, cũng không thể phát hành bằng các
ảnh chụp, bản viết tay, đánh
máy hoặc các tài liệu chưa in khác không phải là sự công bố thực tế. Tài liệu phải
in tipo.
Các quy định ngoại lệ :
− Nếu trước 1 - 1 - 1953 thì sự công bố các bản thảo của các công
trình chuyên khảo được coi là công bố thực tế.
− Kể từ 1 - 1 - 1953 thì sự công bố các tên mới trong danh phiếu
thương mại, báo chí thông báo định kỳ không phải báo khoa học
hoặc danh mục, không phả
i là công bố thực tế.
− Niên hiệu của sự công bố thực tế là niên hiệu của bản in được
phát hành, khi thiếu các dẫn chứng của các niên hiệu khác thì
niên hiệu chính là niên hiệu ghi ở tờ bìa (đầu).


6
5.2.2.2 Điều kiện và năm công bố hữu hiệu
Tên taxôn muốn được công nhận là công bố hữu hiệu cần được công bố thực
tế và có dạng phù hợp với quy chế (tên loài 2 từ ) có kèm theo bản mô tả taxôn
bằng tiếng La tinh hoặc là dựa vào 1 bản công bố cũ được coi là bản công bố thực
tế.
Kể từ 1 - 1 - 1953 thì tập hợp tên mới hoặc tên gọi mới của taxôn nào đấy
được coi là công bố hữu hiệu chỉ khi nào được chỉ rõ tên gốc (basionym) hoặc tên

đồng loại thay thế và có nêu đầy đủ trích dẫn về sự công bố đầu tiên với sự chỉ rõ
số trang hay bản vẽ và niên hiệu công bố.
Kể từ 1 - 1 - 1953 khi công bố tên gọi mới mà không chỉ rõ bậc taxôn chứa taxôn
đó không phải là tên được công bố hữu hiệu.
Kể từ 1 - 1 - 1935 thì sự công bố tên của các taxôn thực vật được coi là h
ữu
hiệu nếu có bản mô tả La tinh kèm theo hoặc dựa vào bản mô tả cũ.
Kể từ 1 - 1 - 1958 sự công bố tên gọi các taxôn mới từ họ trở xuống được coi
hữu hiệu chỉ khi nó chỉ rõ typ tên gọi taxôn. Typ tên gọi ghi ở mỗi bản mô tả La
tinh, kèm theo mẫu chuẩn (holotypus) và địa điểm lưu trữ nó. Ví dụ: HNU chẳng
hạn (Phòng mẫu cây khô Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà N
ội).
Hiện nay có xu hướng mở rộng điều này cho tới các taxôn lớn hơn họ.
5.2.2.3 Tên gọi hợp pháp, không hợp pháp và tên gọi đúng đắn

Tên gọi hợp pháp là tên phù hợp với quy tắc, ngược lại là tên gọi không
hợp pháp.

Tên gọi đúng đắn của taxôn khi nó có giới hạn vị trí bậc xác định là tên gọi
hợp pháp theo quy tắc (tức là những tên gọi hợp pháp sớm nhất được dùng
làm tên chính thức). Nó là tên chính thức cho taxôn đó.
5.3 CÁC LOẠI MẪU CHUẨN (TYPUS) TÊN GỌI
5.3.1 Mẫu chuẩn tên gọi (typus)
Mẫu chuẩn của tên gọi là một thành viên của taxôn. Tên của một taxôn luôn
luôn liên quan tới thành viên đó, bất luận tên gọi ấy là chính thức hay đồng loại.
Mẫu chuẩn của tên gọi không nhất thiết phải là phần đặc sắc nhất hay điển hình
nhất của taxôn, nó chỉ là thành viên luôn liên quan tới tên gọi.
Mẫu chuẩn tên gọi của chi và các bậc giữa chi và loài là 1 loài.



7
Mẫu chuẩn tên gọi của họ và các taxôn giữa họ chi là 1 chi. Nếu tên chi cũ
của nó đã thay đổi thì tên hiện dùng thay thế tên cũ trước đây và tên chi đó vẫn
được coi là tên chuẩn của taxôn đó.
Ví dụ: Mẫu chuẩn họ Rosaceae là chi Rosa
Mẫu chuẩn phân họ Rosoideae là chi Rosa
Mẫu chuẩn họ Winteraceae là chi Drymis vì chi này trước đây mang tên là
Wintera.
Mẫu chuẩn chi Hydrangea là loài Hydrangea arborescens. Tất cả các mẫu
chuẩn taxôn trên h
ọ đều là chi.
5.3.2 Mẫu chuẩn tên gọi của loài và các taxôn trong loài
Đó là một vật mẫu = tiêu bản mà trên cơ sở vật mẫu đó để mô tả và công bố
tên loài hay các taxôn trong loài như là một tên mới cho khoa học. Vật làm mẫu
chuẩn của một taxôn hiện đại trừ Vi khuẩn và Nấm cần được bảo quản ở trạng
thái cố định, vật mẫu đó không phải là cây sống hay đem trồng. Đối với loài hay
taxôn trong loài mà vật mẫu chuẩn không thể bả
o quản thì mẫu chuẩn của nó có
thể là bản mô tả hoặc hình vẽ.
5.3.3 Các loại mẫu chuẩn
Các loại mẫu chuẩn tên gọi của loài và các taxôn trong loài được chia ra.

Mẫu chuẩn chính thức (Typus = Holotypus):
Mẫu chuẩn chính thức còn gọi là Mẫu chuẩn đầy đủ (holotypus) là mẫu quý
nhất đối với tên gọi taxôn. Nó luôn luôn là một bản vật mẫu hay các phần của mẫu
được tác giả của taxôn coi là mẫu chuẩn tên gọi. Nó là mẫu chuẩn tên gọi thực tế,
luôn luôn liên quan tới tên gọi taxôn. Chừng nào nó còn được bảo quản thì tên gọi
taxôn đó còn được dùng.
Ví dụ: Loài B. baviensis Fin. et Gagnep. được viết là:
Typus: Tonkin, Sơn Tây, Ba Vì; Balansa 1021 (P), có nghĩa là: mẫu chuẩn là

vật mẫu thu ở Tonkin (Bắc Bộ), Sơn Tây, Ba Vì; (người thu) Balansa (số hiệu)
1021 (bảo quản) ở Pari (P).

Đồng mẫu chuẩn (Isotypus hay Isoholotypus) (bản sao)
Đó là các mẫu hoàn toàn giống như mẫu chuẩn chính thức: lấy cùng cây,
cùng số hiệu, cùng ngày, do cùng người lấy nhưng không phải là mẫu chuẩn chính
thức.

Mẫu chuẩn kèm (Paratypus)


8
Là các vật mẫu không cùng số hiệu với mẫu chuẩn nhưng được nhắc đến
trong bản mô tả đầu tiên, tức là những mẫu đó cũng được tác giả xem xét khi mô
tả taxôn mới đó.

Liên mẫu chuẩn hay mẫu chuẩn tập hợp (syntypus)
Là một trong hai hoặc nhiều vật mẫu dùng làm cơ sở cho bản mô tả đầu tiên
nếu tác giả taxôn không chỉ rõ vật mẫu nào là mẫu chuẩn chính thức (holotypus).
Hay nói cách khác liên mẫu chuẩn là một trong hai hay nhiều vật mẫu nguyên bản
mà tất cả các vật mẫu đó đều được coi là mẫu chuẩn. Khi đó sau bản mô tả không
ghi mẫu chuẩn. Ví dụ: sau khi mô tả loài mớ
i tác giả mô tả chỉ ghi: Tonkin, Sơn
Tây, Ba Vì, Balansa, 1021 (P), Petelot 5603 (HNU), Bon 12 (HM) có nghĩa là loài
mới đó lấy ở Bắc Bộ, núi Ba Vì do Balansa lấy với số hiệu 5603, lưu giữ ở Bảo
tàng Pari, do Pêtêlô lấy với số hiệu 5603, lưu giữ tại Phòng mẫu cây khô Đại học
Quốc gia Hà Nội và do Bon lấy với số hiệu 12, lưu giữ tại Bảo tàng thực vật thành
phố Hồ Chí Minh.

Mẫu chuẩn chọn lọc (Lectotypus)

Là vật mẫu được chọn làm mẫu chuẩn tên gọi trong số những vật liệu nguyên
bản nhưng không phải do tác giả taxôn lựa chọn mà do người nghiên cứu sau đó
lựa chọn. Nó chỉ được lựa chọn khi tác giả bản mô tả đầu tiên không chỉ rõ mẫu
chuẩn hoặc khi mẫu chuẩn của taxôn bị mất hoặc bị phá hủy. Nên chọn mẫu
chuẩn chọn lọc chỉ khi hiểu kỹ về loài đó và khi đã có đầy đủ những tư liệu
nguyên bản.

Mẫu chuẩn thay thế (Neotypus)
Là vật mẫu được chọn làm mẫu chuẩn tên gọi để bảo tồn tên gọi taxôn vì đã
mất toàn bộ vật mẫu nguyên bản. Thông thường vật mẫu được chọn phải lấy tại
những địa điểm của các vật mẫu nguyên bản và do đặc điểm giống với bản mô tả
gốc. Nếu sau khi công bố Neotypus mới phát hiện v
ẫn còn tư liệu nguyên bản thì có
thể bãi bỏ Neotypus để chọn một trong số các vật mẫu nguyên bản đó làm mẫu
chuẩn chọn lọc vì mẫu chuẩn chọn lọc bao giờ cũng có giá trị hơn mẫu chuẩn thay
thế.
5.4 NGUYÊN TẮC ƯU TIÊN
Đối với các taxôn từ họ đến chi thì tên gọi đúng đắn nhất là tên hợp pháp đầu
tiên đã công bố hữu hiệu chính cho bậc đó.
Tên gọi đúng đắn nhất các taxôn dưới chi là tập hợp tên hợp pháp đầu tiên đã
công bố hữu hiệu cho bậc đó cùng với tên chi đúng đắn cho chi đó hoặc loài đó
hay taxôn thấp hơn có chứa taxôn đang xét.


9
5.4.1 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn bị chia nhỏ
a) Đối với chi:
Nếu một chi bị chia thành hai hay nhiều chi thì tên gọi ban đầu của nó cần
được giữ lại cho một trong các chi mới hoặc trong trường hợp nếu nó không được
giữ lại thì các tác giả nghiên cứu về sau phải khôi phục lại. Vì vậy các loài vừa

được tách ra của chi cũ nào đó thì nay chi nào mang tên cũ phải chứa mẫu chuẩn
đó. Nếu trước đây chưa quy định mẫu chuẩn thì nay cần phải ch
ọn.
Ví dụ : Chi Dicera Forster & Forster f. (1776) đến 1918 thì Rafinesque chia
ra thành hai chi là Misipus và Skidanthera việc này không đúng với luật vì tên
Dicera của Forster & Forster f. đã bị bác bỏ mà theo luật nó cần được giữ lại cho
một trong hai chi ấy. Hiện nay, Dicera được phục hồi cho phần chứa loài mẫu
chuẩn chọn lọc D. dentata
b) Đối với loài:
Nếu một loài bị chia hai hay nhiều loài thì tính ngữ loài ban đầu cần được giữ
lại cho mộ
t trong hai loài mới. Nếu chưa được giữ lại thì phải khôi phục lại. Nếu
vật mẫu, bản mô tả hay hình vẽ nào đó trước đây quy định là mẫu chuẩn của loài
thì tính ngữ loài cũ được giữ cho loài còn chứa mẫu chuẩn đó. Nếu mẫu chuẩn
chưa có thì cần phải chọn.
Ví dụ: Năm 1880 Hoffmann chia loài Juncus articulatus L. thành hai loài: J.
lampocarpus (1), J. acutiflorus. Việc cho tên này không phù hợp vì tính ngữ loài
cũ articulatus
đã bị bỏ mất. Do đó tên loài J. articulatus cần được phục hồi và nó
đã thay cho loài (1) vì nó chứa mẫu chuẩn.
c) Quy tắc áp dụng cho các taxôn trong loài
Nếu phân loài bị chia thành hai hay nhiều phân loài khác, hoặc thứ chia ra
nhiều thứ khác v.v. thì tên gọi cũ vẫn được giữ lại cho một trong các taxôn đó.
5.4.2 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi taxôn chuyển vị trí
a) Nếu loài chuyển vào chi khác hoặc tên chi cũ đổi thành tên khác nhưng không
thay đổi bậc thì tính ngữ loài hợp pháp cần được giữ lại hoặc trong trường hợp nó
chưa được giữ lại thì phải khôi phục lại, nếu nó không gặp các trở ngại sau:

Tên ghép đôi nhận được là tên đồng âm hoặc đặt tên muộn


Trước đây đã có tính ngữ loài hợp pháp
Ví dụ : tên chi cũ đổi thành tên chi mới.


10
Họ Euphorbiaceae có chi Prosarstema nay đổi tên Trigonostemon tất cả
các loài có tính ngữ Prosarstema phải chuyển sang tính ngữ Trigonostemon.
Loài Prosarstema stellais Gagnep. chuyển thành Trigonostemon stellaris
(Gagnep.) Airy Shaw.
Khi Uvaria tonkinensis trong họ Annonaceae được chuyển sang chi mới
Melodorum, do trong chi Melodorum trước đó đã có loài M. tonkinense nên
U. tonkinensis không thể đổi thành M. tonkinense mà phải cho nó một tên mới:
M. vietnamense.
b) Các nguyên tắc tương tự như trên cũng áp dụng cho các taxôn giữa chi và loài
hoặc taxôn dưới loài.
5.4.3 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi liên kết các taxôn
Khi ghép hai hoặc nhiều taxôn cùng bậc thì giữ lại tên hoặc tính ngữ hợp
pháp cũ nhất. Nếu các taxôn được ghép có cùng một năm công bố thì tác giả nào
tiến hành việc ghép tên có quyền chọn một trong nhiều tên hay tính ngữ đó, việc
lựa chọn đó được chấp nhận.
Ví dụ: Schuman (1890) ghép 3 chi là Sloanea L. (1753), Echinocarpus Blume
(1825) và Phoenicosperma Miq. (1865) tên được chọn phải là Sloanea L. vì đây là
tên công bố hợp pháp sớm nhất Linnê 1753 công bố hai loài: Verbesina alba L. và
Verbesina prostrata L. và
đến năm 1771 ông gộp lại và đặt tên là Eclipta erecta
L Việc thay đổi này trái với luật tên gọi vì Eclipta erecta L. là tên gọi thừa bởi lý
do nó không phải một trong hai tên trên. Hai loài này đã được Roxburgh (1832)
thừa nhận là 1: Eclipta prostrata (L.) L. được lựa chọn cho nên đây là tên gọi
đúng đắn khi nhập hai loài trên.
5.4.4 Áp dụng nguyên tắc ưu tiên khi thay đổi bậc taxôn

a) Nếu đổi bậc của chi hay các taxôn trong chi thì, tên gọi hoặc tính ngữ đúng
đắn phải là tên hay tính ngữ hợp pháp sớm nhất đã có. Bậc mới tên gọi hoặc tính
ngữ không bao giờ có sự ưu tiên cho những từ ở ngoài bậc vốn có của mình. Ví
dụ: Nhánh Campanopsis R. Br. (1810) thuộc chi Campanula nhưng khi chuyển
lên thành bậc chi thì tên chi này cần gọi là Wahlenbergia Shrad. et Roth (1821)
chứ không phải là Campanopsis (R.Br) Kuntze 1891 vì tên gọi Campanopsis tuy
xuất hiện 1810 nhưng là nhánh chứ
không phải là chi.
b) Nếu taxôn trên bậc chi nhưng dưới bậc họ mà thay đổi bậc thì gốc tên gọi
cần giữ lại mà chỉ thay đổi phần đuôi. Nếu tên nhận được không bị bãi bỏ theo
luật hiện hành.


11
Ví dụ: Phần họ Viscoideae (trước xếp vào họ Loranthaceae) nay chuyển lên
họ lấy tên là: Viscaceae. Trong họ mộc lan Magnoliaceae có phân họ
Liriodendroideae chuyển thành họ Liriodendraceae.
5.5 BÃI BỎ TÊN GỌI
a) Không được bãi bỏ tên gọi hợp pháp hoặc tính ngữ hợp pháp nếu chỉ vì nó
không được chọn lọc kỹ hoặc khó gọi, hoặc vì tên khác tốt hơn, được nhiều
người biết hoặc tên tính ngữ đã bị mất ý nghĩa ban đầu của nó.
Ví dụ: Khi đổi các chi Staphylea → Staphylis, Tamus → Thamus hay Thamos
việc đổi này sai. Khi đổi tên loài: Ardisia quinquegona → A. pentogona vì từ
quinquegona là từ lai nh
ưng việc đổi đó là không đúng hay Alphonsea
macrophylla kích thước lá 25 x 10 (lá lớn) do định tên sai nên khi chuyển sang chi
Fissistigma thì có tên là Fissistigma macrophylla mặc dù trong chi này các loài
đều có lá lớn hơn rất nhiều từ 35 - 50 x 15 - 20 cm, do đó ý nghĩa lá lớn không
còn nữa nhưng tên đó vẫn đúng.
b) Tên gọi là không hợp pháp và cần bãi bỏ trong các trường hợp


Nếu về mặt tên gọi việc công bố nó là thừa. Ví dụ: tên chi Cainito Adans.
(1763) là tên thừa so với tên Chrysophyllum L. (1753) bởi vì cả hai tên này đều có
giới hạn hoàn toàn giống nhau.

Nếu nó là tên đồng âm có muộn, nghĩa là lắp lại một tên hữu hiệu của
nhóm cùng bậc nhưng dựa vào một mẫu chuẩn khác. Ví dụ: Melodorum Hook. f.
et Thoms. (1862) dựa vào mẫu chuẩn M. grandiflorum, đây là đồng âm của tên
chi Melodorum Lour. (1790) dựa vào mẫu chuẩn M. arboreum. Do đó tên thứ nhất
bị bãi bỏ vì Loureiro (Lour.) công bố sớm hơn.
Tên của hai phân hạng của một chi hoặc của hai taxôn trong loài của cùng 1
loài (kể cả
khi chúng khác bậc) bị coi là tên đồng âm nếu chúng có cùng tính ngữ
dù không cùng một mẫu chuẩn. Nhưng cùng một tính ngữ có thể dùng cho các
phân hạng khác nhau của các chi khác nhau hoặc cho các taxôn dưới loài khác
nhau.
Ví dụ: tính ngữ đen - nigrum: Chi A có loài A. nigrum (đây không phải là tên
đồng âm) dù B có loài B. nigrum
Nếu trong chi A có: A. macrophyllum var. nigrum thì A. nigrum cũng không
phải tên đồng âm

Nếu đó là tên của một taxôn mà khi chuyển từ giới động vật → thực vật
mà đồng âm với taxôn thực vật.


12

Nếu việc sử dụng nó trong các nghĩa khác tên đó trở thành nguồn gốc của
sự nhầm lẫn.
Ví dụ: Tên Lavandula picta L. (1753) có liên quan tới hai loài sau đó được

viết L. angustifolia Mill. và L. latifolia Vill Tên gọi L. picta gần như được dùng
chỉ cho cả hai loài trên nên nó trở thành tên hai nghĩa, do đó tên đó bị bãi bỏ.

Nếu nó dựa vào mẫu chuẩn gồm hai hay nhiều thành phần hoàn toàn khác
nhau mà không một thành phần nào hoàn toàn chọn làm thành phần thích hợp.
Ví dụ: Các đặc điểm của chi Actinoticus Liv (1888) lấy từ hai chi Aesculus và
Viburnum vì người thu mẫu đã ghép cụm hoa của Viburnum vào chồi ngọn của
một loài thuộc chi Aesculus. Vì vậy tên Actinoticus cần bãi bỏ.
c. Nếu nó dựa vào hiện tượng quái dị mẫu do sâu bệnh làm biến dị.
5.6 TÊN GỌI CỦA CÁC TAXÔN
5.6.1 Tên gọi các taxôn trên bậc chi
Ngành, phân thành, lớp, phân lớp, bộ, phân bộ, họ, phân họ, tông, phân tông.
Mỗi bậc có các đuôi tương ứng: -phyta, -phytina, -opsida, -ideae, -ales, -inae, -
aceae, -oideae, -eae, -inae.
5.6.2 Tên chi và các phân hạng của nó
a) Tên chi: tên chi là một danh từ số ít hoặc một chữ nào đó được coi là danh
từ những tên này có thể lấy bất kỳ, thậm chí có thể cấu tạo hoàn toàn tùy ý.
Ví dụ: Rosa xuất phát từ Ros (màu hồng); Convolvulus (đừng sờ mó);
Teonogia (cây Teo nồng).
b) Tên chi không trùng với danh từ kỹ thuật, trừ khi nó công bố trước 1-1-
1912 và ngay từ đầu nó đã kèm theo tính ngữ chỉ loài hợp pháp theo phương pháp
ghép đôi của Linnê.
Các từ: Radix rễ
Caulis thân không dùng
đặt cho tên chiFolium
láS p ina gai
c) Tên chi không thể gồm hai từ, nếu có hai từ thì nên viết liền lại:
Quisqualis, Pseuduvaria (do viết liền nên được dùng) hoặc nối bằng gạch nối :
Neo - uvaria.
d) Chỉ dẫn : Khi đặt tên chi nên cố gắng dùng đuôi La tinh và cố tránh các tên

khó La tinh hóa. Không đặt tên chi bằng tên người hoàn toàn không liên quan tới


13
thực vật, hóa học hoặc ít nhất với khoa học tự nhiên. Khi sử dụng tên người làm
tên chi thì dù đàn ông hay bà thì tên La tinh vẫn là cấu tạo giống cái.
e) Tên phân hạng của chi: Là một tập hợp gồm tên chi và tính ngữ của phân
hạng, liên kết với nhau bằng thuật ngữ chỉ bậc. Tính ngữ phải phù hợp về giống
và số như tên chi hoặc tính từ số nhiều hợp văn phạm với tên chi và được vi
ết hoa.
Ví dụ: Costus subg. Metacostus Euphorbia sect. Tithymalus
f) Tính ngữ của phân chi (Subgenus) hoặc nhánh (Sectio) không thể lấy từ tên
chi chứa chúng để thêm các tiếp vĩ ngữ oides hoặc opsis hoặc tiếp đầu ngữ Eu.
g) Phân chi hoặc nhánh chứa loài chuẩn của chính chi ấy thì tính ngữ nhắc lại
đúng tên chi, không cần thay đổi nhưng tên gọi không có tác giả. Ví dụ: phân chi
của chi Malpighia L. có chứa mẫu chuẩn của chi là loài M. glabra sẽ
được gọi là:
Malpighia L. subg. Malpighia.
5.6.3 Tên loài
a) Tên loài là một tên ghép đôi gồm tên chi kèm theo tính ngữ loài nếu tính
ngữ gồm hai hay nhiều từ thì chúng cần thiết viết liền lại hoặc liên kết với nhau
bằng dấu gạch nối. Các tính ngữ ngay từ khi công bố không liên kết với nhau lại
hoặc nối với nhau thì không bị bãi bỏ nhưng khi viết cần viết liền lại hoặc thêm
dấu nối. Tính ngữ loài có thể lấy bất cứ nguồn nào đó, th
ậm chí lấy tuỳ ý.
Ví dụ : Talauma gioi (cây giổi) Piper lolot (lá lốt)

Tính ngữ loài không thể lặp lại tên chi (tên loài không lặp danh)
Ví dụ: Linaria linaria là không đúng.


Tính ngữ loài không được cấu tạo nếu hình thức là tính từ không dùng làm
danh từ. Nếu tính từ thì phải đúng với văn phạm của tên chi (hợp về giống và số).
Ví dụ: Helleborus niger (đực) Brassica nigra (cái)
Verbasinum nigrum (chung).

Họ tên người đàn ông, đàn bà, đất nước, địa điểm khi dùng làm tính ngữ
loài có thể viết dưới dạng danh từ cách hai hoặc dưới dạng tính từ.
Ví dụ: Clusii (tên người là Clus) danh từ cách 2, clusianus (tính từ); locii (GS.
P. K. Lộc) (danh từ), lociana (tính từ).
b) Chỉ dẫn: Khi cấu tạo tính ngữ loài nên tận dụng khả năng dùng đuôi La
tinh, tránh các tính ngữ khá dài, khó đọc, tránh tính ngữ cùng nghĩa với tên chi,
tính ngữ chỉ đặ
c điểm chung cho tất cả hoặc hầu hết loài của chi đó. Tránh các
tính ngữ quá giống nhau. Tránh công bố lại tên dự kiến mới ghi ở bìa tiêu bản.


14
Tránh dùng tính ngữ tên địa điểm quá bé ít người biết đến trừ khi loài đó là đặc
hữu với địa phương đó.
5.6.4 Tên gọi của taxôn dưới bậc loài
a) Tên các taxôn trong loài là một tập hợp gồm tên loài hoặc tên taxôn bậc
loài nào đấy và tính ngữ chỉ taxôn đó và chúng liên kết với nhau nhờ thuật ngữ chỉ
bậc. Tính ngữ trong loài cấu tạo như tính ngữ loài. Nếu chúng có dạng tính từ
không dùng làm danh từ thì chúng hợp văn phạm với tên chi.
Ví dụ: Andropogon ternatus subsp. macrothrix
b) Tên gọi của taxôn trong loài có chứa mẫu chuẩn của loài sẽ có tính ngữ
giống hệt tính ngữ của loài và không có tên tác giả. Mẫu chuẩ
n của taxôn trong
loài đó cũng đúng là mẫu chuẩn taxôn của loài. Nếu tính ngữ của loài thay đổi thì
mẫu chuẩn của loài cũng cần thay đổi theo.

Lobelia spicata var. originalis một thứ có chứa mẫu chuẩn của loài là L.
spicata Lam. thì cần phải đổi thành L. spicata Lam. var. spicata.
5.7 TRÍCH DẪN TÊN TÁC GIẢ VÀ CÁC TÀI LIỆU KÈM
THEO TÊN GỌI
5.7.1 Trích dẫn tên tác giả
Để việc trích dẫn tên taxôn đầy đủ, đúng đắn, dễ kiểm tra cần ghi họ tên tác
giả đầu tiên công bố tên gọi đó. Quy ước viết tên tác giả sau tên taxôn thì viết tắt
trừ khi tên tác giả quá ngắn 1 âm tiết. Khi viết tắt giữ âm tiết đầu. Những tác giả
có cùng họ hoặc họ giống nhau phải có ký hiệu phân biệt.
Ví dụ: Fries → Fr. ; Robert Brown → R. Br.; Alexander Brown → A.
Br. ; Micheli → Mich. ; De Candolle → DC.; Michaux → Michx
Ví dụ: Monocatum
Naud Ann. Sci. . III.4 : 48 pl 2. 1845; hoặc có thể viết:
Monocatum Naud seri 3.4. 48. pl 2 (1845). Có thể chuyển niên hiệu lên sát tên tác giả.
5.7.2 Một số chỉ dẫn cần thiết cho việc trích dẫn tên tác giả
Khi trích dẫn tên gọi đã công bố với tên đồng loại cần thêm bên cạnh tên đó
chữ Prosyn hoặc Synonym. Nếu tác giả công bố tên đồng loại lấy từ bản thảo của
người khác cần dùng chữ et để liên hệ tên gọi hai tác giả.


15
Ví dụ: tên loài Myrtus serratus là tên có ghi trong bản thảo Koenig nhưng lại
do Steud công bố với tư cách là một tên đồng loại của Eugenia laurina Willd. nên
cần phải viết là Myrtus sernatus Koenig et Steud prosyn.

Khi trích dẫn các tên trần (tên gọi không kèm theo bản mô tả) thì sau tên
gọi cần chỉ rõ trạng thái của nó : nom. nud (nomen nudum).

Những tên gọi do gán nhầm không đưa vào tập hợp tên đồng loại mà nên
dẫn ra ở sau cùng mà nó được chỉ bằng chữ Auct. non.

Ví dụ: trong số những tên đồng loại của Altingia sinensis Craib có tên A.
gracilicer Auct. non Hemsl., Lecomte, Fl. Gen. Indoch. 2. 711. 1920.

Nếu tên chi được coi là tên bảo tồn cần thêm vào trích dẫn chữ Nom. Cons.
(nomen conservatum = tên bảo tồn).
Ví dụ: Protea L. 1911 nom. cons., non L. 1053

Tên gọi viết trong tập hợp tên đồng loại phải viết đúng tên tác giả công bố
nó, nếu cần giải thích thêm viết trong ngoặc ( ), nếu tên đã được thừa nhận có sai
khác với bản đã công bố đầu tiên thì trong phần trích dẫn đầy đủ nên bổ sung
thêm dạng viết đầu tiên và để nó trong dấu ngoặc kép “ ”.
Ví dụ: Alphonsea tonkinensis DC. Bull. Herb Boiss.: 107 (1904)
(“tonquinensis”).
5.8 LUẬT CHÍNH TẢ VỀ TÊN GỌI VÀ DẤU VĂN PHẠM VỀ
TÊN CHI
5.8.1 Luật chính tả về tên gọi và các tính ngữ
Dạng ban đầu của tên gọi và các tính ngữ cần được giữ lại trong trường hợp
phải sửa các lỗi in sai và các lỗi chính tả do sơ ý. Tuy vậy cần thận trọng trong khi
sử dụng quyền sửa đổi tên. Đặc biệt khi sửa đổi các âm tiết đầu, nhất là các chữ
cái đầu tiên.

Nếu tên gọi của chi hay các phân chi, nhánh lấy từ tên người cấu tạo như
thế nào?
Nếu tận cùng là nguyên âm a thì thêm ea: Colla

Collaea;
Nếu tận cùng là phụ âm → thêm ia;
Nếu tận cùng là er thì thêm a

era;

Nếu tận cùng là us → bỏ us thêm vào a: Dillenius

Dillenia.

Cấu tạo tính ngữ loài:
Nếu tên người tận cùng bằng nguyên âm thêm i: glariou

glarioui;


16
Nếu tên người tận cùng bằng nguyên âm a thêm e: balansa → balansae;
Nếu tên người tận cùng bằng phụ âm thêm ii (bon

bonii);
Nếu tên người tận cùng bằng nguyên âm er thêm i (Hooker

hookeri).
Tên người có thể → dạng danh từ (Lasiococca locii), dạng tính từ (Schefflera
lociana) hoặc số nhiều Clemens

Clementorum
Các tính ngữ lấy từ tên địa phương thường giữ lại gốc chữ và thêm tiếp vị
ngữ - ensis (cochinchinensis, vietnamensis) hoặc anus ( cambodianus) hoặc
icus (indicus, japonicus).
5.8.2 Giống văn phạm của tên chi cần xác định bằng cách
a) Các từ Hy Lạp hay La Tinh được dùng làm tên chi được giữ lại giống văn
phạm vốn có của mình, nếu giống văn phạm thay đổi thì tác giả cần phải chọn một
trong các dạng của nó. Theo tập quán của các nhà thực vật cần coi các tên gọi
Adonis, Diospyros, Strychnos là danh từ giống cái mặc dầu giống văn phạm cổ

điển của nó là giống đực (Diospyros rubra); tương tự như th
ế thuộc giống cái có
tên: Orchilis, Stachys, mặc dầu những từ này là giống đực trong tiếng Hy Lạp và
giống cái trong tiếng La Tinh.
b) Các tên gọi cấu tạo từ hai hoặc nhiều từ Hy Lạp hay La Tinh thì giống văn
phạm của chúng là giống của từ cuối cùng.
Ví dụ: thuộc giống đực gồm có tên gọi có có tận cùng là codon, myces, odon,
panax, pogon và stemon lấy từ tiếng Hy Lạp (Trigonostemon bonianus). Việc
Linnaeus coi tên gọ
i Andropogon là giống trung là không đúng; thuộc giống cái
có tận cùng - achne, - chlamys, - daphne, - mecon, - osma gốc tên gọi lấy từ tiếng
Hy Lạp (Actiondaphne obovata).
5.8.3 Cách viết tên tác giả
Khi tên gọi một taxôn có hai hay nhiều tác giả cùng công bố thì việc trích dẫn
tên phải trích tất cả các tên. Trường hợp hai tác giả thì liên kết bằng et hoặc &:
Finet et Gagnepain → Fin. et Gagnep. hoặc Fin. & Gagnep.
Trường hợp hơn ba tác giả thì chỉ viết tên tác giả đầu, sau đó dùng tổ hợp et
al. Nếu 1 taxôn nào đó do một tác giả đề nghị nhưng chưa công bố hữu hiệu, sau
đó một tác giả khác công bố hữu hi
ệu thì tên tác giả sau liên kết với tên tác giả
trước bằng ex. Ví dụ: Gossypium tomentosum Nutt. ex Seem (loài đó được Nutt
đặt tên nhưng chưa công bố hay công bố không đúng luật về sau Seem đã công
bố lại đúng luật).


17
Nếu tên gọi có bản mô tả do một tác giả nào đó công bố trong một công trình
của người khác thì tên hai tác giả này được liên kết bằng giới từ in. Ví dụ:
Viburnum ternatum Redd in Sarg (Redd đã công bố loài trên đăng trong tác phẩm
của Sarg).

Việc thay đổi đặc điểm mô tả hoặc giới hạn độ lớn của taxôn nhưng vẫn giữ
mẫu chuẩn thì chưa được phép thay đổi tên gọi. Nhưng nếu nh
ững thay đổi này
đáng kể thì có thể chỉ rõ bản chất cần đổi bằng cách viết tắt các thành ngữ emend
(hiệu chính) hay p.p. (tức là một phần trong sưu tầm mẫu cũ thuộc loài đã mô tả,
phần còn lại thuộc loài khác) hoặc excl (loại trừ) hoặc s. ampl (nghĩa rộng), s. str
(nghĩa hẹp). Ví dụ: Loranthaceae tách ra, một phần thành họ Viscaceae thì tên họ
khi chưa bị tách ra đượ
c viết là Loranthaceae (s. ampl.) còn họ đó sau khi đã tách
một phần được viết là Loranthaceae (s. str.)
Nếu tác giả chấp nhận một taxôn nào đó ở giới hạn mới đã loại trừ mẫu chuẩn
taxôn ban đầu thì tên gọi cho taxôn có giới hạn mới thuộc về tác giả nào đã công
bố nó (đã loại trừ mẫu chuẩn).
Ví dụ: Melodorum Lour. mẫu chuẩn M. arboreum Lour. sau khi Hook. et
Thoms. loại trừ mẫ
u chuẩn thì tên chi Melodorum mới thuộc về Hook. et Thoms.
không thuộc về Loureizo nữa → Melodorum Hook. et Thoms. non Lour.
Trích dẫn tác giả khi taxôn thay đổi vị trí hay thay đổi bậc: Ví dụ: Adelia
resinosa Blume sau đó Merrill chuyển loài này vào chi Mallotus thì tên loài được
viết là Mallotus resinosus (Blume) Merr., Aporosa wallichii var. yunnanensis Pax
et Hoffm, về sau Metcalf đã nâng thứ cây này thành loài, tên loài mới được viết là
A. yunnanensis (Pax et Hoffm.) Metc.
5.8.4 Cách ghi tài liệu tham khảo kèm theo tên gọi
Tên riêng của tác giả hoặc nhiều tác giả : Khi tên tác giả không viết tắt thì sau
tên tác giả dùng dấu phẩy (,) khi tên tác giả viết tắt thì dùng dấu ngắt câu (.). Ví
dụ cây Dâu da - Baccausea ramiflora Lour. (Loureiro).
Tên sách hoặc tài liệu nghiên cứu khác: Tên sách thường viết tắt còn tên các
bài báo in trong các tạp chí định kỳ thường được bỏ qua mà chỉ nhắc đến tên tạp
chí. Ví dụ: tên bài báo “Các loài mới thuộc họ Thầu dầu Việt Nam” đăng trong
Tạp chí Sinh học, số

4 năm 1996, trang 40, khi trích dẫn viết như sau: Tạp chí
Sinh học, 4 (1996) 40.
Tên tạp chí định kỳ trong phần trích dẫn kèm theo, chỉ giữ lại những chữ
quan trọng và nếu cần viết tắt thì chỉ viết một âm tiết đầu nếu nó không gây nhầm
lẫn. Còn những chữ khác đều bỏ qua (giới từ, phụ ngữ) ví dụ Ann. Miss. Bot.
Gard. Tên của tạp chí Annals of the Missouri Botanical Garden. Mỗi một tạp chí


18
cần phải viết theo thứ tự tên tạp chí, tập, số, năm xuất bản, số trang. Một số tạp
chí không viết tắt: Taxon, Blumea, Adansonia. Những tạp chí khác nhau thuộc các
nước khác nhau bên cạnh tên tạp chí cần ghi địa điểm xuất bản Flora (Quito)
Flora (Jena).
Số lần xuất bản và số xeri: Nếu quyển sách nào xuất bản nhiều hơn một lần
thì số lần xuất b
ản sau viết ed. 2, ed. 3, v.v. Nếu tạp chí nào xuất bản từ hai xeri
trở lên và trong mỗi xeri nhắc lại số thứ tự các tập thì các xeri sau cách xeri đầu
tiên viết bằng chữ số la mã hoặc: tên sách, tên tạp chí, số xeri phân cách với nhau
và phân cách với các phần khác bởi dấu chấm để biểu thị sự viết tắt.
Số tập số của tập cần ghi bằng chữ số Ả Rập và để chỉ
rõ hơn có thể in nét
đậm hơn. Nếu tập sách không đánh số thì năm in ở tờ bìa có thể dùng như số của
tập sách, số quyển phân cách với số trang, số bản vẽ bằng dấu 2 chấm (:).
Phần nhỏ hoặc tập nhỏ. Nếu tập sách gồm nhiều phần in rồi đánh số, nhất là
khi số trang mỗi tập nhỏ không theo thứ tự kế tiếp nhau thì số
các phần đó đặt
ngay sau số của tập cách bởi dấu hai chấm, hoặc đặt trong ( ) hoặc số viết lên trên
hàng. Đối với các tập sách có số trang được đánh số liên tục từ tập nhỏ này sang
tập nhỏ khác thì việc nhắc số các tập nhỏ là không cần thiết, dễ gây nhầm lẫn.
Số trang viết bằng chữ số Ả Rập trừ khi trong nguyên bản ghi bằng ký hiệu

khác, nếu trích dẫn nhiều trang thì các số phân cách nhau bằng dấu phẩy (,). Nếu
trích dẫn hai trang liên tiếp trở lên thì viết trang thứ nhất và trang cuối và ngăn
cách bởi dấu trừ (-).
Hình vẽ và bản vẽ: nếu việc nêu nó là cần thiết thì viết bằng chữ số Ả Rập.
Trước đó viết bằng chữ f. hoặc fig. hoặc pl. (Plate) để chỉ rõ hơn cần viết nghiêng.
Hiện nay đôi khi dùng tab. thay pl
Niên hiệu năm công bố đặt cuối đoạn trích dẫn. Để rõ hơn phải ghi rõ ngày,
tháng, năm. Niên hiệu có thể để trong dấu móc đơn ( ).


×