Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Đề và Bài văn đạt điểm 10 trong kỳ thi tuyển sinh ĐH 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.78 KB, 10 trang )

>>>* CÁCH CẢM NHẬN, PHÂN TÍCH MỘT TÁC PHẨM ĐẠT ĐIỂM THỦ KHOA
>>>* VĂN Bài đạt 9,5 điểm , tuyen sinh
Bài văn đạt điểm 10 trong kỳ thi
tuyển sinh ĐH 2005
( ĐH Huế đã công bố Thứ Sáu, 19/08/2005 )
Đề thi môn Văn, khối D
(Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề)
Câu 1: (2 điểm)
Anh/chị hãy trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.
Câu 2: (5 điểm)
Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ
nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
Câu 3: (3 điểm)
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng người!
HẾT
BÀI LÀM :
Nguyên văn bài thi của thí sinh
Nguyễn Thị Thu Trang :
Câu 1:
Xuân Diệu (1916 - 1985) - một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, đã để lại cho đời
một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có giá trị. Hơn 50 năm lao động miệt mài trong thế giới
nghệ thuật ấy, con người và thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà thơ
lãng mạn thành nhà thơ cách mạng.
Đó là bước chuyển tất yếu của một trí thức yêu nước, một tài năng nghệ sĩ. Thơ văn Xuân Diệu
có đóng góp lớn vào quá trình phát triển của văn học VN. Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của


nhà thơ qua thơ và văn xuôi.
Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính: trước và sau Cách mạng
Tháng 8 (CMT8).
Trước CMT8, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm chính: tập thơ “Thơ thơ”
(1938) và “Gửi hương cho gió” (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là:
Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (“Vội
vàng”, “Giục giã”).
Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé nhỏ giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô tận
(“Đời kỹ nữ”).
Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh: lẽ sống vội vàng (“Vội
vàng”).
Nỗi khát khao đến cháy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy hương sắc và thể hiện
nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời (“Dại khờ”,
“Nước đổ lá khoai”).
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi bé
nhỏ đến cái ta chung của mọi người” (P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ
cách mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn đầu. Xuân
Diệu chào mừng Cách mạng với “Ngọn quốc kỳ” (1945) và “Hội nghị non sông” (1946) với tấm
lòng tràn đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ ca. Ý
thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống Đất
nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say
viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc VN, về quá trình xây dựng CNXH miền Bắc và công cuộc
thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập “Riêng chung” (1960), “Hai đợt sóng” (1967),
tập “Hồn tôi đôi cánh” (1976)…
Từ những năm 60 trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ tình Xuân Diệu lúc này không vơi
cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng mới. Trước Cách mạng, tình yêu trong thơ ông hầu
hết là những cuộc tình xa cách, cô đơn, chia lìa, tan vỡ… nhưng sau Cách mạng, tình yêu của hai
con người ấy không còn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng mọi người. Tình
cảm lứa đôi đã quyện cùng tình yêu Tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến tình cảm thủy chung

gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ không lẻ loi, đơn côi nữa (“Dấu nằm”, “Biển”, “Giọng nói”,
“Đứng chờ em”).
Về lĩnh vực văn xuôi, có thể nói Xuân Diệu quả thực tài tình. Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm sinh
như thế, Xuân Diệu còn rất thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Các tác phẩm chính: “Trường
ca” (1939) và “Phấn thông vàng” (1945). Các tác phẩm này được viết theo bút pháp lãng mạn
nhưng đôi khi ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (“Cái hỏa lò”, “Tỏa nhị Kiều”).
Ngoài ra, Xuân Diệu còn rất tài tình trong việc phê bình văn học, dịch thuật thơ nước ngoài. Các
tác phẩm tiêu biểu: “Kí sự thăm nước Hung”, “Triều lên”, “Các nhà thơ cổ điển VN”, “Dao có
mài mới sắc”.
Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự nghiệp văn học VN. Vũ
Ngọc Phan từng nhận xét: “Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất cho thơ ca hiện đại VN”.
Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể loại và các giai đoạn lịch
sử của dân tộc. Chính vì thế có thể nói rằng, Xuân Diệu xứng đáng là nhà thơ lớn, nhà văn hóa
lớn.
Câu 2:
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện
thực, có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong
thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Khi hòa bình
lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện
ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời.
Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm
sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của
những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể
hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã khám phá ra
diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ
nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù
cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự
sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.

Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và
niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng
cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn
biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị,
đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian
nạn đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống, người chết, những bóng
ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ.
Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành, nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực
ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị
nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ
Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phất phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối
thiên truyện.
Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng.
Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như
trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm
sao có thể đèo bòng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ
ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ.
Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở các nhân vật như anh cu
Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy
đồng”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác
rưởi và mùi ngây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết” ấy nhưng
lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung
dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa.
Một anh thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ lực
lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao
đẹp. “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong
khi anh không biết cuộc đời mình phía trước ra sao. Tràng thật là liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng
cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương
vô cùng.
Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu

thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm
ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có
chủ đích, chỉ tầm phờ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một
con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như
không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và
sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho
Tràng thay đổi hẳn tâm tính.
Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự
khi đón nhận hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ “ấm áp, mơn man khắp
da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “Trong
một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng
ngày đã qua”.
Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn
có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm
hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không
phải là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một con người có hiếu, một người chồng đầy
trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng
thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ
lùng”, “Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn
dẹp nhà cửa.
Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn.
Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng hạnh
phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp
phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin
thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón
chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần
nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình.

Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi
cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác u tối của
mọi người rạng rỡ hẳn lên.
Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là cả một quá trình biến đổi.
Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không
Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta
không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp
nghẹt quyền sống con người.
Thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo đã rách bợt”, điệu bộ trông thật
thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí
xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy
chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống,
vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu đi trong tác phẩm.
Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ cùng
cực.
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức
sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy.
Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời, người
ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ. Nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo
vô cùng, tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ.
Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả
tâm lí nhân vật.
Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ
không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng
ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân
vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên
phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính
trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy.
Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và

có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ,
hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm
vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng.
Sau khi thấu hiểu mọi điều, bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà lòng đầy
thương xót. Bà thiết nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình,
mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và
có ý nghĩa vô cùng: "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng".
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực
thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn
nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng mà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà
thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình.
Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của
tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn
ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khó ấy, ngọn lửa của tình
người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo
đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà
nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn
truyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự
sưởi ấm lòng mình.
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè
cám nghẹn bứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu
thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu: "Chè khoán đây. Ngon đáo để cơ". Ở
đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm
chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một
sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về
nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm
chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách
mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia.
Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là

những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một
đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng
dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm
nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
"Cái đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức
mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp
Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn
đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn
mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
Câu 3:
Tố Hữu, một nhà thơ chiến sĩ, một người thư ký trung thành của thời đại ấy đã cùng hành trình
làm cách mạng tiếp cận với thơ ca. Thơ ca đối với ông không ngoài mục đích chính trị, phục vụ
cho lý tưởng của Đảng, của cách mạng.
Trong nguồn mạch về các đề tài chính trị của Đất nước ấy, Tố Hữu đã tìm về với quá khứ lịch sử
của cha ông, một thế hệ hôm nay vọng về thế hệ cha ông xưa để đồng cảm, thấu hiểu, để tìm
nguồn sinh lực mới cất bước cho cuộc kháng chiến hôm nay. Một trong những bài thơ tiêu biểu
cho đề tài này không thể không kể đến bài thơ "Kính gửi cụ Nguyễn Du", trích trong tập "Ra
trận".
Tháng 11-1965 khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp qua quê hương của Nguyễn Du và
nhân kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người, Tố Hữu xúc động viết lên bài thơ này.
Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận, suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu tiêu biểu cho thế hệ
hôm nay nhìn về quá khứ lịch sử của cha ông xưa để từ đó khẳng định cuộc kháng chiến chống
Mỹ hôm nay của dân tộc.
Trong tiếng vọng của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt lên:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!

Bài thơ trừ bốn câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với ba cặp lục bát tương xứng. Bằng
hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, những
so sánh bất ngờ ấy đã diễn tả thật thành công tấm lòng của một người con cúi mình trước đại
thi hào vĩ đại của dân tộc Nguyễn Du, một thi hào kỳ tài ấy đã chắp bút lên "Truyện Kiều", một
công trình đồ sộ và có giá trị thật lớn lao, góp phần tăng giá trị đạo đức, nhận thức vào kho tàng
văn học VN. Cảm khái và ngưỡng mộ trước tài năng ấy kết hợp với một tấm lòng khát vọng tìm
về với quá khứ xưa, Tố Hữu đã viết:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn
thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà thơ đã
nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du. Ông đã ví tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ
ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ.
Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của một tấm lòng hậu thế muốn
đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ
không những khái quát được tầm vóc, giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu
sắc tình cảm cao đẹp của Tố Hữu - thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khá của cha ông.
Lối thơ ấy, tiếng lòng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở vươn tới những giá trị vĩnh hằng
khác:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Nghìn năm là khoảng thời gian của hồi tưởng, của ngưỡng vọng, của khát vọng mãnh liệt, của
tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hôm nay. Đó còn là khoảng thời gian của thế hệ hôm nay trả lời
cho nỗi đau lịch sử của cha ông trong quá khứ. Một lần nữa cảm hứng ngợi ca chấp bút cho Tố
Hữu cất tiếng lòng tự hào trong khúc hát tràn đầy hân hoan, hứng khởi, trong sự ngưỡng vọng
trước một thiên tài.
Tiếng thơ của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ", mà "tiếng mẹ" thì gần gũi, thiết tha quá. Đó là
lời ru nhẹ nhàng ân tình, chan chứa tình yêu thương và trong ấy gửi gắm bao mơ ước thật cao
đẹp. Và vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng ru của mẹ ân tình, ngọt ngào thổi vào lòng bao
thế hệ có sức mạnh thật lớn lao. Tình cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy là lời nhắc nhở, thủ thỉ cho

con - thế hệ hôm nay vững bước trưởng thành.
Tiếng lòng đồng vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để con lại vang lên lời ca tự hào:
Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!
Trên trục kết cấu "xưa-nay", "con-Người" cùng vang lên tiếng lòng khát khao tìm kiếm tri âm.
"Con" sẽ cùng "Người" hát tiếp khúc tráng ca ấy chào đón cách mạng. Chữ "cùng" đã thể hiện
đầy đủ ước vọng của chúng con và Người. Tình cảm ấy, nghĩa cử ấy thật đáng tự hào và trân
trọng.
Sáu câu thơ, ba cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng lòng của chúng con thế hệ hôm nay
đáp lời quá khứ. Đó cũng là lời hứa chân thành nhất của thế hệ hôm nay cùng ngân vang theo
nhịp đập của quá khứ.
Bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi hình, giọng điệu ân tình, ngọt
ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn vẹn phong cách thơ Tố Hữu: khuynh hướng thơ
trữ tình - chính trị, một giọng điệu tâm tình ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc. Khổ thơ khép lại
nhưng lại mở ra một chân trời mới, tương lai mới trong hành trình chống Mỹ hôm nay:
Sông Lam nước chảy bên đồi
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
NGUYỄN THỊ THU TRANG
__________***__________
Thầy
Mai Văn Hoan
(giáo viên văn
Trường THPT
Quốc Học -
Huế):
Tôi vừa vui vừa
lo
Đọc bài văn điểm
10 này, tôi vừa
mừng vừa lo,

vừa vui vừa
buồn. Mừng và
vui vì lâu lắm rồi
mới có một điểm
10 môn văn
trong kỳ thi đại
học.
Càng mừng và
vui hơn vì trong
tình trạng hiện
nay rất hiếm học
sinh say mê với
môn văn, lại có
một học sinh
chịu khó học,
chịu khó đọc,
đặc biệt là có
một sức viết rất
dồi dào. Trong
khoảng 180 phút
mà viết được 15
trang như thế
quả thật đáng
nể!
Nguyễn Thị Thu
Trang
“Tôi nghĩ rằng nếu
bây giờ làm lại bài
văn này, có lẽ tôi chỉ
làm được 70% số

điểm là cùng, chứ
không hay hơn như
vậy đâu. Bởi vì khi
làm bài thi, có nhiều
áp lực buộc mình
phải tập trung huy
động tối đa mọi
nguồn kiến thức; mặt
khác, lúc đó cũng có
một chút “thăng hoa”
nên mới làm bài được
như vậy.
Tuy nhiên, sau khi thi
xong, ngồi kiểm tra
lại, tôi thấy câu 3
chưa thật sự như ý
muốn của mình, bởi
vì lúc đó đã sắp hết
giờ; nếu cho thêm 30
phút nữa, tôi sẽ viết
PGS Trần Hữu Tá:
Có chỗ non yếu, nhưng vẫn đáng điểm 10
Về mặt nội dung, kiến thức văn học sử của TS rất
chắc chắn. Sự chắc chắn ấy thể hiện rõ ở phần trả
lời hai câu đầu. Mặc dù TS cũng có sơ suất: viết
dài dòng, viết những điều người ta không hỏi (như
câu 1 TS phân tích khá chi tiết những tập thơ
trước và sau cách mạng, theo tôi không cần thiết
lắm).
Nhưng câu 1 cũng chứng tỏ TS hiểu thấu đáo sự

nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.
Ở câu 2 TS không những thể hiện khả năng am
hiểu tác phẩm mà còn hiểu động cơ sáng tác của
tác giả, ý kiến nhận định của giới nghiên cứu cũng
như những điều tác giả tâm sự về tác phẩm của
mình. Nó thể hiện sự học hỏi, nghiên cứu công phu
của TS.
Thêm nữa, TS còn trích dẫn rất chính xác những
câu văn trong tác phẩm Vợ nhặt, chứng tỏ sức nhớ
khá tốt và đáng khen.
Một ưu điểm nữa là TS có cảm thụ tinh: biết nhấn
đến chi tiết nghệ thuật, đắt giá, có khả năng tổng
Nhưng tôi lại
cảm thấy lo và
buồn. Điều đáng
lo nhất, qua bài
văn này, đó là
cách trình bày
vấn đề: đủ ý,
nhưng dài dòng
quá.
Câu 1, theo tôi,
lẽ ra em chỉ cần
viết một trang là
đủ; nhưng em
kéo đến ba trang,
và có nhiều chỗ
trình bày những
kiến thức không
cần thiết. Về

cách diễn đạt,
bài viết còn đôi
chỗ vụng và hơi
sáo. Và đây cũng
là tình trạng
chung của học
sinh hiện nay.
hoàn hảo hơn.
Riêng câu 2, tôi thật
sự rất hài lòng, vì vốn
rất thích truyện ngắn
Vợ nhặt của Kim Lân
và đã học rất kỹ bài
giảng tác phẩm này.
Hiện nay tôi đang
theo ngành tài chính -
kế toán nên phải dồn
sức theo học bên đó
đã. Tuy nhiên, cho dù
có là ngành gì đi nữa
thì tôi vẫn xem văn
chương như món ăn
hằng ngày. Đọc văn,
tâm hồn mình trở nên
phong phú và cuộc
đời sẽ đẹp hơn rất
nhiều”.
***
hợp, khái quát khá tốt.
Ví dụ câu số 2 có thể có hai cách làm: cách thứ

nhất sẽ đi vào từng nhân vật. Cách này “thật thà”,
an toàn nhưng dễ bị lặp lại, thiếu sức hấp dẫn. Ở
đây, TS đã chọn cách thứ hai: phân tích chung,
trình bày mang tính tổng hợp với cái nhìn khái
quát.
Đặc biệt, TS có cách diễn đạt lưu loát và không có
ý lặp lại về kết cấu, đi ngay vào hai yêu cầu cụ thể
của đề tuy chưa cân đối lắm (phân tích kỹ về tình
người nhưng chưa có sự kỹ lưỡng tương xứng khi
đề cập đến niềm hi vọng vào cuộc sống của ba
nhân vật).
Nhưng việc chọn phương pháp thứ hai đã thể hiện
bản lĩnh, khả năng làm chủ ngòi bút của TS, thể
hiện sự tự tin trong việc cảm và hiểu tác phẩm.
Ta cũng nhận ra ngay phần trả lời câu hỏi số 3
non hơn hai câu đầu. Ý tứ chưa đầy đủ, bình giảng
thiếu chặt chẽ, hệ thống, diễn đạt đôi chỗ vướng
vấp. Tuy nhiên, tôi cho rằng bài văn đáng được
điểm 10.
*

×