Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tìm hiểu hóa học quanh ta – Hóa học và đời sống (phần 5) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 5 trang )

Tìm hiểu hóa học quanh ta – Hóa
học và đời sống (phần 5)
28. Vì sao nên xếp hồng với lê khi giấm?

Kinh nghiệm dân gian cho thấy, khi ngắt những trái hồng xanh về giấm thường rất
lâu chín. Nhưng nếu người ta để vào mấy quả lê hay vài quả hồng chín thì những
quả xanh cũng mau chín hơn hẳn.
Trong mỗi quả xanh đều có một loại axit gây chua, chát. Ví dụ trong hồng có axit
tanin, táo có axit malic, quýt, chanh có axit xitric Khi quả chín, các axit này bị
phân hủy dần và vị chua, chát sẽ mất đi. Màu quả cũng chuyển từ xanh qua vàng.
Bình thường, chỉ cần chờ đợi thì quả xanh nào rồi cũng chín, nhưng không phải ai
cũng kiên nhẫn được như vậy. Mặc khác, đến vụ người ta muốn thu hoạch một lần
nhiều quả chín. Vì thế cần có cách làm chúng chín nhanh hơn, đó là nghệ thuật
giấm hoa quả. Trước thế kỷ 20, người ta không hiểu vì sao khi đưa một vài quả
chín vào đám quả xanh thì quá trình chín diễn ra nhanh hơn.
Mọi bí mật được hé mở khi nhà hóa học Svet tìm ra phương pháp sắc ký - tức là
phương pháp xác định thành phần các chất khí. Đo đạc cho thấy quả chín thường
thoát ra khí ethylene. Một số quả như lê, táo chín nhanh hơn các quả hồng, mận.
Chúng cũng giải phóng nhiều ethylene hơn. Loại khí này có cấu trúc phân tử gồm
một nguyên tử carbon và 4 nguyên tử hydro. Nó có tính hoạt động hóa học tương
đối mạnh, xúc tiến hoạt động hô hấp của cây, khiến ôxy dễ lọt qua lớp vỏ vào quả
hơn, và quả cũng chín nhanh hơn. Chính vì vậy, khi xếp mấy quả lê hoặc vài quả
hồng chín vào một rổ hồng xanh thì có thể tiết kiệm được thời gian giấm

29. Vì sao chất Florua lại bảo vệ được răng?

Răng được bảo vệ bởi lớp men cứng, dày khoảng 2mm. Lớp men này là hợp chất
Ca5(PO4)3OH và được tạo thành bằng phản ứng:
5Ca2+ + 3PO43- + OH- → Ca5(PO4)3OH (1)
Quá trình tạo lớp men này là sự bảo vệ tự nhiên của con người chống lại bệnh sâu
răng.


Sau các bửa ăn, vi khuẩn trong miệng tấn công các thức ăn còn lưu lại trên răng
tạo thành các axit hữu cơ như axit axetic và axit lactic. Thức ăn với hàm lượng
đường cao tạo điều kiện tốt cho việc sản sinh ra các axit đó.
Lượng axit trong miệng tăng làm cho pH giảm, làm cho phản ứng sau xảy ra:
H+ + OH- → H2O
Khi nồng độ OH- giảm, theo nguyên lí Lơ-Sa-tơ-li-ê, cân bằng (1) chuyển dịch
theo chiều nghịch và men răng bị mòn, tạo điều kiện cho sâu răng phát triển.
Biện pháp tốt nhất phòng sâu răng là ăn thức ăn ít chua, ít đường và đánh răng sau
khi ăn.
Người ta thường trộn vào thuốc đánh răng NaF hay SnF2, vì ion F- tạo điều kiện
cho phản ứng sau xảy ra:
5Ca2+ + 3PO43- + F- → Ca5(PO4)3F
Hợp chất Ca5(PO4)3F là men răng thay thế một phần Ca5(PO4)3OH
Ở nước ta, một số người có thói quen ăn trầu, việc này rất tốt cho việc tạo men
răng theo phản ứng (1), vì trong trầu có vôi tôi Ca(OH)2, chứa các ion Ca2+ và
OH- làm cho cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều thuận.
Áp dụng: Vấn đề sâu răng và phòng ngừa sâu răng được mọi người quan tâm.
Nhưng ít ai biết rằng vì sao răng bị sâu và cơ chế phòng ngừa như thế nào. Học
sinh sẽ rất tò mò về vấn đề này. Giáo viên có thể đề cập vấn đề này trong bài giảng
Khái niệm về pH ( Tiết 5 lớp 11CB) hay ứng dụng của flo (Tiết 43 lớp 10CB)
nhằm giúp cho học sinh có thói quen bảo vệ răng bằng cách đánh răng sau các bửa
ăn.
30. Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, người ta ngửi
thấy mùi khai?

Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu đạm như nước tiểu,
phân hữu cơ, rác thải hữu cơ… thì lượng urê trong các chất hữu cơ này sinh ra
nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, urê bị phân hủy tiếp
thành CO2 và amoniac NH3 theo phản ứng:
(NH2)2CO + H2O → CO2 + 2NH3

NH3 sinh ra hòa tan trong nước sông, hồ dưới dạng một cân bằng động:
NH3 + H2O → NH4+ + OH- ( pH < 7, nhiệt độ thấp)
NH4+ + OH- → NH3 + H2O ( pH > 7, nhiệt độ cao)
Như vậy khi trời nắng ( nhiệt độ cao), NH3 sinh ra do các phản ứng phân hủy urê
chứa trong nước sẽ không hòa tan vào nước mà bị tách ra bay vào không khí làm
cho không khí xung quanh sông, hồ có mùi khai khó chịu.
Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp quanh hồ, ao, nhất là vào mùa khô, nắng
nóng. Giáo viên có thể nêu vấn đề trong bài giảng “Amoniac”( Tiết 12-13 lớp
11CB) hay “phân urê” ( Tiết 18 lớp 11CB) nhằm giải thích hiện tượng tự nhiên
này.
31. Vì sao cồn có khả năng sát khuẩn?
Cồn là dung dịch rượu etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu cao, có thể xuyên
qua màng tế bào đi sâu vào bên trong gây đông tụ protein làm cho tế bào chết.
Thực tế là cồn 75o có khả năng sát trùng là cao nhất. Nếu cồn lớn hơn 75o thì
nồng độ cồn quá cao làm cho protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng nhanh hình
thành lớp vỏ cứng ngăn không cho cồn thắm vào bên trong nên vi khuẩn không
chết. Nếu nồng độ nhỏ hơn 75o thì hiệu quả sát trùng kém.
Áp dụng: Trong y tế việc dùng cồn để sát khuẩn trước khi tiêm và rửa vết thương
trở nên thông dụng. Nhưng để giải thích được vì sao cồn có khả năng sát khuẩn thì
không phải ai cũng giải thích được. Trong bài giảng, nếu học sinh được giáo viên
giải thích thì sẽ rất hứng thú vì hóa học có những ứng dụng rất thực tế và sẽ thêm
yêu hóa học. Giáo viên có thể đề cập ở phần ứng dụng trong bài học



×