Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Phản ứng Haber - Bosch và ảnh hưởng của nó đối với cuộc sống của con người pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.74 KB, 3 trang )

Phản ứng Haber - Bosch và ảnh
hưởng của nó đối với cuộc sống
của con người
Phản ứng Haber - Bosch là một trong những phản ứng nổi tiếng nhất và được áp dụng
rộng rãi trong sản xuất hóa chất công nghiệp. Đây là phản ứng cố định đạm (nitơ) bằng
cách sử dụng xúc tác sắt đơn giản để sản xuất amoniăc và các hợp chất nitơ khác từ các
nguồn nguyên liệu hyđro và nitơ hầu như vô hạn.
Phương pháp sản xuất amoniăc theo phản ứng Haber-Bosch đã được phát triển ở quy mô
công nghiệp từ những năm 1910, ngay trước và trong Chiến tranh Thế giới Thứ I.
Phương pháp này đã phát triển mạnh và nhanh chóng trở thành yếu tố then chốt có ảnh
hưởng quan trọng đối với các diễn biến lớn trên thế giới. Khi Đức tham chiến trong
Chiến tranh Thế giới Thứ I, nước này cần nhiều amoniăc để sản xuất muối nitrat làm
thuốc nổ nên nhu cầu amoniăc tại đây rất cao. Trước chiến tranh, phế thải động vật là
nguồn đạm chủ yếu để làm phân bón, còn nguồn cung nitrat dạng hóa chất phần lớn đến
từ các mỏ diêm tiêu (KNO
3
) tại Chi Lê, chủ yếu do các công ty Anh khai thác và quản lý.
Khi chiến tranh bắt đầu, Anh và Đức đứng ở hai chiến tuyến đối lập nhau nên nguồn
cung ứng hóa chất quan trọng này cho nước Đức bị cắt đứt. Nếu không nhờ có công nghệ
sản xuất amoniăc theo phản ứng Haber-Bosch thì nước Đức quốc xã đã không thể tiếp tục
tham chiến trong cuộc chiến tranh này.
Cũng chính sự phát triển của sản xuất amoniăc công nghiệp còn mang lại một hậu quả
khác: nó dẫn đến sự sụp đổ của ngành khai thác diêm tiêu tại Chi Lê và để lại những
thành phố hoang tàn tại sa mạc Atacama ở phía bắc nước này.
Tuy nhiên, phản ứng Haber-Bosch đã có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển bền
vững của thế giới: giúp sản xuất amoniăc dùng trong sản xuất và cung ứng những loại
phân bón không đắt tiền, cho phép nhiều nông dân ở các nước trên thế giới có thể tăng
sản lượng các loại nông sản cao hơn hẳn so với trước đây.
Ngày nay, amoniăc được sản xuất theo quy trình Haber-Bosch, cũng như các sản phẩm
dẫn xuất của nó là amoni nitrat và urê, lại đang là những hóa chất được buôn bán với khối
lượng lớn nhất trên thế giới. Quy trình sản xuất amoniăc hàng năm đã tiêu thụ đến 5%


sản lượng khí thiên nhiên và khoảng 2% tổng sản lượng năng lượng của thế giới.
Theo ước tính, phân hóa học hiện đang đóng góp khoảng một nửa lượng đạm cho sản
xuất nông nghiệp trên toàn cầu, còn quá trình cố định đạm của các cây họ đậu đóng góp
một nửa lượng đạm còn lại. Điều đó có nghĩa là khoảng một nửa các nguyên tử nitơ
trong cơ thể một người bình thường sống ở các nước trên thế giới hiện nay đã được sản
xuất tại các nhà máy hóa chất và đã từng tham gia vào phản ứng Haber-Bosch!

Sơ đồ quy trình Haber-Bosch trong công nghiệp
Nhưng sự phát minh ra phản ứng Haber-Bosch cũng có những hậu quả bất ngờ khác: nó
góp phần quan trọng gây ra sự bùng nổ dân số trên toàn cầu mà ngày nay con người đang
phải tìm cách kiềm chế. Nhờ phân bón giúp tăng mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm
mà dân số thế giới đã tăng gấp bội trong vòng một thế kỷ qua, từ 1,6 tỉ người năm 1900
lên đến 6,7 tỉ người như ngày nay. Sự gia tăng dân số này và kèm theo nó là sự tiêu thụ
ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên cũng như tạo ra ngày càng nhiều rác thải và chính
đây lại đang là yếu tố lớn ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của sự sống trên Trái
Đất. Mặt khác, tuy người ta có thể trồng trọt và thu hoạch nhiều lương thực hơn để đáp
ứng nhu cầu của dân số cao hơn trên thế giới, nhưng người dân sống ở các khu vực của
Châu Phi và các vùng kém phát triển khác không phải lúc nào cũng có thể tiếp cận được
các nguồn phân bón thích hợp. Điều này đang kéo theo tình trạng phân biệt giầu nghèo
của cư dân các vùng miền trên thế giới ngày càng cách xa nhau.
Đến nay nhiều người cho rằng, không sáng chế nào của con người có ảnh hưởng lớn đối
với cuộc sống trên Trái Đất như phản ứng Haber-Bosch.
Vì những cống hiến to lớn cho nhân loại Fritz Haber đã được traogiải thưởng Nobel
năm 1918 và Carl Bosch đã nhận được 1/2 giải thưởng Nobel năm 1931.

×