Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bảo vệ sức khỏe cá tra nuôi trong mùa mưa pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.43 KB, 10 trang )

Bảo vệ sức khỏe cá tra nuôi trong
mùa mưa

Trong thời gian gần đây, hầu như tất cả các vùng nuôi cá
tra ở Đồng bằng sông Cửu Long đều đã xuất hiện những
loại bệnh phổ biến như xuất huyết, bệnh gan-thận mủ, bệnh
gạo, trắng mang, trắng gan đã gây tổn thất rất lớn cho nghề
nuôi. Có những vùng nuôi tỷ lệ cá tra nhiễm bệnh gần như
tới 100%. Nguyên nhân cá nhiễm bệnh thì có nhiều như do
cá bị nhiễm khuẩn hoặc bị các loài ký sinh trùng giáp xác
ký sinh và nấm gây hại; do chế độ dinh dưỡng cho cá
không cân đối…. khi gặp chất lượng nước ao không tốt
hoặc vùng nuôi bị ô nhiễm sẽ thuận lợi gây bệnh và lây lan
thành dịch bệnh, đặc biệt là chất lượng cá tra giống đã và
đang có xu hướng giảm rất nhiều so với trước đây do thoái
hóa. Công tác phòng trị bệnh gặp nhiều khó khăn do người
nuôi thả mật độ ương và nuôi quá cao nên bệnh thường xảy
ra nhanh và lây lan trên diện rộng. Dịch bệnh đã ảnh hưởng
rất lớn đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế của người
nuôi. Mùa mưa ở vùng ĐBSCL đã đến, đây là khoảng thời
gian có biến động rất lớn về môi trường, nhất là chất lượng
nước, là cơ hội/ tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh phát
sinh. Phòng và điều trị bệnh đúng cách sẽ góp phần giảm
chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả nuôi.
* Đối với những bệnh nhiễm khuẩn:
- Đối với bệnh gan, thận có mủ: tuyệt đối không dùng các
loại kháng sinh trong danh mục cấm, nên dùng thuốc
Florfenicol để trị với liều lượng 100 - 120g/ tấn thức ăn (tốt
nhất nên theo chỉ định của nhà sản xuất). Sử dụng thuốc
này từ 3-5 ngày sẽ cho hiệu quả tốt, cá sẽ hồi phục nhưng
với điều kiện người nuôi phải duy trì khâu vệ sinh diệt


mầm bệnh trong khu vực nuôi, quản lý chất lượng nước tốt
và tăng cường dinh dưỡng tốt cho thủy sản nuôi.
- Bệnh vàng da, thường xuất hiện cao điểm vào mùa mưa
và các tháng trời lạnh. Phòng bệnh: người nuôi nên cho cá
ăn bằng thức ăn công nghiệp đảm bảo chất lượng và phải
có hệ thống sục khí đáy ao thích hợp để bổ sung oxy và đẩy
khí độc từ đáy ao lên. Việc quản lý môi trường nuôi tốt
bằng cách thường xuyên kiểm tra chất lượng nước, loại bỏ
khí độc nitric (NO2) và amoniac (NH3) ở đáy ao thông qua
việc sử dụng các chế phẩm sinh học sẽ hạn chế được bệnh
vàng da trên cá.
- Ngoài bệnh gan, thận có mủ, bệnh vàng da…trongthời
gian gần đây,các ao nuôi cá tra ở ĐBSCL nói chung và
Vĩnh Long nói riêng đã xuất hiện phổ biến hiện tượng
cá tra có những nang “gạo” lấm tấm trong cơ thể cá ở
nhiều dạng khác nhau và được phát hiện khi mổ cá để quan
sát nên gọi đây là bệnh “gạo”. Bệnh này tuy mới xuất hiện
nhưng đã gây nhiều thiệt hại về kinh tế cho người nuôi cá
tra, khiến cho không ít người nuôi lo ngại và mất ăn mất
ngủ vì chúng. Khi ao cá bị nhiễm bệnh nặng có thể lây lan
rất nhanh, tuy tỉ lệ cá nhiễm bệnh chết không cao, nhưng cá
bệnh sẽ kém ăn, làm giảm năng suất và chất lượng thịt, do
đó các nhà máy chế biến thủy sản từ chối mua hoặc hạ
phẩm cấp chất lượng cá để mua giá rất thấp.
+ Cách xử lý: mổ khám cá ngay khi nhận thấy có biểu hiện
bất thường; khi phát hiện bệnh trong ao phải cách ly ao
hoàn toàn, khử trùng toàn bộ dụng cụ nuôi và xử lý triệt để
xác cá chết trong quá trình nuôi (vớt hết cá bệnh, cá chết
khỏi ao xử lý bằng cách nấu chín hay chôn hủy, không vứt
xác cá ra nguồn nước vì bào tử sẽ phóng thích và lây nhiễm

sang các ao khác); tẩy cho toàn đàn bằng các hoạt chất có
tác dụng trên nguyên sinh động vật gây bệnh như
Toltrazuril hay các dẫn xuất của Benzimidazol,
Mebendazole, Febendazol…
+ Vào những ngày trời mưa dầm, nhiệt độ giảm thì cần
thiết giảm lượng cho ăn và cho cá ăn vào thời điểm nhiệt
độ nước ao có sự cân bằng giữa tầng mặt và tầng đáy (lúc
trời đứng bóng về chiều). Khi hút bùn đáy ao xong, cần xử
lý nền đáy và xử lý cho nước ao trong trở lại mới cho ăn,
bởi vì nếu cá phải sống và bắt mồi ở vùng có tích tụ nhiều
chất thải và khí độc thì dễ xảy ra hiện tượng cá mất đi hứng
thú bắt mồi. Bên cạnh đó, nếu cá bắt mồi trong vùng nước
nhiễm bẩn, cũng sẽ tạo điều kiện cho tác nhân gây bệnh
xâm nhập vào nội tạng
* Đối với bệnh do ký sinh trùng: vào giai đoạn này, nhiệt
độ môi trường thường xuyên xuống thấp (nhất là những
ngày mưa kéo dài) là yếu tố tạo điều kiện cho các dạng
bệnh ký sinh trùng trên cá nuôi (đặc biệt là bệnh ngoại ký
sinh) như: trùng bánh xe, trùng mỏ neo, trùng quả dưa…
phát sinh. Với xu hướng hạn chế ô nhiễm môi trường do sử
dụng các hoá chất độc hại, thì việc dùng muối ăn (NaCl) và
vôi nông nghiệp (CaCO3) để phòng ngừa các bệnh này cho
cá nuôi trong mùa mưa nên người nuôi được khuyên sử
dụng. Nếu phát hiện cá có biểu hiện giảm ăn, nhào lộn dữ
dội, trên da và mang có nhiều nhớt, chết với số lượng ít và
tăng không đáng kể thì thực hiện treo vôi và muối liên tục
trong 3 ngày. Đối với mô hình nuôi ao hầm thì mỗi ngày
còn phải thay 10-15% thể tích nước trong ao.
- Ngoài ra, nên sử dụng thêm lá xoan, dây giác, cỏ mực
đập dập rồi bọc lại bằng lưới cước treo ở đầu bè hoặc ở chỗ

cho ăn với liều lượng 5-10kg/mỗi lần treo sẽ nâng cao hiệu
quả phòng ngừa các bệnh ngoại ký sinh trên cá trong mùa
mưa lũ.
Mặc dù hiện nay chưa có thuốc đặc trị, nhưng dựa trên
nguyên lý và cơ chế phát sinh bệnh thủy sản nói chung,
người nuôi vẫn có thể giảm thiểu tác nhân gây bệnh và thiệt
hại do hội chứng « trắng gan, trắng mang » gây ra và các
bệnh nêu trên bằng các biện pháp tổng hợp sau đây:
1. Cải tạo môi trường nuôi:
- Tẩy dọn ao thật kỹ trước khi ương nuôi: nạo vét kỹ bùn
dưới đáy ao, tu sửa lại bờ mương, dọn sạch cỏ rác, phơi đáy
ao, sau đó dùng các loại hóa chất để tẩy dọn nhằm diệt địch
hại và sinh vật là ký chủ trung gian, sinh vật cạnh tranh
thức ăn của tôm cá như các loài cá dữ, cá tạp, giáp xác, côn
trùng, nòng nọc, sinh vật đáy; diệt các sinh vật gây bệnh
cho cá như : vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào và các loại ký sinh
trùng.
+ Dùng vôi để sát khuẩn: vôi sống, vôi bột hoặc vôi tôi,
liều lượng: 10-15kg/100m2 định kỳ có thể rắc vôi 2 tuần/
lần :10-20g/m3 nước, treo túi vôi ở bè nuôi: 2-
4kg/10m3 bè.
+ Dùng Clorua vôi (Ca(OCl )2) tẩy ao, sát trùng dụng cụ
nuôi, liều lượng: 50ppm (50g/m3), ngâm dụng cụ qua đêm
nồng độ: 200-220ppm.
2. Tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh:
- Tiến hành kiểm dịch giống trước khi vận chuyển, dùng
các biện pháp xử lý để tránh mang mầm bệnh từ nơi này
sang nơi khác .
- Sát trùng cơ thể cá: mặc dù ao đã tẩy dọn kỹ, nhưng cá
giống có thể mang mầm bệnh vào ao hồ, nên sau khi kiểm

dịch, tùy theo kết quả mà chọn:
+ Tắm cá: CuSO4 5H2O (phèn xanh) 2-5ppm/ 5-15
phút; Muối ăn NaCl 3-5%/ 3-5 phút; Formalin 200-300
ppm/ 15-20 phút
+ Phun xuống ao 1 trong các loại hóa chất trên , nồng độ
giảm đi 10 lần.
- Sát trùng nơi cá đến ăn: nơi cho cá ăn thường chứa thức
ăn bị thừa, thối rửa gây nhiễm bẩn tạo điều kiện cho sinh
vật gây bệnh phát triển. Do đó, nên vớt bỏ thức ăn thừa,
rửa sạch sàng ăn, thường xuyên khử trùng địa điểm cho ăn.
Loại thuốc, liều dùng tùy thuộc vào chất nước, nhiệt độ và
mực nước trong ao. Tốt nhất dùng vôi nung hoặc clorua vôi
treo 2-3 túi xung quanh chỗ ăn để tẩy trùng. Liều lượng: 2-
4kg/túi vôi nung, 100-200g/ túi Clorua vôi.
- Sát trùng dụng cụ: dùng dung dịch Ca(OCl)2 200ppm để
ngâm ít nhất 1 giờ và rửa sạch mới dùng. Nên dùng dụng
cụ riêng biệt từng ao, nếu thiếu sau khi sử dụng phải có
biện pháp khử trùng trước khi dùng cho ao khác.
- Dùng thuốc phòng ngừa trước mùa phát triển bệnh: sử
dụng các loại sản phẩm có tác động đến sự phục hồi hoạt
động của thận, tỳ tạng, gan, gia tăng mật số huyết sắc tố
trong máu để đảm bảo chức năng vận chuyển và trao đổi
oxy.
3. Tăng sức đề kháng của cơ thể động vật thủy sản nuôi:
- Nên mua con giống để ương và nuôi có nguồn gốc bố mẹ
rõ ràng, tốt nhất là nên sử dụng con giống đã được chọn lọc
có chất lượng cao ở các Trung tâm giống thủy sản và các
cơ sở ương có uy tín.
- Định kỳ bổ sung Vitamin C để tăng sức đề kháng cho vật
nuôi, nhất là vào thời điểm giao mùa.

4. Cải tiến kỹ thuật ương nuôi:
- Không nên ương, nuôi mật độ quá dày: mật độ ương từ cá
bột lên cá hương từ 300 - 400 con/m2; cá hương lên cá
giống từ 100 – 150 con/m2, mật độ nuôi thương phẩm từ
25 - 30 con/m2
- Cho cá ăn đảm bảo chất và số lượng theo giai đoạn phát
triển, lúc cá có dấu hiệu bệnh nên giảm lượng thức ăn;
- Quản lý chất lượng nước trong ao ương và nuôi thật tốt,
tránh để xảy ra hiện tượng các yếu tố thủy lý hóa biến động
lớn và ao nhiễm bẩn trong quá trình sản xuất;
- Sử dụng hóa chất và kháng sinh phải tuân thủ theo qui
định, sử dụng kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm khuẩn
phải đúng theo hướng dẫn của chuyên môn kỹ thuật, tuyệt
đối không sử dụng các sản phẩm có chứa hoạt chất
Trifluralin trong quá trình nuôi với bất kỳ mục đích sử
dụng nào; Định kỳ 10 -15 ngày sử dụng muối và vôi để sát
khuẩn cho cá.
Ngoài ra, việc tăng cường sử dụng các chế phẩm sinh học
và các loại thuốc có nguồn gốc thảo dược để cải thiện chất
lượng nước, nâng cao sức đề kháng vật nuôi, gia tăng sự
chuyển hóa hấp thu thức ăn của vật nuôi sẽ góp phần giảm
thiểu dịch bệnh, chất lượng sản phẩm đảm bảo an toàn và
giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Đây cũng chính là
xu hướng sử dụng sản phẩm thủy sản của các thị trường
nhập khẩu cá tra hiện nay mà người nuôi cần đặc biệt quan
tâm.

Th.s Phạm Thị Thu Hồng – CHI CỤC THỦY SẢN Vĩnh
Long



×