Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Viêm ruột thừa pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.21 KB, 6 trang )

Viêm
ruột
thừa
Viết bởi Y học NET
Thứ ba, 08 Tháng 7 2008 01:00

Ruột thừa là một túi có hình ống hẹp dính vào với ruột. Khi ruột thừa bị tắc nghẽn, nó sẽ trở
nên viêm và dẫn đến viêm ruột thừa. Nếu sự tắc nghẽn vẫn tiếp tục diễn ra, các mô viêm sẽ
nhiễm trùng và bắt đầu chết đi do thiếu máu và cuối cùng dẫn đến vỡ ruột thừa.
Viêm ruột thừa là một bệnh hay gặp ở khoảng 6% dân số. Thường gặp nhất ở độ tuổi từ 10
đến 30 tuổi, nhưng nó có thể xuất hiện ở bất kỳ lứa tuổi nào. Gia tăng cảnh giác để có thể
nhận biết và điều trị kịp thời những trường hợp viêm ruột thừa ở những người già và trẻ em là
rất cần thiết vì đó là những người có tỷ lệ bị biến chứng cao.

NGUYÊN NHÂN
Hiện vẫn chưa có nguyên nhân rõ ràng của viêm ruột thừa. Người ta nghĩ rằng những chất thải
từ hệ tiêu hóa có thể là nguyên nhân gây tắc nghẽn. Viêm ruột thừa không di truyền và không
lây nhiễm từ người này sang người khác được.

TRIỆU CHỨNG
Viêm ruột thừa thường bắt đầu bằng một cơn đau mơ hồ ở giữa bụng, xung quanh rốn. Cơn
đau di chuyển dần đến phần bụng dưới bên phải (phía trên hông phải) sau 24 giờ. Theo những
mô tả cổ điển, cơn đau bụng của viêm ruột thừa thường đi kèm với nôn ói, chán ăn và sốt. Tuy
nhiên, hơn phân nửa những người bị viêm ruột thừa không bị tất cả những triệu chứng trên
cùng một lúc. Những trường hợp thường gặp hơn là sự kết hợp của một vài trong số các triệu
chứng trên.
• Cần phải mất từ 4 - 48 giờ để các triệu chứng của viêm ruột thừa tiến triển. Trong thời
gian này, bệnh nhân có thể sẽ bị chán ăn, nôn ói và đau bụng theo những mức độ khác
nhau. Một số người có thể bị táo bón, tiêu chảy.
• Những triệu chứng sớm của viêm ruột thừa thường khó phân biệt được với những
bệnh khác như viêm dạ dày-ruột. Nhiều bệnh nhân đến bệnh viện với dự đoán là mình


bị viêm ruột thừa nhưng lại xuất viện với chẩn đoán là viêm dạ dày-ruột. Viêm ruột
thừa thật sự thường hay bị chẩn đoán nhầm với viêm dạ dày-ruột ở giai đoạn đầu của
bệnh.
• Trẻ em và người già thường có ít triệu chứng hơn gây khó chẩn đoán hơn nên tỷ lệ các
biến chứng cũng cao hơn.

KHI NÀO CẦN ĐẾN SỰ CAN THIỆP
CỦA Y HỌC
Gọi cho bác sĩ nếu như bạn bị đau bụng dưới ở giữa hoặc bên phải cấp kèm với sốt và nôn ói.
Nếu đau bụng kéo dài hơn 4 giờ, cần phải đến phòng cấp cứu để được đánh giá ngay lập tức.

LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
• Xét nghiệm: không cần phải xét nghiệm máu để xác định chẩn đoán viêm ruột thừa,
tuy nhiên, một mẫu máu sẽ được gửi đến phòng xét nghiệm để phân tích đếm số lượng
bạch cầu có trong máu. Số lượng bạch cầu thường tăng đơn độc trong trường hợp này.
Tuy nhiên, vẫn có thể gặp trường hợp số lượng bạch cầu ở giới hạn bình thường và
tăng số lượng bạch cầu cũng có thể gặp ở một số bệnh khác. Có thể bạn sẽ được thử
nước tiểu để tìm xem có nhiễm trùng đường niệu hay không (hoặc bạn có thai hay
không, nếu là phụ nữ), đây cũng có thể là những nguyên nhân gây đau bụng.
• Chẩn đoán hình ảnh: viêm ruột thừa được chẩn đoán dựa trên những triệu chứng cổ
điển và khám lâm sàng. Tuy nhiên, những phương tiện chẩn đoán hình ảnh sẽ được sử
dụng nếu như chẩn đoán vẫn chưa được chắc chắn. Thường bạn sẽ được chụp CT scan
vùng bụng và vùng chậu để đánh giá xem cơn đau có phải là do viêm ruột thừa gây ra
hay không. Siêu âm có thể được dùng để đánh giá trên trẻ em.

ĐIỀU TRỊ
Tại nhà
Không được điều trị tại nhà, nếu như nghi ngờ, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc đến ngay phòng
cấp cứu. Tránh ăn hay uống nước vì điều này có thể làm cuộc mổ trở nên phức tạp hơn, hoặc
có thể phải hoãn cuộc mổ lại. Nếu bạn đang khát, hãy rửa miệng qua bằng nước. Không uống

thuốc xổ, kháng sinh, hoặc thuốc giảm đau, vì chúng có thể làm chậm trễ chẩn đoán và có thể
gây vỡ ruột thừa hoặc gây ra những dấu hiệu giả, làm bác sĩ chẩn đoán khó khăn hơn.
Phẫu thuật
Phương pháp điều trị viêm ruột thừa tốt nhất là cắt bỏ ruột thừa trước khi nó bị vỡ hoặc thủng.
Trong khi chờ đợi được phẫu thuật, có thể bạn sẽ được truyền dịch để tránh mất nước. Bạn
không được phép ăn hoặc uống vì như vậy sẽ làm cho việc gây mê trong phẫu thuật trở nên
khó khăn, phức tạp hơn.
Thường bạn sẽ được phẫu thuật qua nội soi (đưa một camera vào ổ bụng qua một vết cắt nhỏ
ở thành bụng). Tuy nhiên, ở một vài trường hợp, có thể các bác sĩ sẽ phải mở bụng để có thể
lấy ruột thừa ra.

NHỮNG BƯỚC TIẾP THEO
Sau phẫu thuật, nếu mọi chuyện đều ổn, bạn có thể sẽ dần dần phục hồi với chế độ ăn bình
thường và không được hoạt động thể lực trong ít nhất từ 2 đến 4 tuần. Bác sĩ sẽ phải kiểm tra
vết mổ trong 1 tuần kế tiếp để xem có bị nhiễm trùng hay không.
Phòng ngừa
Không có cách nào để tiên đoán xem viêm ruột thừa sẽ xảy ra lúc nào do đó cũng không có
cách phòng ngừa.
Tiên lượng
Với những trường hợp viêm ruột thừa không có biến chứng, hầu hết các bệnh nhân sẽ hồi
phục mà không để lại hậu quả lâu dài nào.
Nếu bị vỡ ruột thừa thì nguy cơ bị biến chứng cao lên gấp 10 lần, trong đó có cả tử vong.
Nguy cơ cũng gia tăng ở những bệnh nhân còn nhỏ hoặc quá già và những người đã bị suy
yếu hệ miễn dịch, bao gồm cả những bệnh nhân bị đái tháo đường.
Theo emedicinehealth - Y học NET dịch
**********
Đau
bụng
Thứ ba, 19 Tháng 8 2008 01:00
Chỉ mục bài viết

Đau bụng
Nguyên nhân
Triệu chứng
Khi nào cần đến sự can thiệp y khoa
Lâm sàng và Cận lâm sàng
Điều trị
Các bước tiếp theo
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 7 trang.
Các cơn đau bụng có thể có nhiều cường độ khác nhau, có thể chỉ là một cơn đau dạ dày nhẹ
cho đến một cơn đau cấp tính nặng nề. Cơn đau thường không đặc hiệu và có thể do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Có nhiều cơ quan bên trong ổ bụng. Đôi khi, cơn đau liên quan trực
tiếp đến một cơ quan nào đó, chẳng hạn như bàng quang hay buồng trứng. Các cơn đau cũng
thường có nguồn gốc từ hệ tiêu hóa. Chẳng hạn như có thể nguyên nhân cơn đau là do viêm
ruột thừa, cơn co thắt do tiêu chảy, hoặc do ngộ độc thức ăn.
Kiểu đau và vị trí đau có thể giúp cho bác sĩ tìm ra được nguyên nhân. Cũng cần phải tính đến
cường độ và thời gian kéo dài của cơn đau khi xác định chẩn đoán. Một số tính chất chung
của đau bụng là:
• Cơn đau có thể là đau nhói, đau âm ỉ, đau như bị dao đâm, co thắt, đau như bị xoắn
vặn, đau như bị xuyên thủng và một số kiểu đau khác.
• Cơn đau có thể thoáng qua, kéo dài trong ít phút, hoặc trong vòng vài giờ hay lâu hơn.
Đôi khi, cường độ của cơn đau có thể tăng và giảm xen kẽ nhau trong một khoảng thời
gian nào đó.
• Đôi khi cơn đau có thể mạnh đến mức làm người bệnh lăn lộn mà không có cách làm
giảm đau. Cũng có lúc cơn đau có thể giảm đi sau khi nôn.
• Cơn đau có thể làm bệnh nhân muốn ở một chỗ và không cử động cơ. Hoặc cơn đau
làm cho bệnh nhân bồn chồn, không yên, cố gắng thay đổi tư thế để tìm tư thế tốt nhất
để giảm đau.
Các bác sĩ sẽ cố gắng tìm ra xem cơn đau xuất phát từ vị trí nào của bụng trong lúc xác định
nguyên nhân của cơn đau bằng cách gợi ra một số câu hỏi như : "- Bạn bắt đầu thấy đau vào

lúc nào ? Bạn thấy đau lần đầu tiên ở đâu?" - và khám bụng. Bác sĩ cũng có thể ấn nhẹ vào
một số khu vực nhất định để tìm cảm giác đau, hoặc gõ và một số khu vực nhất đinh để xác
định kích thước và vị trí chính xác của các tạng trong ổ bụng.
Khi bạn bắt đầu được hỏi những câu đại loại như: "Bạn đau âm ỉ hay đau nhói?", "Cơn đau
kéo dài trong bao lâu?" và "Bạn có bị ói không?" là lúc bác sĩ đang muốn khu trú lại những
nguyên nhân khả dĩ gây ra cơn đau của bạn.
Khi quá trình hỏi bệnh và thăm khám kết thúc, bác sĩ sẽ đưa ra chẩn đoán và lời khuyên bệnh
nhân về những bước tiếp theo cần làm, hoặc cho bệnh nhân làm xét nghiệm máu, cũng có thể
chụp X-quang và những phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác để xác định nguyên nhân của
cơn đau.
Nôn và buồn nôn không phải là một bệnh mà là một triệu chứng thường gặp của nhiều bệnh
khác nhau. Vấn đề của chúng bắt nguồn từ các bệnh nguyên nhân. Nôn và buồn nôn có thể là
do say tàu xe hoặc say sóng, hoặc do điều trị ung thư gây mất nước và các chất điện giải. Nôn
và buồn nôn còn được biết đến dưới dạng những triệu chứng của ốm nghén ở những phụ nữ
có thai.
• Buồn nôn là cảm giác khó chịu rõ ràng ở cổ họng và dạ dày có thể dẫn đến nôn, nó là
tín hiệu được gửi từ não để báo động cho bạn biết rằng cơ thể mình đang có gì đó
không ổn.
• Nôn là hành động làm trống dạ dày bằng những cơn co thắt mạnh để tống xuất những
chất có trong dạ dày ra ngoài qua đường miệng. Nôn có thể dưới dạng những đợt sóng
tương tự như những chuyển động tự nhiên của ruột (nhu động ruột) nhưng theo chiều
ngược lại, và những co thắt không tự chủ của thành dạ dày và thực quản sẽ tống xuất
những chất có trong dạ dày ra ngoài. Đôi khi ho hoặc khạc đàm từ phổi ra ngoài dễ bị
lầm với nôn. Chỉ được gọi là nôn khi nó xuất phát từ dạ dày.
• Ọe là những co thắt của dạ dày và thực quản những không nôn các chất ra ngoài. Đôi
khi người ta gọi hiện tượng này là nôn khan.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×