Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Động vật không xương sống ( phần 6 ) Sinh sản và phát triển của động vật da gai pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.85 KB, 6 trang )

Động vật không xương sống ( phần 6 )
Sinh sản và phát triển của động vật da gai
Thụ tinh trong nước biển, trứng phân cắt hoàn toàn, phóng xạ và xác
định.
Lấy cầu gai làm ví dụ: Ở giai đoạn 8 phôi bào, các phôi bào ở cực sinh
học và cực dinh dưỡng đều giống nhau về kích thước, nhưng ở giai đoạn
16 phôi bào các phôi bào đã phân hoá và là mầm của các phần khác nhau
của cơ thể sau này (8 phôi bào ở cực sinh học là mầm của lá phôi ngoài,
còn 4 phôi bào lớn ở cực dinh dưỡng là mầm lá phôi trong và 4 phôi bào
nhỏ ở cực dinh dưỡng sẽ cho nhu mô của ấu trùng).
Trứng của một số động vật da gai khác phân cắt hoàn toàn và đều. Phôi vị
được hình thành bằng cách lõm vào, trong quá trình hình thành phôi vị,
nhu mô của ấu trùng từ 4 phôi bào nhỏ ở cực dinh dưỡng phân chia và
tách thành các phôi bào vào phôi nang. Các tế bào này là mầm bộ xương
của cơ thể sau này. Lá phôi giữa được hình thành theo kiểu lõm ruột,
nghĩa là đáy của xoang ruột nguyên thuỷ phân hoá thành một túi và túi
này sớm tách thành 2 phần ở 2 bên để hình thành nên lá phôi giữa từ thể
xoang chính thức. Song song với quá trình hình thành thể xoang
ở bên trong, miệng phôi bịt lại rồi lá phôi ngoài lại lõm vào đúng
vị trí đó, thông với xoang ruột nguyên thuỷ để hình thành hậu môn. Ở
vị trí đối diện lá phôi ngoài lõm vào thông với phần đáy của xoang ruột
nguyên thuỷ để hình thành lỗ miệng. Như vậy miệng của động vật da gai
trưởng thành là miệng thứ sinh (deuterostomia) không trùng với miệng
phôi.

Quá trình phôi vị hoá ở động vật da gai cho thấy ống tiêu hoá sớm chia
thành 3 phần là ruột trước, ruột giữa và ruột sau. Có miệng và hậu môn
nằm ở mặt bụng. Miệng là phần đáy của một hốc lõm và có vành tiêm
mao bao quanh. Hai bên ông tiêu hoá có đôi túi thể xoang chính thức. Ấu
trùng của tất cả động vật da gai ở giai đoạn này có đối xứng hai bên, gọi
là ấu trùng dipleurula (ấu trùng đối xứng hai bên). Hai túi thể xoang sau


đó sẽ chia thành 3 đôi túi thể xoang là đôi túi trước, đôi túi giữa và đôi túi
sau. Quá trình biến đổi tiếp theo của 3 đôi túi thay đổi theo từng nhóm về
chi tiết: Đôi túi sau sẽ biến đổi thành phần chính của thể xoang. Túi giữa
phải và đôi khi cả túi trước phải bị tiêu biến. Túi trước trái hình thành
phức hợp cơ quan trụ, túi trái giữa hình thành phần còn lại của hệ thống
dẫn nước.
Từ ấu trùng dipleurula là dạng chung của tất cả động vật da gai, sẽ hình
thành các dạng ấu trùng đặc trưng cho mỗi nhóm, sai khác nhau chủ yếu
là mức độ phát triển và hình thành của vành tiêm mao và các nhánh trên
cơ thể. Ấu trùng của Cầu gai là Echinopluteus, của Đuôi rắn là
Ophiopluteus, của Sao biển là Bipinaria và của Hải sâm là Auricularia.
Đáng chú ý là cầu gai và đuôi rắn trưởng thành chỉ được hình thành từ
một phần của ấu trùng, phần còn lại không tham gia biến đổi (giống như
sự phát triển của giun vòi).


Đặc điểm cá hệ cơ quan của Da gai
Hệ tuần hoàn và hệ xoang máu giả: Cùng với hệ ống dẫn nước, hệ tuần
hoàn và hệ xoang máu giả là đặc điểm rất đặc trưng của động vật da gai.
Điển hình có vòng tuần hoàn quanh miệng, có 5 ống tuần hoàn phóng xạ.
Ngoài ra có vòng tuần hoàn đối miệng và cấc ống tuần hoàn đi vào tuyến
sinh dục.
Vòng quanh miệng và vòng đối miệng nối với nhau bằng phức hệ cơ
quan trụ. Lưu ý rằng ở động vật da gai không có mạch máu mà chỉ
khe xoang, do vậy hoạt động tuần hoàn thực sự không có. Hệ
xoang máu giả là một bộ phận của thể xoang, bao gồm vòng máu giả
quanh miệng, các ống máu giả đi vào các vùng phóng xạ. Chức phận của
hệ máu giả là nuôi dưỡng hệ thần kinh. Dùng thức ăn có đánh dấu
bằng 14C, có thể theo dõi đường đi của thức ăn từ ống tiêu hoá đến hệ
máu giả và cuối cùng đến hệ sinh dục.


Phức hệ cơ quan trụ là cơ quan đặc trưng ở động vật da gai, phát triển
mạnh nhất ở các lớp Sao biển, Cầu gai, Đuôi rắn, nhưng không có ở Hải
sâm, Huệ biển. Cấu tạo gồm có các bô phận là các ống dẫn nước hình trụ
chạy dọc có cấu tạo xốp, có khả năng tạo ra các tế bào amip, tham gia bài
tiết và các tấm sàng có khả năng lọc nước.
Hệ thần kinh có 3 bộ phận khác nhau, cấu tạo đối xứng toả tròn: 1) Bộ
phận chủ yếu là mạng thần kinh miệng hay là hệ thần kinh ngoài
(ectoneural system) nằm ở mặt miệng. Gồm có vòng thần kinh trung tâm
bao quanh hầu, thực quản và các dây thần kinh phóng xạ nằm ở lớp biểu
mô. Từ các dây phóng xạ có 2 dây thần kinh đi tới nội quan, chức năng
chủ yếu là thụ cảm. 2) Mạng thần kinh dưới da (hyponeural system) nằm
phía dưới mạng thần kinh miệng, kém phát triển, điều khiển vận
động của nội quan. 3) Mạng thần kinh đối miệng hay mạng thần kinh
trong (entoneural system) có mối liên với biểu mô thể xoang.

Cơ quan cảm giác nhìn chung kém phát triển. Cơ quan thị giác và thăng
bằng chuyên hoá ở dạng đơn giản. Bên cạnh đó có các tế bào cảm giác
như xúc giác, khứu giác và vị giác nằm rải rác ở chân ống, tua miệng
Nhìn chung hệ thần kinh của động vật da gai còn giữ nhiều nét
cổ, thể hiện mạng thần kinh miệng và mạng thần kinh dưới da còn nằm
trong biểu mô hay nằm ngay dưới biểu mô. Xu hướng tập trung tế bào
thần kinh thành hạch không rõ.
Chỉ có động vật da gai mới có mô liên kết biến đổi hay được gọi là mô
gom (catch tisue). Đặc tính của mô này là khi bị kích thước thì chúng
thoắt cứng hay thoắt mềm. Khả năng biến đổi nhanh chóng này giúp cho
động vật da gai có thể bắt mồi, di chuyển và tự cắt phần cơ thể để thoát
thân khi bị kẻ thù tấn công.
Động vật da gai có hệ hô hấp phát triển yếu hay thiếu, chức phận trao đổi
khí được tiến hành qua da, nhất là qua thành chân ống hay qua "mang" (là

các túi trên các tay thực chất là biến đổi của các phần xoang cơ thể), phổi
hình búi như ở lớp Hải sâm.
Cơ quan tiêu hoá không có đối xứng toả tròn, ống tiêu hoá dài, uốn khúc,
được dính vào thành cơ thể nhờ các màng treo ruột. Do lối ăn khác nhau
nên cấu tạo ống tiêu hoá khác nhau. Ví dụ như ở các lớp Hải sâm, Cầu
gai, Huệ biển có hầu, còn ở các lớp Đuôi rắn và Sao biển không có hầu. Ở
Đuôi rắn không có cả ruột sau và hậu môn.
Động vật da gai không có cơ quan bài tiết. Sự bài tiết chủ yếu do các tế
bào amip trong xoang cơ thể đảm nhận.
Hệ sinh dục cấu tạo khá đơn giản, các tuyến sinh dục thường xếp đối
xứng toả tròn hay hình ống dài như ở lớp Hải sâm. Động vật da gai có
khả năng tái sinh cao, một nửa cơ thể của lớp Hải sâm hay Đuôi rắn hay
thậm chí một cánh tay của lớp Sao biển cũng có thể tái sinh cho một cá
thể. Khả năng này này ở các lớp Cầu gai và Huệ biển thì ít hơn.


×