Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Dinh dưỡng cho người bệnh mạch vành pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.79 KB, 5 trang )

Dinh dưỡng cho người
bệnh mạch vành





Bệnh tim do mạch vành (Coronary Heart Disease CHD) là vấn đề sức
khỏe cộng đồng quan trọng ở các nước phát triển, chiếm hàng đầu trong các
nguyên nhân gây tử vong.
Theo sự hiểu biết hiện nay ba yếu tố nguy cơ đã được xác định, đó là
hút thuốc lá, tăng huyết áp và hàm lượng cholesterol trong máu cao. Các
nguy cơ tăng dần theo tuổi ở nữ (trước khi mãn kinh) thấp hơn ở nam.
Hút thuốc lá
Tất cả các Hội đồng chuyên viên đều xác nhận hút thuốc lá là yếu tố
nguy cơ hàng đầu đối với bệnh mạch vành. Người ta thấy hút thuốc lá không
những gây tốn thương màng trong các động mạch mà còn sinh ra chất
nicotin gây tăng nhịp tim và huyết áp, tăng nhu cầu oxy của các cơ tim. Các
oxy cacbon do hút thuốc lá sinh ra làm giảm khả năng vận chuyển oxy của
máu.
Hơn thế nữa, hút thuốc lá còn là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăng
độ kết dính của tiểu cầu và làm giảm các lipoprotein có tỷ trọng cao (HDL:
High Density Lipoprotein).
Yếu tố dinh dưỡng được quan tâm đến khi người ta nhận thấy nhiều ở
vùng Địa Trung Hải như: Ý, Hy Lạp là vùng nghiện thuốc lá nặng nhưng tỷ
lệ mắc bệnh mạch vành không tăng. Nhiều tác giả cho rằng đó là do lượng
rau và trái cây trong khẩu phần ở các nước này thường cao.
Cholesterol máu
Cholesterol là một chất sinh học có nhiều chức phận quan trọng, một
phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần do thức ăn cung cấp.
Lượng cholesterol trong khẩu phần có ảnh hưởng đến cholesterol toàn


phần trong huyết thanh, tuy ảnh hưởng này ít hơn ảnh hưởng của các acid
béo no. Do cholesterol trong chế độ ăn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạch
vành nên hầu hết các ủy ban chuyên viên quốc tế đều khuyên lượng
cholesterol trong chế độ ăn trung bình nên dưới 300mg/ngày/người.
Cholesterol chỉ có trong các thức ăn nguồn gốc động vật, nhất là não
(2500mg%), bầu dục (5000mg%), tim (2100mg%), lòng đỏ trứng
(2000mg%), do đó hạn chế các thức ăn này góp phần giảm lượng cholesterol
trong khẩu phần.
Lòng đỏ trứng có nhiều cholesterol nhưng đồng thời có nhiều lexitin
là một chất điều hòa chuyển hóa cholesterol trong cơ thể. Do đó ở những
người có cholesterol máu cao không nhất thiết kiêng hẳn trứng mà chỉ nên
ăn trứng mỗi tuần 1-2 lần và nên uống thêm sữa.
Người ta thấy thành phần chính trong chế độ ăn có ảnh hưởng đến
hàm lượng cholesterol huyết thanh là các acid béo no. Nghiên cứu nổi tiếng
của Keys và cộng sự trên 7 nước sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho
thấy mức cholesterol huyết thanh liên quan ít với tổng số chất béo mà liên
quan chặt chẽ với lượng các acid béo no.
Qua 10 năm theo dõi nhận thấy tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành tăng
lên một cách có ý nghĩa theo mức tăng của các acid béo no trong khẩu phần.
Acid béo no có nhiều trong các chất béo động vật, còn các loại dầu thực vật
nói chung giàu acid béo không no. Do đó một chế độ ăn giảm chất béo động
vật, tăng dầu thực vật, bớt ăn thịt, tăng ăn cá là có lợi cho người có rối loạn
chuyển hóa cholesterol.
Người ta nhận thấy các acid béo no làm tăng các lipoprotein có tỷ
trọng thấp (LDL) vận chuyển cholesterol từ máu tới các tổ chức và có thể
tích lũy ở thành động mạch. Ngược lại các acid béo không no làm tăng
lipoproteìn có tỷ trọng cao (High Density Lipoprotein - HDL) vận chuyển
cholesterol từ các mô đến gan để thoái hóa.
Chế độ ăn nhiều rau và trái cây tỏ ra có tác dụng bảo vệ cơ thể với
bệnh mạch vành tuy thế còn chưa rõ ràng. Có thể đó là do tác dụng của chất

xơ có nhiều trong rau quả, cũng có thể là một chế độ ăn thực vật sẽ làm giảm
huyết áp, một nhân tố nguy cơ của các bệnh mạch vành.
Trong các thập kỷ vừa qua, nhiều nước như Nauy, Thụy Ðiển, Phần
Lan, Úc, Hoa Kỳ đã thực hiện nhiều. Biện pháp để phòng ngừa bệnh mạch
vành và họ đã đạt được một số kết quả khả quan.
Nói chung các biện pháp này bao gồm các lời khuyên về chế độ dinh
dưỡng, cai thuốc lá, hoạt động thể lực và duy trì cân nặng ổn định. Trong các
khuyến cáo về ăn uống, người ta khuyên năng lượng do chất béo cung cấp
không được vượt quá 30% tổng số năng lượng, sử dụng dầu thực vật, tăng
sử dụng khoai, rau và trái cây. Các loại đường ngọt không cung cấp quá 10%
tổng số năng lượng còn năng lượng do protein nên đạt từ 10-15%.

×