Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

SABECO để mất thương hiệu: Bài học về sự chủ quan ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.7 KB, 8 trang )

SABECO để mất thương hiệu: Bài học về sự chủ quan

Việc để một công ty nước ngoài sử dụng thương
hiệu của mình là một sự sơ suất trong giao dịch
rất đáng tiếc của SABECO mà một phần trách
nhiệm, theo ý kiến của tôi, là do sự chủ quan của
SABECO.
LTS: Để rộng đường tranh luận về câu chuyện
thương hiệu SABECO, VEF trân trọng giới thiệu ý
kiến của Thạc sỹ Vũ Tính - Đại học Sorbone - Paris 2
Cộng hòa Pháp phân tích về những sai sót trong việc
tìm hiểu đối tác, ký kết hợp đồng và bảo vệ thương
hiệu của SABECO.

Sau khi đọc hai bài báo trên VEF về rắc rối liên quan
đến thương hiệu SABECO, tôi lại nhớ đến một câu
người Việt Nam chúng ta thường hay nói khi có sự cố
không hay nào đó xảy ra: "Tiên trách kỷ, hậu trách
nhân".
Quả thực, nếu loại trừ giả thiết SABECO ASIA
PACIFIC (công ty Singapore hiện đang sử dụng con
dấu với hình ảnh giống gần như hình ảnh thương
hiệu của SABECO) là một công ty con của Tổng công
ty CP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn
(SABECO), hoặc là công ty con của bất kỳ công ty
thành viên nào khác của Sabeco, thành lập ở nước
ngoài nhằm mục đích phát triển thị trường quốc tế, thì
việc để một công ty nước ngoài sử dụng thương hiệu
của mình (trong pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt
Nam thì không dùng từ "thương hiệu"mà dùng từ
"nhãn hiệu") là một sự sơ suất trong giao dịch rất


đáng tiếc của SABECO mà một phần trách nhiệm,
theo ý kiến của tôi, là do sự chủ quan của SABECO.

Đây không chỉ là chuyện xảy ra ở một mình SABECO
mà rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam thường mắc
phải. Sự chủ quan đó nằm ở chỗ họ không tiến hành
điều tra kỹ đối tác trước khi ký hợp đồng và không ý
thức được bảo hộ thương hiệu của mình ngay trong
hợp đồng hợp tác.
Bài học về điều tra kỹ đối tác
Thông thường trước khi tiến hành ký kết các thương
vụ hợp tác quan trọng với một đối tác nào đó, các nhà
kinh doanh thường phải có một quá trình tìm hiểu để
có thể biết đối tác đó là ai. Để điều tra một đối tác thì
có rất nhiều cách: đi thăm quan trụ sở làm việc của
đối tác, tìm hiểu thông tin trên mạng internet, thông
qua các nguồn thông tin khác
Theo tôi, nhiều doanh nghiệp Việt Nam có thông lệ là
tổ chức các đoàn thăm quan đến tận nơi để xem xét
cơ sở vật chất của đối tác. Điều này là cần thiết
nhưng chưa đủ mà phần nhiều các doanh nghiệp đã
bỏ qua giai đoạn điều tra đối tác một cách cẩn trọng
và chuyên nghiệp mà trong thuật ngữ pháp lý về kinh
doanh phương Tây người ta thường viết là Due
Diligence Report (DDR).
DDR hiểu nôm na là một Bản - mô - tả - sức - khỏe
của doanh nghiệp, qua đó người tìm hiểu có thể biết
được doanh nghiệp mạnh yếu thể nào, có các khuyết
tật gì DDR được sử dụng nhiều trong các giao dịch
M&A (mua bán, sáp nhập) khi một bên muốn mua lại

một công ty nào đó, nhưng theo tôi nó rất cần được
sử dụng trong các thương vụ lớn.
Vì chỉ khi biết được đối tác thể nào, ta mới yên tâm
đặt bút ký hợp đồng hợp tác được (trong sự việc của
SABECO thì đối tác của SABECO mới được 1 tháng
tuổi, hiệu quả kinh doanh chưa biết thế nào, thông tin
trên website nghèo nàn không có gì để kiểm chứng).
Sở dĩ DDR rất quan trọng và là một trong những cơ
sở để quyết định ký hợp đồng với đối tác do trước
hết, để làm được một DDR thì ta được quyền thỏa
thuận yêu cầu đối tác cung cấp tất cả các thông tin
cần thiết (hồ sơ pháp lý của công ty, các hợp đồng đã
ký kết, danh sách ban lãnh đạo, báo cáo tài chính
được kiểm toán, báo cáo hoạt động thường niên, các
bản án hoặc tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp,
các quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ ).
Các thông tin này đều phải được bên cung cấp cam
đoan là xác thực và phải chịu trách nhiệm về các cam
đoan của mình. Từ các thông tin đó DDR sẽ được
nghiên cứu thẩm định và lập bởi một đội ngũ các
chuyên gia như luật sư, kiểm toán viên, chuyên viên
marketing
Bản DDR sẽ là một tập hợp các phân tích về thực
trạng của doanh nghiệp đối tác và kèm theo là các
khuyến cáo cần thiết cho người đọc nhằm quyết định
việc ký kết hợp đồng.
Bản DDR thường được sử dụng như một công cụ
hữu hiệu trong bàn đàm phán khi một bên muốn thực
hiện chiến lược "bới lông tìm vết" nhằm thiết lập vị thế
của mình trong cuộc thương thuyết.

Thương hiệu cần được bảo vệ chặt chẽ
Ngoài việc ý thức bảo vệ thương hiệu của mình ngay
từ khi thành lập doanh nghiệp hoặc bắt đầu xây dựng
thương hiệu bằng việc đăng ký bảo hộ trong nước và
quốc tế, thì ngay trong các hợp đồng phân phối hàng
hóa hoặc dịch vụ, các luật gia hoặc cố vấn pháp lý
của doanh nghiệp nên chú ý đến quy định chặt chẽ
việc sử dụng thương hiệu của mình vào trong hợp
đồng để tránh các tranh chấp tiềm ẩn sau này (theo
phân tích ở bài trướcm các luật sư đã chỉ rõ những
điểm sơ hở căn bản trong hợp đồng của SABECO
với đối tác).

Sau đây là một ví dụ về điều khoản liên quan đến việc
sử dụng nhãn hiệu (thương hiệu) mà các luật gia
châu Âu thường đưa vào trong các hợp đồng phân
phối:
"Điều Quyền sử dụng nhãn hiệu:
1. Trong thời hạn của Hợp đồng, Nhà phân phối được
quyền sử dụng các nhãn hiệu trên phạm vi lãnh thổ
mà Hợp đồng này quy định. Nhà phân phối chỉ được
quyền sử dụng các nhãn hiệu đó vì mục đích quảng
bá và giới thiệu sản phẩm. Việc sử dụng các nhãn
hiệu trên phạm vi lãnh thổ quy định sẽ không bị tính
phí bởi Nhà sản xuất.
2. Nhà phân phối cam kết chỉ sử dụng các Nhãn hiệu
đi kèm với Sản phẩm quy định. Ngoài ra, Nhà phân
phối sẽ không được sử dụng, thay đổi hoặc gỡ bỏ
Nhãn hiệu đối với bất kỳ sản phẩm nào khác mà
không có sự đồng ý trước bằng văn bản của Nhà sản

xuất.
3. Nhà phân phối khẳng định rằng Nhà sản xuất là
chủ sở hữu duy nhất của các Nhãn hiệu và cam kết
rằng, trong và sau khi hết thời hạn Hợp đồng, Nhà
phân phối sẽ không có bất kỳ khiếu nại gì liên quan
đến quyền sở hữu này cũng như sẽ không có bất cứ
hành động nào làm ảnh hưởng đến các Nhãn hiệu
của Nhà sản xuất, nhất là việc dán Nhãn hiệu đó lên
bất kỳ sản phẩm hoặc dịch vụ nào.
4 .Nhà phân phối sẽ thông báo cho Nhà sản xuất,
trong thời hạn nhanh nhất có thể, về các xâm phạm
liên quan đến các Nhãn hiệu của Nhà sản xuất bao
gồm nhưng không giới hạn việc làm hàng nhái, hàng
giả các sản phẩm trên lãnh thổ phân phối của mình."

×