Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Báo cáo về ý nghĩa và giá trị của tư tưởng phân chia quyền lực, cũng như cách thức vận dụng những hạt nhân hợp lý của nó trong công cuộc xây dựng Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.17 KB, 69 trang )

Trêng §¹i Häc LuËt Hµ Néi C«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc
Báo cáo về ý nghĩa và giá trị
của tư tưởng phân chia quyền
lực, cũng như cách thức vận
dụng những hạt nhân hợp lý
của nó trong công cuộc xây
dựng Nhà nước ta trong giai
đoạn hiện nay
3
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Mục lục
Lời nói đầu 5
Chơng 1.
Quá trình hình thành và phát triển của t tởng
phân chia quyền lực nhà nớc trong lịch sử 7
1. T tởng phân chia quyền lực
nhà nớc trong thời kỳ cổ đại 10
- T tởng của Aristote 10
- T tởng của Polybe và Cicéron 11
- Bộ máy nhà nớc Athène 13
- Bộ máy nhà nớc Roma thời kỳ cộng hoà 15
2. Học thuyết phân chia quyền lực
nhà nớc trong thời kỳ cách mạng T sản 17
- John Locke ( 1632 - 1704 ) 17
- Chales Louis Montesquieu ( 1689 - 1755 ) 25
- Jean - Jacques Rousseau ( 1712 - 1788 ) 34
3. Học thuyết phân chia quyền lực
nhà nớc trong giai đoạn hiện nay 42
- Phân quyền ngang 42
- Phân quyền dọc 45
Chơng 2.


Sự vận dụng T tởng phân chia
quyền lực nhà nớc trong xây dựng
Nhà nớc pháp quyền Việt Nam 52
1.Sự vận dụng t tởng phân chia quyền lực
vào việc tổ chức bộ máy Nhà nớc theo hớng
xây dựng nhà nớc pháp quyền 53
- Khái niệm Nhà nớc pháp quyền 53
- Mối quan hệ giữa t tởng phân chia quyền lực
nhà nớc với mô hình Nhà nớc pháp quyền 57
2. Về cách thức tổ chức, phân công và phối hợp
hoạt động giữa các nhánh quyền lực nhà nớc trong
quá trình xây dựng nhà nớc pháp quyền ở nớc ta 60
2.1. Thực trạng bộ máy Nhà nớc ta
hiện nay và những tồn tại cần khắc phục 60
2.2. Một số giải pháp nhằm xây dựng
Nhà nớc pháp quyền Việt Nam 67
Kết luận 87
Tài liệu tham khảo 89
4
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Lời nói đầu
Trong quá trình học tập và trau dồi kiến thức về chính trị - pháp
lý ở trờng Đại học Luật Hà Nội, có một vấn đề đã làm chúng em hết sức
băn khoăn.
Tại sao Điều 16 của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Cách mạng Pháp lại nhấn mạnh rằng : "Một xã hội trong đó không bảo
đảm việc sử dụng các quyền và không thực hiện sự phân quyền thì
không có Hiến pháp"
(1)
; hay tại sao Điều 13 của Tuyên ngôn về chủ

quyền quốc gia của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang
Nga lại khẳng định: "Việc phân công các quyền lập pháp, hành pháp và
t pháp là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động của nớc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga nh là một nhà nớc pháp quyền"
(2)
?
Việc cha biết gì nhiều về t tởng phân chia quyền lực, và việc không
thể dùng những kiến thức đã có của mình để giải thích cho mối liên hệ
giữa t tởng này với công cuộc xây dựng một xã hội tôn trọng pháp luật,
một nhà nớc pháp quyền đã thực sự cuốn hút chúng em để tâm tìm hiểu
và nghiên cứu.
Với sự giúp đỡ và chỉ dạy tận tình của các thầy cô giảng viên bộ
môn Lý luận Nhà nớc và Pháp luật, khoa Luật Hành chính - Nhà nớc,
trờng Đại học Luật Hà Nội, chúng em đã rút ra đợc những bài học rất
quý báu.
5
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - một nhiệm vụ đã đợc
Đảng ta đề ra trong các Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
VIII, IX, và X, thì việc vận dụng những hạt nhân t tởng phân chia
quyền lực nhà nớc trong tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nớc Việt
Nam theo hớng dân chủ, tiến bộ, khoa học và nhân đạo là điều tất yếu.
Điều đó đã đợc thể hiện rõ trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng: " Nhà nớc ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân, là Nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì
dân. Quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và t pháp"
(1)

.
Bởi vậy, với mong muốn là góp thêm một vài dòng vào bên
cạnh những công trình nghiên cứu đã có trớc đây, để càng làm rõ
hơn ý nghĩa và giá trị của t tởng phân chia quyền lực, cũng nh cách
thức vận dụng những hạt nhân hợp lý của nó trong công cuộc xây
dựng Nhà nớc ta trong giai đoạn hiện nay, chúng em
1
Do nguồn t liệu đợc tiếp cận còn hạn chế, lại phải đề cập tới những
vấn đề có sức bao trùm cao, có ý nghĩa sâu sắc nh học thuyết phân chia
quyền lực và mô hình nhà nớc pháp quyền nên bản báo cáo kết quả
nghiên cứu này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong
nhận đợc sự chỉ bảo, đóng góp của các thầy cô để giúp chúng em hoàn
thiện đợc kiến thức của mình. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Nhân đây chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn tới Tiến sĩ Luật học
Nguyễn Thị Hồi, giảng viên trờng Đại học Luật Hà Nội, đã hớng dẫn và
giúp đỡ chúng em rất nhiều trong quá trình nghiên cứu.
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học
Phạm Việt Anh
Nguyễn Huy Hoàng
Lữ Mai Thanh Tùng
1
(1) Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện thông tin khoa học xã hội: Thuyết " Tam quyền phân lập "
và bộ máy nhà nớc t sản hiện đại, Hà Nội , năm 1992
(2) TS Trần Hậu Thành: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2005, tr.225 - 226, c.3.
6
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
2
T tởng phân chia quyền lực nhà nớc
và sự vận dụng trong xây dựng

Nhà nớc pháp quyền việt Nam

2
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2001, tr.131-132
7
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Ch ơng 1
Quá trình hình thành và phát triển
t tởng phân chia quyền lực
trong lịch sử
Bàn về quyền lực, Jean - Jacques Rousseau đã viết lên những
dòng thật đẹp trong Chơng 3, Quyển thứ nhất của tác phẩm kinh điển
Bàn về khế ớc xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị ( Du
Contrat social - ou principes du droit politique ). Ông cho rằng quyền lực
là sức mạnh có khả năng buộc ngời khác phải nghe theo. Và quyền lực
nhà nớc cũng vậy.
Quyền lực nhà nớc là sức mạnh mang tính ý chí của nhà nớc, có
tính bắt buộc phải tuân theo đối với mọi cá nhân, tổ chức, lực lợng
trong xã hội; đợc đảm bảo thực hiện bởi một bộ máy chuyên nghiệp quản
lý mọi mặt đời sống xã hội, bởi các công cụ sức mạnh nh nhà tù, toà án,
cảnh sát, quân đội , và bởi hệ thống các quy tắc xử sự chung thống
nhất cho toàn xã hội. Quyền lực nhà nớc về bản chất là biểu hiện tập
trung cho quyền lực chính trị của lực lợng chiếm u thế về kinh tế trong
xã hội.
Từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý - Bộ T pháp biên soạn
có nêu ra những đặc điểm cơ bản của quyền lực nhà nớc nh sau:
"1) Luôn luôn gắn với sự tồn tại của chính quyền nhà nớc; 2) Đợc
phân chia thành các quyền lập pháp, hành pháp và t pháp; 3) Do giai
cấp, hoặc liên minh các giai cấp thống trị xã hội tổ chức và thực hiện; 4)

Đợc bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cỡng chế nhà nớc."
(1)
Trong một xã hội có giai cấp, quyền lực nhà nớc là sức mạnh có
tính bao trùm rộng lớn nhất, quan trọng nhất, có khả năng khống chế
và bắt buộc mọi cá nhân, tổ chức, lực lợng trong xã hội phải phục tùng ý
chí của mình. Từ xa đến nay, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về
cách thức thực hiện thứ quyền lực này, nhng tựu chung lại thì có hai
quan điểm cơ bản, đó là tập quyền và phân quyền.
Tập quyền là "nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nớc thể hiện việc
tập trung quyền lực vào tay một ngời hoặc một cơ quan"
(1)
.
Trong chế độ quân chủ chuyên chế, mọi quyền lực nhà nớc nằm
hoàn toàn trong tay nhà vua, ý chí của vua là luật pháp đối với thần
dân, vua quản lý mọi
_____________
(1) Viện khoa học pháp lý - Bộ T pháp: Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa,
Nxb T pháp, Hà Nội, 2006, tr.652, từ mục " quyền lực nhà nớc ".
công việc hành chính của nhà nớc, đồng thời vua cũng là vị quan
toà tối cao. Các chức vụ quan lại, đều do vua cắt cử hoặc bãi chức, chính
là hệ thống những ngời có nhiệm vụ thực thi các mệnh lệnh, chiếu chỉ
của nhà vua.
8
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Phân quyền, hiểu một cách đơn gian là trái với tập quyền, là
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nớc sao cho không một cá nhân hay cơ
quan nào nắm trọn vẹn quyền lực.
Nhà nớc quân chủ nhị hợp là một dạng nhà nớc phân quyền. Vua
nắm toàn quyền hành pháp với quyền hạn thành lập và điều hành Chính
phủ, nhng lại không đợc tham gia vào công việc lập pháp, là quyền đợc

Hiến pháp giao cho cơ quan đại diện nhân dân (có thể là cơ quan đại diện
đẳng cấp hoặc Nghị viện), cũng nh không nắm quyền t pháp - thứ quyền
lực đã thuộc về cơ quan Toà án.
Trong nhà nớc quân chủ đại nghị thì vua chỉ còn là một chức danh
tợng trng, hình thức, không có thực quyền trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động của quyền lực nhà nớc. Nghị viện nắm quyền lập pháp, quyền
hành pháp nằm trong tay Chính phủ do Nghị viện bầu ra, và Toà án
nắm quyền t pháp.
Những nhà nớc cộng hoà t sản thể hiện hình thức phân quyền rõ
rệt và triệt để hơn nữa. Ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp
và t pháp đợc giao cho các cơ quan khác nhau nh Tổng thống, Nghị viện,
Chính phủ và Toà án, với cơ cấu tổ chức để các cơ quan này có thể giám
sát, kiềm chế lẫn nhau, không cho phép cơ quan nào có khả năng thâu
tóm toàn bộ quyền lực.
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa là nhà nớc mà tất cả quyền lực nhà nớc
thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho cơ quan đại diện cao nhất
của họ, do họ trực tiếp bầu ra qua phổ thông đầu phiếu. ở Việt Nam, Điều
82 Hiến pháp 1980 và Điều 83 Hiến pháp 1992 đều
_____________
(1) Từ điển Luật học, Sđd, tr.694, từ mục "tập quyền ".
khẳng định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực Nhà nớc cao nhất của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam"
(1)
. Nhng cơ quan đại diện của nhân dân này chỉ nắm giữ quyền lập
pháp, giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nớc, và quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nớc; nó phải thành lập các cơ quan khác nh nguyên
thủ quốc gia, chính phủ, toà án để chúng thực hiện những quyền lực khác
của Nhà nớc.
Tập quyền là nguyên tắc tổ chức nhà nớc không còn phổ biến trên

thế giới ngày nay, trong khi phân quyền đã trở thành nguyên tắc hàng
đầu trong việc xây dựng bộ máy nhà nớc. Trong điều 16 Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789 có nêu : "Một
xã hội mà trong đó việc tuân thủ pháp luật không đợc đảm bảo, hay sự
chia tách các quyền không đợc rõ ràng, thì cũng chẳng có một hiến pháp
nào hết ". Điều 13 của Tuyên ngôn về chủ quyền quốc gia của nớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga do Đại hội đại biểu nhân dân
Liên bang Nga thông qua ngày 12/12/1989 khẳng định: "Việc phân công
các quyền lập pháp, hành pháp và t pháp là nguyên tắc quan trọng nhất
trong hoạt động của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết Liên bang Nga
nh là một nhà nớc pháp quyền"
(3)
.
Nguyên tắc nền tảng cho cách thức xây dựng bộ máy nhà nớc của đa
số các quốc gia trên thế giới ngày nay ấy đợc rút ra từ một học thuyết có
9
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
tên gọi học thuyết phân chia quyền lực, hay còn đợc gọi là học thuyết
phân quyền.
Học thuyết phân chia quyền lực lần đầu tiên đợc nêu ra thành hệ
thống lý luận hoàn chỉnh vào năm 1689 bởi John Locke, trong tác
phẩm Khảo luận thứ hai về Chính quyền hay Luận về Nguồn gốc, Phạm
vi và Mục đích chân chính của Chính quyền dân sự; và đợc phát triển
hoàn thiện bởi Charles Louis Montesquieu
_____________
(1) Hiến pháp Việt Nam ( Năm 1946, 1959, 1980, 1992 ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 1995, tr.102 và tr.163
(2) Declaration of the Rights of Man and of the Citizen, Approved by the National
Assembly of France, 1789, translate by Marquis de Lafayette and Thomas Jefferson
(3) TS Trần Hậu Thành: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nớc pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
năm 2005, tr.225 - 226
với tác phẩm De L'esprit des Lois (Bàn về tinh thần Pháp luật),xuất
bản năm 1748 ở Paris. Nhà nớc đầu tiên trên thế giới mà trong hiến
pháp công nhận thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực giữa các cơ
quan nhà nớc là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với bản Hiến pháp năm 1787.
Nhng đó không phải là lần đầu tiên con ngời tìm đến nguyên tắc
này nh một cách thức hữu hiệu để xây dựng bộ máy nhà nớc, chống lại
sự lạm quyền của những ngời cai trị. Mầm mống của t tởng phân quyền
đã xuất hiện ngay từ những xã hội sơ khai đầu tiên của nhân loại.
1. T t ởng phân chia quyền lực trong thời kỳ cổ đại.
Aristote ( 384 - 322 TCN ) - bộ óc bách khoa nhất của thế giới cổ
đại, là ngời đầu tiên đề cập tới việc phân chia quyền lực trong các nhà n-
ớc. Trong tác phẩm Politics ( Chính trị ) đợc viết từ cơ sở nghiên cứu tổ
chức bộ máy nhà nớc của 158 quốc gia, ông cho rằng để đảm bảo sự công
bằng trong dân chúng, để có đợc những đạo luật công bằng thì nhà nớc
phải đợc tổ chức có quy củ, để có sự quy củ này thì mọi nhà nớc đều phải
có "ba bộ phận: bộ phận t vấn pháp lý về hoạt động của nhà nớc, bộ
phận thứ hai là các toà thị chính, bộ phận thứ ba là các cơ quan t pháp"
và "chính sự khác nhau của chế độ nhà nớc bắt nguồn từ sự khác nhau
của mỗi bộ phận này"
(1)
.
Không dừng lại ở đó, ông còn trình bày về cách thức hình thành,
chức năng, quyền hạn và cơ cấu của từng bộ phận cụ thể.
Về bộ phận thứ nhất, hay còn đợc gọi là Hội nghị nhân dân, đợc
ông chỉ các chức năng là: "quyết định về vấn đề chiến tranh và hoà bình,
lập ra hoặc phá vỡ những liên mình, ban hành các đạo luật, những án
tử hình, đi đày hoặc tịch thu tài sản và yêu cầu các pháp quan giải
thích về cách xử sự của họ trong thời gian giữ chức vụ"

(2)
. Nói theo ngôn
ngữ ngày nay thì Hội nghị nhân dân này nắm quyền lập pháp và quyết
định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Số lợng, cách thức lựa
chọn các thành viên và quyền hạn của Hội nghị công dân có liên quan tới
hình thức nhà nớc: ở chế độ
10
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
_____________
(1) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr. 34
(2) TS Nguyễn Thị Hồi: T tởng phân chia quyền lực nhà nớc với việc tổ chức bộ máy
nhà nớc ở một số nớc, Nxb T pháp, Hà Nội, 2005, tr.34
dân chủ mọi công dân đều đợc tham gia Hội nghị nhân dân và có quyền
quyết định mọi vấn đề trọng yếu của đất nớc; chế độ đầu sỏ chính trị thì
chỉ một số công dân đặc biệt mới đợc tham gia quyết định các vấn đề nhà
nớc; còn trong chế độ quý tộc thì một bộ phận quyết định vấn đề này, trong
khi một bộ phận khác quyết định những vấn đề khác.
Về các toà thị chính, mà cụ thể là về các pháp quan, Aristote cho
rằng cần có nhiều pháp quan để chăm lo cho từng việc cụ thể trong nhà n-
ớc: quản lý thị trờng, quản lý đờng xá, nhà cửa, quản lý đất đai Nhng
cần có một pháp quan cao nhất, có quyền chỉ huy toàn bộ nhân dân với t
cách nh là ngời đứng đầu nhà nớc. Theo ông, trong chế độ dân chủ, các
pháp quan đợc chọn ra từ trong toàn thể nhân dân; trong chế độ đầu sỏ
chính trị thì đợc chọn ra từ một đẳng cấp đặc biệt; còn trong chế độ quý tộc
thì một số pháp quan đợc chọn ra từ nhân dân, và một số khác đợc chọn ra
từ những đẳng cấp trên trong xã hội.
Về cơ quan t pháp toà án, Aristote chia ra rất nhiều loại khác nhau,
tuỳ theo tính chất và đặc điểm các vụ việc mà toà án đó chuyên giải quyết.
Về cách thức lựa chọn các thẩm phán, ông cũng chỉ ra nhiều dạng tuỳ theo
hình thức nhà nớc: việc mọi công dân đều có thể trở thành thẩm phán là

đặc điểm của nhà nớc dân chủ; nếu chỉ có một số công dân thuộc những
đẳng cấp nhất định mới có thể trở thành thẩm phán thì đó là chế độ đầu
sỏ chính trị; còn tuỳ theo từng vụ việc cụ thể mà chọn thẩm phán trong
nhân dân hay trong những ngời đặc biệt là biểu hiện của chế độ quý tộc.
Dù là một trong những nhà t tởng đầu tiên đề cập tới vấn đề phân
chia quyền lực, nhng t tởng này của Aristote vẫn cha chứa đựng quan
điểm phân chia quyền lực theo tinh thần của thuyết phân chia quyền lực
hiện đại, và ông mới chỉ dừng lại ở mô tả bộ máy nhà nớc mà cha đi sâu,
chỉ ra mối liên hệ giữa các cơ quan nhà nớc, cũng nh cha chỉ đợc ra nguyên
nhân phải chia quyền lực nhà nớc thành các nhánh quyền lực nh vậy.
Polybe và Cicéron là những ngời đã thể hiện t tởng phân chia quyền
lực qua quan điểm về sự cai trị hỗn hợp.
Polybe ( khoảng 200 -120 TCN ) cho rằng một nhà nớc lý tởng là nhà
nớc hỗn hợp của ba chính quyền - ba thế lực chính trị: chính quyền quốc
vơng, chính quyền quý tộc và chính quyền nhân dân, mà theo quan điểm
ngày nay đó chính là ba thứ quyền lực: quyền hành pháp trong tay vua,
quyền lập pháp trong tay viện nguyên lão của giới quý tộc và quyền t
pháp thuộc về sự phán xét của d luận nhân dân. Polybe chỉ ra nhà nớc
tổng thể thực hiện quyền lực bằng cách nào, và các chính quyền khác
nhau trong nhà nớc ấy bằng cách thức nào có thể cản trở, kiềm chế nhau,
hoặc ngợc lại, bảo vệ và ủng hộ nhau. Khi một thế lực muốn vợt quyền hạn
của mình và gây phơng hại tới lợi ích của các thế lực khác thì sẽ đụng độ
sự phản đối thích đáng từ các thế lực này, và kết quả là sẽ đạt đến một
11
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
trật tự đúng đắn, đảm bảo cho sự ổn định và vững mạnh của nhà nớc tổng
thể.
Cicéron ( 106 - 43 TCN ) - nhà lập pháp nổi tiếng của Roma thời kỳ
Cộng hoà. Trong tác phẩm Đối thoại, ông viết: " một phần quyền lực của
nhà nớc phải đợc phân chia và trao cho uy thế của những ngời chiếm hàng

đầu, còn một số công việc phải dành cho nhân dân xét đoán và giải
quyết "
(1)
. Cicéron đã nghiên cứu nhiều hình thức của nhà nớc hỗn hợp,
và cuối cùng ủng hộ cho hình thức nhà nớc có sự cân bằng giữa các phần
quyền lực: "phân chia quyền lực: nghĩa vụ và quyền hạn công bằng"
(2)
.
Nh vậy, ngay từ thời cổ đại, t tởng phân chia quyền lực đã hình
thành với nhiều quan điểm, trờng phái khác nhau, và trở thành nền tảng
cho sự phát triển của t tởng trong thời kỳ cách mạng t sản và giai đoạn
hiện nay.
Khi nói đến t tởng phân chia quyền lực thì không thể không nhắc
đến biểu hiện cụ thể của nó trong các bộ máy nhà nớc, mà tiêu biểu nhất
trong thời kỳ cổ đại chính là nhà nớc Athène ở Hy Lạp và nhà nớc Roma
cộng hòa. Từ cơ sở nghiên cứu sự tổ chức của các nhà nớc này mà các học
giả cổ đại đã đa ra những quan điểm, t tởng nh đã nêu trên. Ta hãy thử
nhìn qua bộ máy nhà nớc cũng nh cơ cấu phân chia quyền lực ở các thành
bang này để có thể hiểu rõ hơn t tởng phân quyền trong thời kỳ cổ đại.
_____________
(1) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr.37
(2) TS Trần Hậu Thành: Sđd, tr.38
Bộ máy nhà n ớc Athène:
Athène là thành bang nằm ở vùng đồng bằng Attic, miền trung Hy
Lạp.
Nhà nớc Athène có chính thể Cộng hoà dân chủ chủ nô, là kết quả
của những cuộc cải cách chính trị, đã biến liên minh các bộ lạc của thời
mạt kỳ xã hội thị tộc thành đỉnh cao của nền chuyên chính dân chủ thời
kỳ cổ đại.
Theo truyền thuyết, Thésée là ngời đặt nền móng cho sự ra đời của

nhà nớc Athène. Ông chia lãnh thổ miền đồng bằng Attic thành 48 địa
khu, và chia dân tự do Athène thành 3 tầng lớp: quý tộc, nông dân và
thợ thủ công. Dấu vết của các bộ lạc cũ trong liên minh đã bị xoá nhoà.
Đại hội nhân dân của các bộ lạc cũ vẫn còn tồn tại, nhng quyền lực thực
tế đã đợc chuyển sang một tổ chức khác - Viện nguyên lão - gồm những
đại biểu của tầng lớp quý tộc giàu có. Viện nguyên lão có toàn quyền
trong các lĩnh vực lập pháp, t pháp, giám sát và quyết định mọi vấn đề
hệ trọng của đất nớc. Chức vụ thủ lĩnh quân sự của các bộ lạc
( basileus ) đợc thay thế bằng chức vụ quan chấp chính, đợc cử ra từ
tầng lớp quý tộc. Athène trở thành một thành bang theo chế độ cộng hoà
quý tộc chủ nô.
12
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Trớc đà phát triển của nền kinh tế công thơng, năm 594 TCN,
Solon - đang là chấp chính quan của Athène, đã tiến hành một cuộc cải
cách mang tính dân chủ tiến bộ. Quan trọng nhất trong những cải cách
về tổ chức bộ máy nhà nớc của ông là thành lập toà án nhân dân có
nhiều bồi thẩm, cùng thảo luận xét xử để tránh sự tuỳ tiện và tăng cờng
tính dân chủ.
Tiếp theo Solon là Clisthenes, và cuối cùng là hai thầy trò
Ephialtes - Pericles đã tiến hành những cuộc cải cách chính trị sâu
rộng, từng bớc dân chủ hoá bộ máy nhà nớc Athène, cũng nh hạn chế
quyền lực của Viện nguyên lão, đa Viện nguyên lão từ cơ quan nắm giữ
mọi quyền lực nhà nớc thành tổ chức chỉ có quyền trong các hoạt động
tôn giáo.
Cải cách của Pericles đã xây dựng bộ máy nhà nớc Athène một
cách hoàn thiện nhất, bao gồm các cơ quan chủ yếu: Hội nghị công dân,
Hội đồng 500 ngời, Toà án nhân dân và Hội đồng 10 tớng lĩnh.
Hội nghị công dân ( ngời Hy Lạp gọi là Eccơlêdia ) là cơ quan
quyền lực cao nhất của thành bang, có quyền thảo luận và biểu quyết

các vấn đề hệ trọng của đất nớc, thông qua hay phủ quyết các dự luật,
chọn cử những viên chức nhà nớc. Eccơlêdia là đại hội của tất cả các
công dân nam Athène tuổi từ 18 trở lên, họp hàng tháng, và ít nhất là
10 lần trong một năm. Trong hội nghị, mọi công dân đều có quyền đa ra
một dự án luật hoặc đề nghị bãi bỏ một điều luật hiện hành.
Hội nghị công dân bầu ra Hội đồng 500 ngời ( gọi là Bulê ) - là cơ
quan hành pháp của nhà nớc. Bulê có nhiệm vụ thay mặt nhân dân
thực hiện các công việc hành chính của nhà nớc trong suốt một năm.
Ngoài ra Bulê còn có nhiệm vụ kiểm tra t cách công dân cũng nh t cách
của các viên chức trong bộ máy nhà nớc. Hội đồng đợc chia thành 10 uỷ
ban - Pơritani. Mỗi Pơritani có chức năng thờng trực thay mặt Bulê giải
quyết các công việc hành chính hàng ngày trong nhiệm kỳ 1/10 năm
( khoảng từ 36 đến 39 ngày ).
Toà án nhân dân là cơ quan t pháp của nhà nớc có cơ cấu gồm
6000 thành viên, do Hội nghị công dân bầu ra, vừa làm thẩm phán, vừa
làm bồi thẩm trong nhiệm kỳ một năm. Khi cần xét xử một vụ án cụ thể
thì tiến hành bốc thăm trong số 6000 ngời này để chọn ra một số thẩm
phán.
Hội đồng 10 tớng lĩnh có thành viên là các quý tộc giàu có, ban đầu
chỉ nắm quyền chỉ huy quân sự, nhng sau dần trở thành cơ quan hành
chính cao nhất của nhà nớc. Hội đồng đợc Hội nghị công dân bầu ra theo
hình thức biểu quyết chứ không phải là bỏ phiếu kín nh việc bầu cử các
cơ quan nhà nớc khác, và hoạt động của Hội đồng 10 tớng lĩnh phải chịu
sự giám sát của Hội đồng 500 ngời.
Trong mỗi kỳ họp của Hội nghị công dân, đều có thủ tục biểu
quyết chấp thuận hay khiển trách các viên chức nhà nớc. Nếu bị khiển
trách, viên chức ấy sẽ bị bãi miễn chức vụ. Ngoài ra, tại phiên họp cuối
cùng hàng năm, các viên chức phải tờng trình trớc một uỷ ban đặc biệt
của Hội nghị công dân về số tiền công quỹ do mình thu giữ và chi tiêu.
Đây chính là hình thức đầu tiên của hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ

13
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
quan quyền lực tối cao - chính là nhân dân, đối với hoạt động của các
viên chức trong bộ máy nhà nớc, với các cơ quan nhà nớc khác.
Bộ máy nhà n ớc Roma thời kỳ Cộng hoà:
Theo truyền thuyết, thành Roma đợc vua Romulux xây dựng vào
năm 753 TCN trên bờ sông Tibes, miền Trung bán đảo Italia.
Lịch sử Roma có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ Vơng chính ( thế
kỷ 7 TCN đến thế thế kỷ 4 TCN ), thời kỳ Cộng hoà (từ thế kỷ 4 TCN
đến thế kỷ 1 ), và thời kỳ Đế chế ( từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 5 ). Nhng ở đây
ta chỉ xem xét bộ máy nhà nớc dới thời Cộng hoà.
Dới thời kỳ Cộng hoà, bộ máy nhà nớc Roma bao gồm các bộ phận
chủ yếu sau: Đại hội nhân dân Centuries, Đại hội bình dân Plebs, Viện
nguyên lão, hai quan chấp chính, và hội đồng các quan bảo dân. Bộ máy
này thể hiện khá rõ t tởng phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà n-
ớc.
Đại hội nhân dân Centuries, Đại hội bình dân Plebs và Viện
nguyên lão là các cơ quan nắm quyền lập pháp của nhà nớc.
Đại hội nhân dân Centuries họp mỗi năm hai lần tại quảng trờng
Thần Chiến tranh Mars, để quyết định những vấn đề cơ bản của nhà n-
ớc nh: chiến tranh, hoà bình, và bầu chọn các quan chức nhà nớc. Hai
chấp chính quan ( consul ) cũng do Đại hội bầu ra với nhiệm kỳ 1 năm.
Đại hội bình dân Plebs ra đời muộn hơn các cơ quan khác của nhà
nớc Roma, là kết quả của cuộc đấu tranh giữa các c dân mới tới ( Plebs )
đòi hỏi phải có tiếng nói của mình bên cạnh Đại hội nhân dân Centuries
của c dân Roma bản địa. Do ngời Plebs chiếm tỉ lệ cao trong số c dân
Roma nên họ tự coi đại hội của mình là đại hội của toàn thể c dân
Roma, những quyết nghị của đại hội này có hiệu lực nh pháp luật với
toàn thể công dân Roma, nhng Đại hội bình dân Plebs chỉ quyết định
các vấn đề liên quan tới các bộ lạc hay liên quan tới các đơn vị hành

chính lãnh thổ.
Viện nguyên lão ( Senate ) bao gồm 300 thành viên, là các quý tộc
giàu có, hoạt động theo nguyên tắc: Đại hội Centuries là cơ quan quyền
lực tối cao, nhng mọi quyết định đều phải thông qua sự phê chuẩn của
Viện nguyên lão; các quan chức của bộ máy nhà nớc cũng chỉ đợc bầu
chọn từ những nghị viên của Viện, bởi vậy, thực tế Viện nguyên lão
chính là cơ quan đại diện thờng trực của Đại hội nhân dân Centuries để
quyết định những vấn đề thờng xuyên của nhà nớc nh: hành chính,
ngân sách, ngoại giao, lễ nghi tôn giáo
Hai chấp chính quan do Đại hội Centuries bầu ra nắm trong tay
quyền hành pháp, ngoài ra, còn có một số quyền lập pháp nhất định.
Trong nhiệm kỳ 1 năm, nếu xảy ra trờng hợp Tổ quốc lâm nguy thì một
trong hai chấp chính quan sẽ đợc chọn cử làm Dictato - hay Độc tài,
trong thời hạn 6 tháng. Trong thời gian này, Dictato nắm giữ quyền
hành tối cao về mọi vấn đề.
14
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Hội đồng các quan bảo dân lúc đầu chỉ gồm 2 ngời, rồi là 4, 6 và 10
ngời, để bảo vệ, bênh vực ngời dân trớc những quyết định đi ngợc lại lợi
ích nhân dân của Viện nguyên lão hay của các quan chấp chính, giám
sát và có ý kiến đối với những dự luật và việc làm của chính quyền
Roma, ngoài ra còn giải quyết các vụ án dân sự. Hội đồng này tơng ứng
với cơ quan t pháp.
Theo thoả thuận giữa Viện nguyên lão với nhân dân, quyền lực và
t cách của các quan bảo dân ( tribun ) là thiêng liêng và bất khả xâm
phạm. Nằm bên cạnh các cơ quan của nhà nớc Cộng hoà, các quan bảo
dân có quyền phủ quyết đối với mọi dự luật hay đề án chính sách của
Viện nguyên lão nếu xét thấy có hại cho nhân dân. Quan bảo dân cũng
có quyền tham dự và theo dõi các phiên họp của của Viện nguyên lão để
có thể can thiệp trực tiếp hay phủ quyết tại chỗ các quyết nghị bất lợi

cho ngời dân. Tuy nhiên, quyền lực của các quan bảo dân ở Roma không
phải là vô biên. Theo thoả thuận, có một số giới hạn đối với quyền phủ
quyết của quan bảo dân nh: quan bảo dân không đợc can dự vào chuyện
quân sự, và quyền lực của quan bảo dân chỉ có hiệu lực trong thành
Roma. Trong trờng hợp Tổ quốc lâm nguy, và một trong hai quan chấp
chính đã trở thành Độc tài thì quyền hành của quan bảo dân tạm thời
bị đình chỉ.

Nh trên, ta đã thấy tổ chức nhà nớc ở Athène và Roma thời kỳ
Cộng hoà là một hình thức phân quyền khá triệt để, các cơ quan lập
pháp, hành pháp, t pháp tách biệt nhau trong cơ cấu tổ chức và hoạt
động; giữa các cơ quan này đã có sự kiểm tra, giám sát, kiềm chế và đối
trọng nhau một cách hợp lý. Bởi vậy, nhà nớc Athène và nhà nớc Cộng
hoà Roma là biểu hiện cao nhất của t tởng phân chia quyền lực nhà nớc
trong thời kỳ cổ đại.
2. Học thuyết phân chia quyền lực trong thời kỳ cách mạng
T sản
Trong gần 1500 năm của "đêm trờng Trung cổ", tất cả các nhà nớc
ở Châu Âu đều theo chính thể quân chủ chuyên chế, và không hề có sự
tiếp nối t tởng phân chia quyền lực từ thời kỳ cổ đại. Nhng sự chuyên
quyền của các vua, và sự khủng hoảng của nhà nớc phong kiến, cũng
nh sự xuất hiện và phát triển của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa
đã làm thay đổi tất cả.
Bối cảnh chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chế độ t bản đã tạo
ra nhiều quan điểm mới về nhà nớc, cũng nh về vai trò của nó trong đời
sống xã hội. Vị trí trung tâm của các quan điểm này là vấn đề tổ chức và
hoạt động của nhà nớc: làm sao để loại trừ sự độc đoán quyền lực trong
tay một ngời hay một nhóm ngời, làm sao để bảo vệ đợc quyền tự do, bình
đẳng của mọi cá nhân trong xã hội bằng pháp luật ? Và các học giả
trong thời kỳ này đã tìm đợc câu trả lời qua một t tởng cổ xa: phân chia

quyền lực nhà nớc.
15
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
John Locke ( 1632 - 1704 ):
Phần hai của Hai khảo luận về chính quyền ( Two Treatises of
Gorvernment ), Khảo luận thứ hai về chính quyền hay Luận về Nguồn
gốc, Phạm vi và Mục đích chân chính của chính quyền dân sự - một
trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nền triết học chính trị và chính
trị học nhân loại, chính là nơi Locke trực tiếp đa ra học thuyết của mình
về nhà nớc - một học thuyết đan xen các t tởng pháp quyền tự nhiên,
khế ớc xã hội và phân chia quyền lực.
Trong những chơng đầu của tác phẩm, Locke giải thích cho sự ra
đời của nhà nớc là từ một bản khế ớc, khi những con ngời ở trạng thái tự
nhiên chấp thuận kết hợp bản thân mình vào cộng đồng quốc gia, và
nhờng những quyền tự nhiên của mình cho nhà nớc, nhằm mong muốn
có đợc sự bảo vệ tài sản và bản thân mình một cách ổn định. Từ đó, ông
nêu cao yêu cầu nhà nớc và pháp luật thực định phải tôn trọng những
quyền tự nhiên của con ngời, nh là sự thực hiện đúng những cam kết
trong khế ớc.
Về quyền lực nhà nớc, Locke cho rằng đó là "quyền làm luật có án
phạt tử hình, và do đó, bao hàm tất cả những hình phạt thấp hơn, để quy
định và bảo toàn sở hữu, quy định và bảo toàn việc sử dụng vũ lực của
cộng đồng khi thực thi các luật này, trong việc phòng vệ của cộng đồng
quốc gia trớc những phơng hại gây ra từ nớc ngoài; và tất cả những việc
nh thế chỉ duy nhất là vì lợi ích công"
(1)
.
Từ quan điểm trên, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nớc
với quyền lập pháp. Ông nhấn mạnh: "chỉ có thể có một quyền lực tối cao,
là cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những

cái phụ thuộc vào nó"
(2)
. Hơn thế, theo ông, "tuỳ việc quyền lực lập pháp
đợc đặt ở cơng vị nào mà hình thức của cộng đồng quốc gia là nh thế
đó"
(3)
. Nếu nh quyền lực lập pháp nằm trong tay đa số cộng đồng, và việc
thi hành các đạo luật này là bởi các quan chức do chính họ bổ nhiệm thì
đó là một nền dân chủ hoàn hảo. Nếu nh quyền lực này nằm trong tay
một số ít ngời đợc lựa chọn và những ngời thừa kế của họ thì đó là chính
thể đầu sỏ. Còn nếu nh quyền lực này đợc giao trọn cho một ngời, thì đó
là một nền quân chủ. Khi quyền lực đợc dành cho ông ta và những ngời
thừa kế của ông ta, đó là nền quân chủ cha truyền con nối. Còn khi nó đ-
ợc dành cho ông ta trọn đời nhng vào lúc ông ta chết đi, quyền đề cử một
ngời kế vị trở về với số đông nhân dân, thì đó là nền quân chủ tuyển cử.
Và từ những chính thể này mà cộng đồng quốc gia có thể tạo sự kết hợp
hoặc hỗn hợp giữa các hình thức chính quyền, theo nh cách họ cho là tốt
nhất.
Bởi vậy, Locke cho rằng "Luật xác thực đầu tiên và làm nền tảng
của mọi cộng đồng quốc gia, là việc thiết lập cơ quan quyền lực lập
pháp"
(4)
. Cơ quan lập pháp không những là quyền lực tối cao của cộng
đồng quốc gia, mà còn là quyền lực thiêng liêng và không thể hoán đổi
một khi cộng đồng đã nhất trí đặt nó vào cơng vị đó. Cơ quan lập pháp là
cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp luật, bởi nếu không có sự phê
chuẩn của cơ quan lập pháp - cơ quan đại diện cho cộng đồng toàn xã
hội, thì dù đó là sắc lệnh của bất cứ ai, đợc bất cứ quyền lực nào hậu
16
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học

thuẫn đi chăng nữa thì cũng không thể có đợc điều tuyệt đối cần thiết đối
với pháp luật - đó chính là sự chấp thuận của xã hội. Đồng thời, không
một thành viên nào của cộng đồng có thể không tuân thủ hay đi xa hơn
những luật mà cơ quan
_____________
(1) John Locke: Khảo luận thứ hai về Chính quyền - Chính quyền dân sự, Nxb Tri
thức, Hà Nội, năm 2007
(2) John Locke: Sđd, tr.203
(3) John Locke: Sđd, tr.180
(4) John Locke: Sđd, tr.183
lập pháp đã ban hành, khi nó vẫn hoạt động phù hợp với sự uỷ thác
của xã hội, dù cá nhân đó có đợc sự ủng hộ từ một quyền lực ngoại quốc
hay của bất cứ một quyền lực nào khác trong nớc.
Bên cạnh những quyền hạn ấy, Locke cũng vạch ra những ranh
giới mà cơ quan lập pháp không đợc phép vợt qua.
Thứ nhất, nó không thể là quyền lực độc đoán, chuyên chế đặt trên
cuộc sống và vận mệnh nhân dân. Con ngời trong trạng thái tự nhiên
không thể xâm hại đến tính mạng và tài sản của ngời khác, nếu nh đó
không phải là sự trừng phạt thích đáng với những gì ngời đó đã gây ra
cho mình, vậy nên cơ quan lập pháp - thứ quyền lực có đợc từ tổng số tất
cả những quyền tự nhiên đợc uỷ thác từ các cá nhân trong cộng đồng,
cũng không thể có quyền huỷ hoại sinh mạng của bất kỳ ai trong xã hội
một cách vô cớ. Không một luật lệ nào đợc coi là tốt hay là có căn cứ nếu
chống lại cái luật tự nhiên căn bản là bảo toàn loài ngời. Không một luật
lệ nào đợc coi là tốt hay là có căn cứ nếu không đợc thiết lập nhằm mục
đích tối thợng là vì lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, hay thực chất là nguyên tắc để ngăn chặn sự độc đoán,
chuyên chế của cơ quan lập pháp, là yêu cầu phải có những đạo luật th-
ờng trực đã ban hành và những quan toà có hiểu biết đợc trao thẩm
quyền khi đa ra những quyết định có liên quan tới các quyền của mỗi

thành viên trong xã hội. Chỉ khi có những luật đợc minh định, những
quy tắc thờng trực để ràng buộc thì con ngời mới biết đâu là quyền và
đâu là sở hữu của mình; "còn nếu không nh thế thì hoà bình, sự yên ổn
và sở hữu của họ vẫn chỉ là trong cùng một trạng thái bất định nh đã có
ở trạng thái tự nhiên"
(1)
.
Thứ ba, cơ quan lập pháp không thể ban hành những quyết định
cho phép lấy toàn bộ hay một phần tài sản của bất kỳ ai mà không có sự
chấp thuận của anh ta, vì bảo toàn sở hữu là mục đích chân chính và
hàng đầu của chính quyền, và cũng là nguyên nhân con ngời đồng ý từ
bỏ trạng thái tự nhiên mà gia nhập vào cộng đồng quốc gia, nên vi phạm
vào nguyên tắc này nghĩa là nhà nớc đã vi phạm vào khế ớc đầu tiên tạo
thành xã hội. Nếu không có nguyên tắc này thì cũng có nghĩa là không
ai trong xã hội có sở hữu, bởi có thể bị ngời khác hay bởi chính chính
quyền tớc mất. Cụ thể, Locke nhấn mạnh rằng: "nếu một ngời bất kỳ
nào đòi hỏi một
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr.189
quyền lực để đặt ra và thu thuế đối với nhân dân bằng thẩm quyền
riêng của ông ta mà không có sự chấp thuận của nhân dân, thì ông ta
17
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
đã xâm lấn vào luật căn bản của sở hữu và làm biến chất mục đích của
chính quyền"
(1)
.
Thứ t, cơ quan lập pháp không thể chuyển giao quyền làm luật vào
tay bất kỳ ai khác, bởi theo khế ớc, các cá nhân trong xã hội đã trao
quyền lực vào cơ quan lập pháp với nhiệm vụ "để làm luật mà không

phải là để làm nên các nhà lập pháp, do đó, cơ quan lập pháp không có
quyền gì để chuyển giao thẩm quyền làm luật của họ và đặt nó vào tay
ngời khác"
(2)
.
Theo Locke, luật pháp đợc làm nên trong thời gian ngắn nhng có
sức mạnh bất biến và dài lâu, nên cơ quan lập pháp không phải lúc nào
cũng cần hiện diện. Hơn thế, sự cám dỗ của quyền lực rất dễ khiến
những nhà làm luật có tham vọng nắm luôn quyền thi hành nó, để rồi
đặt lợi ích và bản thân mình lên trên luật pháp, và đi trái lại mục đích
của xã hội và chính quyền. Do đó, ông đa ra mô hình của cơ quan lập
pháp tốt nhất là tập hợp của những ngời khác nhau trong một thời gian
nhất định để làm luật, và khi đã hoàn thành công việc, họ sẽ lại tách ra,
trở lại là một thành viên của cộng đồng và chịu sự chi phối của những
luật mà mình làm ra, nh thế mới đảm bảo cho việc làm luật của họ là vì
lợi ích chung của toàn cộng đồng.
Trong một cộng đồng quốc gia, quyền lực lập pháp là thứ quyền
lực đầu tiên và quan trọng nhất, nhng những nhà lập pháp phải luôn
ghi nhớ rằng quyền lực của họ là do nhân dân uỷ thác, và sự uỷ thác đó
không phải là nhân dân trao tất cả các quyền của mình cho cơ quan lập
pháp, mà có một thứ quyền lực tối cao vẫn luôn luôn đợc lu giữ lại trong
cộng đồng, đó là quyền tự bảo toàn. Đó là quyền "cứu lấy chính mình tr-
ớc cố gắng hay mu đồ của bất kỳ ai, cho dù là các nhà lập pháp của họ,
vào bất kỳ lúc nào - khi mà những ngời này trở nên quá ngu xuẩn hay
quá độc ác"
(3)
, nhằm chống lại các quyền tự do và sở hữu của con ngời.
Khi ấy, quyền lực phải "đợc chuyển giao về tay những ngời đã trao nó
ra, để họ lại đặt nó vào nơi mà họ nghĩ là sẽ tốt nhất cho sự an toàn
và an

_____________
(1) John Locke: Sđd, tr. 195
(2) John Locke: Sđd, tr. 196
(3) John Locke: Sđd, tr.204
ninh của họ"
(1)
.
Trong chơng XII: Về cơ quan lập pháp, hành pháp và quyền liên
hiệp của cộng đồng quốc gia, Locke chỉ ra trong quyền lực tối cao của
cộng đồng xã hội, bên cạnh quyền lập pháp còn có quyền hành pháp và
quyền liên hiệp.
Bởi nếu nh cơ quan lập pháp không cần, và cũng không nên hiện
diện thờng xuyên thì việc thực hiện những đạo luật đã đợc làm ra lại
luôn cần tồn tại một cách thờng trực, đó chính là quyền hành pháp. Và
nh đã trình bày ở trên, nếu quyền lập pháp và hành pháp cùng nằm
trong tay một cá nhân hay một nhóm ngời nào đó thì có thể họ sẽ miễn
cho bản thân việc chấp hành các đạo luật, hay khiến cho cả quá trình
làm luật và thực hiện luật đều chỉ vì lợi ích của bản thân mình, nên hai
quyền lực này cần đợc trao vào những bàn tay khác nhau.
18
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Theo Locke, nếu nh trong một nhà nớc mà cơ quan lập pháp không
tồn tại thờng xuyên, một ngời nào đó nắm toàn quyền hành pháp và
cũng có quyền tham dự vào cơ quan lập pháp thì con ngời này, theo một
nghĩa có thể chấp nhận đợc, chính là quyền lực tối cao, bởi lẽ ông ta nắm
toàn quyền hành pháp, và bởi lẽ không có một cơ quan lập pháp cấp
trên nào có thể thông qua một đạo luật nếu không có sự đồng ý của ông
ta. Từ bản thân ông ta xuất phát ra thứ quyền cai trị của tất cả các
quan cấp dới, và các viên quan này cũng nh toàn thể dân chúng phải
tuyệt đối trung thành với ông ta, phải tuân thủ mọi ý chí của ông ta.

Nhng sự trung thành và sự tuân thủ này chỉ là một sự chấp hành luật
pháp không hơn không kém. Hành động của ông ta là dựa theo ý chí xã
hội, là thứ đã đợc minh định trong pháp luật, bởi vậy, ông ta không có ý
chí nào khác, quyền lực nào khác ngoài ý chí và quyền lực của luật
pháp. Nếu ông ta không thực hiện, hoặc thực hiện trái lại nhiệm vụ mà
cơ quan lập pháp đã uỷ nhiệm cho, nghĩa là ông ta đã tự giáng chức
mình, trở thành một thành viên của cộng đồng nh mọi thành viên khác,
và không còn bất cứ một quyền lực nào hơn những thành viên còn lại để
buộc họ phải tuân thủ theo ý chí của mình, khi mà bản thân họ chỉ duy
nhất phải tuân thủ theo ý chí chung của pháp luật.
Những cá nhân nắm quyền hành pháp phải luôn nhớ rằng
quyền lực của mình là do cơ quan lập pháp uỷ thác, để thực hiện cũng
nh giám sát sự thực hiện các đạo luật đã đợc ban hành. Và
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr.203
do quyền lực đó đợc cơ quan lập pháp trao cho, nên cơ quan lập pháp
cũng có quyền thu hồi nó lại khi nhận thấy sự yếu kém hay sự đi ngợc
lại luật pháp của quyền hành pháp, và trao lại cho một cá nhân hay tập
thể khác thích hợp hơn nắm giữ.
Còn một thứ quyền lực khác nữa của chính quyền đợc Locke đa ra,
đó là quyền liên hiệp, dù bản thân ông tự nhận là không quan tâm tới
việc đặt tên gọi cho nó. Ông cho rằng thứ quyền lực này "bao hàm quyền
lực về chiến tranh và hoà bình, tạo liên minh và lập đồng minh, cũng
nh tất cả mọi giao kết khác, với mọi cá nhân và cộng đồng, bên ngoài
cộng đồng quốc gia"
(1)
. Giải thích cho nguồn gốc của quyền liên hiệp,
Locke chỉ ra rằng trong trạng thái tự nhiên con ngời có những mối liên
hệ với các cá nhân khác, bởi vậy, khi đã liên kết lại với nhau thành xã
hội, thì cái cơ thể chính trị mới này - tức là cộng đồng quốc gia, cũng

phải có những mối liên hệ với các cá nhân hoặc với những cơ thể chính
trị - cộng đồng quốc gia khác.
Theo Locke, quyền liên hiệp có tầm quan trọng to lớn đối với cộng
đồng quốc gia, hơn thế, lại rất khó để có thể điều chỉnh hoạt động của nó
theo những luật xác thực đã đợc cơ quan lập pháp thông qua, do những
biến đổi thờng xuyên trong hành động, ý đồ và quyền lợi của những ngời
nớc ngoài, nên cần phải trao nó vào tay một cá nhân cụ thể thông thái
và cẩn trọng.
Về quyền liên hiệp này, nhiều nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng
nó không có ý nghĩa thực tiễn trong bộ máy nhà nớc. Nhng chúng em
không nghĩ nh thế, nhất là xét trong hoàn cảnh thế giới hiện nay: khi xu
thế toàn cầu hoá, hợp tác quốc tế đang ngày càng đợc tăng cờng, ranh
19
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
giới giữa các quốc gia ngày càng bị xoá nhoà, và sau các cuộc chiến
tranh "bất hợp pháp" của Mỹ ở Afghanistan năm 2001, ở Iraq năm
2003 thì theo chúng em, việc quan tâm tới quyền liên hiệp đang là
một yêu cầu quan trọng của tổ chức bộ máy nhà nớc trong thời đại ngày
nay.
Theo Locke, dù quyền hành pháp và quyền liên hiệp rất khác
nhau, vì một thứ là sự thực thi các đạo luật đã có ở bên trong cộng đồng
quốc gia đối với những thành viên của nó, còn một thứ là sự bảo đảm an
ninh và lợi ích của các cá nhân cũng nh toàn thể cộng đồng trong mối
liên quan bên ngoài với các cá nhân và cộng đồng khác, nhng thực chất
chúng luôn thống nhất với nhau. Ông viết: _____________
(1) John Locke: Sđd, tr.201
"quyền hành pháp và quyền liên hiệp của mỗi cộng đồng thực sự phân
biệt với nhau, những chúng khó mà bị chia tách và cùng lúc
đặt vào tay của những cá nhân khác nhau. Vì cả hai quyền lực này đều
cần đến vũ lực của xã hội cho việc thực thi chúng, nên hầu nh phi thực

tế nếu đặt vũ lực của cộng đồng quốc gia vào những bàn tay riêng biệt
và không phụ thuộc nhau, hay đối với cơ quan hành pháp và quyền lực
liên hiệp phải đợc đặt vào những cá nhân có thể hành động tách rời
nhau, và theo đó mà sức mạnh cỡng bức của dân chúng sẽ đợc đặt dới
những mệnh lệnh khác nhau, là điều có khuynh hớng gây ra sự hỗn loạn
và phá hoại, vào lúc này hay lúc khác"
(1)
.
Quay lại với cơ quan lập pháp, về thời điểm nhóm họp và hoạt
động của cơ quan quyền lực tối cao này, Locke đa ra hai phơng án: thứ
nhất là thời điểm này đợc ấn định rõ ràng trong hiến pháp gốc, và cơ
quan hành pháp chỉ phải điều hành cụ thể việc bầu chọn và hội họp của
cơ quan lập pháp theo đúng quy định; thứ hai là cơ quan hành pháp,
bằng sự cân nhắc thận trọng của mình, tiến hành tuyển cử hay triệu tập
cơ quan lập pháp, khi nhận thấy đòi hỏi phải tu chỉnh, sửa đổi những
luật cũ hay ra những luật mới, hoặc khi nhận thấy những hiểm nguy
đang đe doạ nhân dân.
Việc trao quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập pháp cho cơ
quan hành pháp không phải là trao một vị thế cao hơn cho nó. Đó đơn
giản chỉ là niềm tin đợc uỷ thác cho nó, vì lợi ích cao nhất của nhân dân.
Có thể cần ban hành ngay một điều luật mới, có thể cần sửa đổi hay bãi
bỏ ngay một điều luật cũ, có thể cần qiải quyết một vấn đề khẩn cấp của
cộng đồng, cũng có khi là không có việc gì cần tới cơ quan lập pháp ,
mà thời gian hội họp của cơ quan lập pháp đợc ghi nhận trong hiến pháp
là không hợp lý ở hoàn cảnh đó, bởi vậy, một cá nhân luôn luôn hiện
diện, có nhiệm vụ canh giữ cho lợi ích công, đợc nắm quyền triệu tập
hay giải tán cơ quan lập pháp là phơng cách tốt nhất có thể tìm đợc cho
khiếm khuyết này.
Một câu hỏi đợc đặt ra là phải làm sao khi cơ quan hành pháp, với
vũ lực của toàn thể cộng đồng trong tay, sử dụng nó để cản trở việc

hội họp và hoạt động của cơ quan lập pháp ? Locke khẳng định rằng
hành động đó của cơ quan hành pháp là trái với thẩm quyền và nhiệm
vụ đã đợc uỷ thác cho nó, và hơn thế, khi dùng sức mạnh để chống lại
nhân dân thì đây đã là trạng thái chiến
20
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
_____________
(1) John Locke: Sđd, tr. 202
tranh đối với nhân dân, và nhân dân có đầy đủ lý do cũng nh thẩm
quyền để xoá bỏ sức mạnh ấy đi bằng vũ lực.
Locke khẳng định rằng cơ quan hành pháp - dù khi đã nắm giữ
luôn quyền liên hiệp, và có quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập
pháp, thì vị trí của nó vẫn không cao hơn, nó vẫn luôn chỉ là quyền lực
đợc uỷ thác để thực thi các đạo luật của cơ quan lập pháp. Nhng không
phải lúc nào cơ quan hành pháp cũng phải nhất nhất tuân thủ theo
quyết định và luật pháp của cơ quan hành pháp, mà trong một số trờng
hợp nó có thể giải quyết tự do theo ý chí riêng của nó. Locke gọi đó là
đặc quyền hành động của cơ quan hành pháp. Có đặc quyền này bởi
không phải lúc nào cơ quan lập pháp cũng có thể nhìn nhận thấy trớc
những vấn đề xã hội cần phải điều chỉnh trong tơng lai để có luật thích
ứng, nên khi ấy cơ quan hành pháp phải hành động theo ý mình, nhng
mục đích cuối cùng cần đạt đợc là lợi ích cao nhất của nhân dân. Cũng
vì mục đích này, trong một số trờng hợp khác, cơ quan hành pháp có thể
giải quyết các sự vụ khác với quy định trong pháp luật, thậm chí là đi
ngợc lại, bởi sự khắc nghiệt của luật pháp không phải lúc nào cũng
đúng, Locke cho ví dụ của trờng hợp này là: không cho kéo sập nhà của
một ngời vô can để dừng ngọn lửa lại khi căn nhà bên đang cháy; do vậy,
việc làm này trái với quy định của pháp luật thực định nhng lại phù hợp
với pháp luật tối cao, chính là lợi ích của nhân dân, nh câu nói nổi tiếng
của nhà luật học Lamã Cicéron: "Salus populi suprema lex - Hạnh

phúc của nhân dân là pháp luật tối cao".
Trong những dòng cuối cùng của tác phẩm, Locke đa ra một câu
hỏi: Vậy ai sẽ là ngời phán xét rằng quốc vơng hay cơ quan lập pháp có
hành động trái với sự uỷ thác đã đợc đặt vào họ hay không ? Locke
khẳng định: đó chính là nhân dân. Ông cho rằng khi có tranh cãi giữa
quốc vơng với một số ngời dân khi pháp luật không có quy định rõ ràng,
hay khi vấn đề tranh cãi có hậu quả lớn thì ngời trọng tài thích hợp
nhất phải là cơ quan quyền lực của nhân dân, bởi ai sẽ là ngời phán xét
rằng một ngời đợc uỷ nhiệm có hành động tốt và theo đúng sự uỷ nhiệm
hay không thích hợp hơn chính ngời đã uỷ nhiệm ? Nhng nếu quốc vơng
phản đối cách giải quyết của cơ quan quyền lực nhân dân thì việc cáo
kiện buộc phải "đa đến trời cao", mà ở đây có thể hiểu là việc sử dụng
bạo lực và cách mạng để lật đổ ông vua ấy đi, để thay thế cái hình thức
chính quyền cũ ấy đi, bằng những con ngời mới, những hình thức mới
mà nhân dân cho là tốt đẹp nhất.
Tóm lại, qua tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền hay còn
có tựa đề phụ là Luận về Nguồn gốc, Phạm vi và Mục đích chân chính
của chính quyền dân sự của Locke, ta có thể khẳng định t tởng phân
quyền của Locke là một bớc phát triển hơn hẳn so với các học giả thời kỳ
cổ đại Hy Lạp - Lamã. Tuy vẫn còn một số điểm hạn chế, mà chủ yếu là
cha phân tách quyền t pháp ra độc lập với quyền hành pháp, nhng t t-
ởng phân chia quyền lực của Locke vẫn là nền tảng đầu tiên vững chắc
cho các học giả t sản về sau tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
21
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Charles Louis Montesquieu ( 1689 - 1755 ):
Bàn về Tinh thần pháp luật ( De L'esprit des Lois ) - viên ngọc
sáng trong kho tàng lý luận về khoa học pháp lý cũng nh triết học và
nhiều môn khoa học xã hội khác của nhân loại, là tác phẩm đồ sộ nhất
và cũng là tác phẩm xuất sắc nhất của ngời tiên phong cho phong trào

Khai sáng Pháp Charles Louis Montesquieu. Đây chính là nơi ông thể
hiện một cách sâu sắc toàn bộ t tởng của mình.
Thành tựu to lớn nhất của Bàn về Tinh thần pháp luật chính là t
tởng phân chia quyền lực, bởi vậy khi nhắc đến Bàn về Tinh thần pháp
luật là ngời ta nghĩ ngay đến t tởng phân quyền, và bởi sự xuất sắc của
Montesquieu trong tác phẩm kinh điển này mà khi nhắc đến t tởng
phân quyền, ngời ta cũng sẽ nghĩ ngay đến Bàn về Tinh thần pháp luật.
T tởng này của Montesquieu đợc tập trung thể hiện trong quyển 11, ch-
ơng 6: Hiến pháp nớc Anh, mà ta có thể dễ dàng nhận ra nhiều sự tiếp
thu, kết nối với t tởng phân quyền của Locke trong Khảo luận thứ hai về
chính quyền.
Ngay từ dòng đầu tiên của chơng này, Montesquieu đã khẳng
định: "Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp,
quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành
những điều trong luật dân sự.
Với quyền lực thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các thứ
luật cho một thời gian hay vĩnh viễn, và huỷ bỏ hay sửa đổi các luật này.
Với quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định việc hoà hay chiến, gửi
đại sứ đi các nớc, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lợc.
Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm,
phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Ngời ta sẽ gọi đây là quyền t
pháp, vì trên kia là quyền hành pháp quốc gia"
(1)
.
Ta có thể nhận ra ngay sự tiến bộ hơn hẳn trong t tởng phân
quyền của Montesquieu so với t tởng của Locke, khi đã tách quyền lực
xét xử - quyền t pháp ra độc lập với các thứ quyền lực khác.
Theo Montesquieu, một nhà nớc tự do hoàn hảo là một nhà nớc mà
ba thứ quyền lực này đợc phân chia và đợc đặt vào tay những cá nhân,
tổ chức khác nhau: "Tự do chính trị chỉ có đợc khi không có sự lạm

dụng quyền lực. Nhng kinh nghiệm muôn đời chỉ ra cho chúng ta rằng
bất kỳ ai khi đợc trao quyền lực là sẽ có khuynh hớng lạm dụng quyền
lực ấy, và sẽ tăng quyền lực của anh ta lên đến hết mức Để ngăn chặm
sự lạm dụng này, điều cần thiết rất tự nhiên là quyền lực phải đợc ngăn
cản ( kiềm chế ) bởi quyền lực"
(2)
.
Về nguyên nhân của sự phân quyền, ông viết:
"Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay
một ngời hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì
ngời ta sợ rằng chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi
hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền t pháp
không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền t pháp
nhập lại với quyền lập pháp thì ngời ta sẽ độc đoán đối với quyền sống
và quyền tự do của công dân, quan toà sẽ là ngời đặt ra luật. Nếu quyền
22
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
t pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà sẽ có cả sức mạnh
của kẻ đàn áp.
Nếu một ngời hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc,
hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ
mất hết"
(3)
.
Nguyên nhân này, so với nguyên nhân do Locke đa ra về cơ bản là
giống nhau, bởi đều xuất phát từ luận đề: ngời nắm quyền luôn có xu h-
ớng lạm quyền, nên muốn chống sự lạm quyền đó để
_____________
(1) Charles Louis Montesquieu: Bàn về Tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2006, tr.105

(2) TS Nguyễn Thị Hồi: Sđd, tr.75
(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân thì phải tổ chức và phân chia
quyền lực sao cho đảm bảo "quyền lực ngăn cản quyền lực". Thực tế lịch
sử đã chứng minh: xu hớng lạm quyền của nhà cầm quyền là rất phổ
biến khi các quyền lực không đợc phân tách rõ ràng. Chính bản thân
Montesquieu đã đa ra rất nhiều minh chứng cho hiện tợng này.
Ông cho rằng ở phần lớn các nớc châu Âu, khi nhà vua nắm quyền
lập pháp, hành pháp và nhờng quyền t pháp cho nhân dân thì việc cai
trị còn có mức độ; nhng ở các nhà nớc mà quyền lực bị thâu tóm toàn bộ
trong tay một ngời hay một nhóm ngời thì "nền chuyên chế nghiệt ngã
đè lên đất nớc"
(1)
. Và ông nghiên cứu khá kỹ các nhà nớc cộng hoà Italia
- những biểu hiện của việc quyền lực tập trung trong tay một tập đoàn
quý tộc. Theo ông, nhân dân trong các nhà nớc này có ít quyền tự do hơn
nhiều so với trong các nớc quân chủ châu Âu. Ông khẳng định: "ở đây,
tất cả quyền lực chỉ là một. Tuy bề ngoài chẳng có sự phô trơng gì của
ông vua chuyên chế, mà ngời ta vẫn cảm thấy sự chuyên chế vào bất cứ
lúc nào"
(2)
. Nhng sự chuyên chế của những nhà nớc cộng hoà này không
giống hẳn chính thể chuyên chế ở châu á, ví dụ nh ở Cộng hoà Venise có
sự phân quyền tơng đối, khi Đại hội đồng có quyền lập pháp, các đại quý
tộc Prégadi nắm quyền hành pháp, và nắm quyền t pháp là các quý tộc
Quaranties; nhng cái dở ở nhà nớc Venise này là: tuy có sự phân quyền,
nhng mọi cơ quan này đều nằm trong tay tầng lớp quý tộc, nên cả ba
quyền lập pháp, hành pháp và t pháp thực chất cũng chỉ là một thứ
quyền lực mà thôi, thực chất là chẳng có một sự phân quyền nào cả. Và
ông chỉ ra cái tai hại của nhà nớc ấy: "cơ quan cầm quyền vừa là kẻ thi

hành luật vừa tự cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia
bằng những ý chí chung sai lầm của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử
nữa thì họ có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ"
(3)
.
Cũng giống nh Locke, Montesquieu đặc biệt chú trọng tới cơ quan
lập pháp, dù ông hoàn toàn không thừa nhận rằng đây là cơ quan
quan trọng nhất, có khả năng uỷ thác quyền lực để hình thành nên các
cơ quan khác nh trong học thuyết của Locke.
_____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.106
(2)(3) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.107
Theo ông, trong một nớc tự do thì mọi ngời dân cũng đợc tự do, và
do đó họ có quyền tự quản, bởi vậy, dân chúng phải nắm quyền lập
23
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
pháp. Nhng theo ông, nếu mọi ngời dân đều tham gia vào công việc lập
pháp, nh trong Hội nghị công dân của các nhà nớc dân chủ thời cổ đại
thì hoàn toàn không thích hợp, vì họ thờng đòi hỏi thực hiện những việc
mà bản thân họ và cộng đồng không đủ sức làm Bởi vậy, tốt nhất dân
chúng chỉ nên tham gia vào công việc của nhà nớc bằng cách bầu chọn
đại biểu của mình. Và cơ quan đại biểu dân chúng cũng không nên giải
quyết các công việc cụ thể, vì họ không thể làm tốt điều này, họ chỉ nên
làm ra luật, và xem xét ngời ta thực thi những luật này ra sao.
Về tổ chức của cơ quan lập pháp - cơ quan đại biểu nhân dân,
Montesquieu cho rằng nó nên gồm hai viện: Viện quý tộc và Viện thứ
dân.
Nguyên nhân của việc cần có hai nghị viện riêng biệt, theo ông là
do trong xã hội có những ngời mà dòng giống, của cải hoặc danh vọng
của họ nổi bật lên trên những ngời khác, nên nếu trong cuộc bầu cử họ

chỉ có đợc một phiếu bầu nh các công dân khác thì sự tự do chung là
xiềng xích nô lệ đối với họ, bởi phần lớn các quyết nghị chung sẽ chống
lại họ. Bởi vậy, những ngời này cần phải có một cơ quan đại diện riêng
bên cạnh cơ quan đại diện dân chúng, để bảo vệ quan điểm và lợi ích của
mình. Ngoài ra, theo ông, quyền lập pháp cần phải có một uy lực điều
chỉnh để dung hoà, nên cơ quan lập pháp gồm hai viện riêng biệt là một
cơ chế thật thích hợp để phát huy sự dung hoà này.
Quan điểm này là một hạn chế của Montesquieu, bởi chính bản
thân ông cũng là một nam tớc - nam tớc De La Brède. Nhng cách thức
hoạt động của các viện này đợc ông đa ra lại là sự tiến bộ rất rõ ràng.
Theo ông, cơ quan đại diện quý tộc có thể đình chỉ dự định của cơ quan
đại diện dân chúng, cũng nh cơ quan đại diện dân chúng có thể ngăn
cản các quyết định từ cơ quan đại diện các nhà quý tộc. Montesquieu
chia quyền lập pháp ra làm hai chức năng: chức năng quy định và chức
năng ngăn cản. Trong đó, "chức năng quy định là quyền tự mình ra
lệnh, hoặc tự mình sửa lại điều mà ngời khác ra lệnh"; còn "chức năng
ngăn cản là quyền làm cho quyết định của ngời khác trở thành vô
hiệu"
(1)
. Theo ông, Viện quý tộc chỉ đợc _____________
(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.113
tham gia vào công việc lập pháp với chức năng ngăn cản chứ không có
chức năng quy định, tức là chỉ có quyền phủ quyết hoặc chuẩn y các
quyết định của Viện thứ dân mà không đợc sửa đổi quyết định đó, hoặc
đa ra một quyết định khác. Nguyên nhân của việc này, theo ông là do
Viện quý tộc có hình thức cha truyền con nối, mà lại đợc lập nên để bảo
vệ đặc quyền của một nhóm ngời, nên có thể nó sẽ chỉ biết đến lợi ích
riêng t của mình mà quên đi lợi ích chung của cả cộng đồng.
Về hoạt động của các đại biểu dân chúng trong cơ quan lập pháp,
theo Montesquieu, các đại biểu này là ngời đã nhận đợc ý kiến chung

của những ngời bầu ra họ, là đại diện cho ý chí của các cử tri, nên không
nhất thiết mọi việc đều phải hỏi ý kiến dân chúng. Ông thừa nhận làm
nh thế mới đảm bảo đợc quyền tự do và dân chủ của nhân dân, nhng
nh vậy thì công việc sẽ kéo dài vô tận, và trong những trờng hợp cấp
bách thì lối làm việc này sẽ làm ngng trệ cả quốc gia, hay thậm chí là
huỷ diệt nó. Và ông đa ra cách làm mà ông cho là hợp lý nh ở quốc hội
Hà Lan, khi các đại biểu chỉ phải báo cáo lại công việc với các cử tri.
24
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Về cách thức bầu cử cơ quan lập pháp, Montesquieu cho rằng ngời
dân biết rõ nhu cầu của thành phố mình hơn là của các thành phố khác,
hiểu năng lực của ngời láng giềng mình hơn là láng giềng của ngời khác,
nên dân chúng ở mỗi địa phơng phải đợc chọn ra một ngời đại biểu, chứ
không nên tiến hành bầu cử chung trong cả nớc.
Về tinh thần của ngời lập pháp, đợc ông nêu lên trong Chơng 1,
Quyển 29, và đợc khẳng định lại bởi một chính khách Pháp về sau là
Abel Francois Villemain thì: "Luật phải thật vô t, không thiên vị. Chính
ngời lập pháp phải vô t để không ghi tham vọng của mình vào tác phẩm
luật"
(1)
. Và Montesquieu nhấn mạnh lại quan điểm chính phủ phải
"trung dung" của Aristote trong quyển 1, sách Politics: "Một chính phủ
càng xa đảng phái và càng gắn với phơng sách trung dung thì càng đợc
vững vàng. Nhiều nhà lập pháp trong chính thể quý tộc đã cho ngời
giàu quá nhiều và rút bớt của ngời nghèo cũng quá nhiều. Lầm lẫn đa
tới cái xấu xa thực sự; u thế của nhà giàu đánh đổ chính phủ nhiều hơn
là u thế của ngời nghèo, của muôn dân"
(2)
. Có thể nhận thấy đây là một
_____________

(1) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.228
(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.228
quan điểm rất tiến bộ của Montesquieu, nhng tiếc là ông lại không chỉ
ra làm sao để có đợc sự "vô t" và "trung dung" ấy, nên ta chỉ có thể
phỏng đoán dựa trên t tởng của ông rằng, theo ông, cái mà một nhà lập
pháp khôn ngoan cần có chính là "đức hạnh" và trí thông minh.
Về thời điểm họp bàn của cơ quan lập pháp, ông khẳng định nếu
trong thời gian dài mà cơ quan này không nhóm họp thì cũng sẽ không
có tự do nào hết, bởi hoặc nhà nớc sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ do
không có nghị quyết lập pháp mới phù hợp hoàn cảnh, hoặc cơ quan
hành pháp sẽ nắm lấy và thao túng các nghị quyết lập pháp cũ, dẫn đến
tình trạng chuyên chế. Nhng cơ quan lập pháp họp liên tục thì cũng bất
hợp lý. Thứ nhất nó là sự bất tiện với các đại biểu. Thứ hai nó là khó
khăn cho cơ quan hành pháp, bởi sẽ mãi chỉ lo bảo vệ quyền hạn chuyên
trách của mình mà không lo đợc việc chấp hành các đạo luật. Và cuối
cùng, nếu nh nghị viện rơi vào tình trạng sa đoạ thì thật là vô phơng
cứu chữa, bởi nó luôn hiện diện nên nhân dân sẽ nhận thấy ngay sự bại
hoại của cơ quan lập pháp, nhận thấy ngay sự vô nghĩa ở pháp luật, họ
sẽ tức giận mà nổi loạn, hoặc thờ ơ, hững hỡ với công việc quốc gia.
Vậy là cơ quan lập pháp phải có thời gian họp bàn nhất định, và
sau thời gian đó nó phải giải tán. Nhng sự triệu tập và triển hạn của cơ
quan này sẽ diễn ra nh thế nào ?
Theo Montesquieu, cơ quan lập pháp không nên tự mình triệu tập
lấy mình mà cơ quan hành pháp, tuỳ theo hoàn cảnh mà nó cho là hợp
lý, sẽ quyết định thời gian và thời hạn họp bàn của nghị viện.
Vậy nghị viện có quyền tự triển hạn cho mình hay không ? Nếu nh vậy
thì có thể nó sẽ không bao giờ tự triển hạn cả, và nh thế thật là nguy
hiểm khi nghị viện có ý định công kích cơ quan hành pháp. Và
Montesquieu lại nhấn mạnh rằng ở nớc Anh, nhà vua - ngời nắm quyền
hành pháp có thể triển hạn nghị viện và tổ chức bầu cử nghị viện mới;

nhng ông cũng không loại trừ hình thức xác định nhiệm kỳ của nghị
viện bằng Hiến pháp.
25
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
Về quyền hành pháp, Montesquieu cho rằng nó phải nằm trong
tay một vị vua chúa, bởi bản thân quyền hành pháp luôn cần đến những
hành động tức khắc, kịp thời, mà nếu phải qua một cuộc họp bàn thì
quyết định đa ra thờng đã muộn hơn yêu cầu thực tế. Ông cũng khẳng
định cần phải có một vị vua, bởi vua nắm quyền bằng con đờng thế tập
chứ không phải do đợc bầu chọn ra; nếu cá nhân hành pháp lại đợc nghị
viện bầu ra thì đó thờng là ngời trong nghị viện, và nh thế thì sẽ chẳng
còn tự do nữa, bởi hai quyền lập pháp và hành pháp đã nhập lại với
nhau, con ngời hành pháp ấy có thể nhúng tay vào cả quyền này lẫn
quyền kia.
Nh đã nói ở trên, theo Montesquieu, nhà vua có quyền triệu tập
và triển hạn nghị viện, tuỳ theo hoàn cảnh mà vua thấy thích hợp. Còn
về quyền ngăn cản giữa hai cơ quan này thì sao? Theo Montesquieu, cơ
quan lập pháp không có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp, do hành
pháp có những đặc điểm riêng của nó, mà ở đây có thể hiểu là ông muốn
nói đến "đặc quyền hành động" của cơ quan hành pháp, nh theo quan
điểm của Locke. Nhng cơ quan hành pháp phải có quyền ngăn cản cơ
quan lập pháp, bởi nếu không cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên
chế, sẽ tạo ra những đạo luật để tự ban cho mình mọi thứ quyền hành,
và xoá bỏ các quyền lực khác. Ông khẳng định: "quyền lực hành pháp
phải vận dụng chức năng ngăn cản để tham gia việc lập pháp, nếu
không nó sẽ bị tớc mất u quyền. Nhng trái lại, nếu quyền lực lập pháp
tham gia vào việc hành pháp thì quyền hành pháp sẽ bị thủ tiêu"
(1)
.
Về sự tham gia của quyền hành pháp vào chức năng lập pháp, ông chỉ

rõ: "Quyền hành pháp chỉ tham gia việc lập pháp bằng chức năng ngăn
cản, chứ không chen vào bàn cãi công việc, mà cũng không phải làm các
kiến nghị"
(2)
. Và ông lấy ví dụ trong các nớc cộng hoà thời kỳ cổ đại,
trong các cuộc Hội nghị nhân dân, nhà nớc phải có quyền đa ra kiến
nghị và cùng bàn cãi với dân, nếu không thì quyết nghị cuối cùng sẽ có
sự hỗn độn, xa lạ với chính thể, bởi dân chúng không phải lúc nào
cũng hiểu hết đợc đất nớc bằng những nhà cầm quyền.
Nhng nếu nh cơ quan lập pháp không có quyền ngăn cản hoạt
động của cơ quan hành pháp, nhng nó vẫn phải có chức năng xem xét
các đạo luật do nó ban hành đã đợc thực thi nh thế nào, nh thế mới đảm
bảo cho sự tự do của công dân. Nhng nh thế thì nó cũng không có quyền
xét xử con ngời hành pháp, bởi cá nhân con ngời hành pháp là bất khả
xâm phạm, ông ta là cần thiết cho quốc gia; nếu cơ quan lập pháp xâm
phạm tới ông ta thì có nghĩa là nó đã trở thành chuyên chế, và nh vậy
cũng không còn có tự do gì nữa cả.
Montesquieu còn chỉ ra một vài vấn đề quan trọng trong hoạt động
của hai cơ quan này, là vấn đề thu thuế, và vấn đề quân đội.
_____________
(1)(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.117
Đầu tiên là vấn đề thu thuế. Ông khẳng định đây phải là công việc
của cơ quan lập pháp mà cơ quan hành pháp không thể can thiệp vào,
do đó là : "điểm quan trọng nhất của việc lập pháp"
(1)
. Ông còn cho rằng
cơ quan lập pháp không nên quy định việc thu thuế một cách vĩnh viễn
26
Trờng Đại Học Luật Hà Nội Công trình nghiên cứu khoa học
bởi nh thế thì cơ quan hành pháp cũng không còn phụ thuộc vào cơ quan

lập pháp nữa, và tự do của công dân cũng sẽ biến mất.
Còn về vấn đề quân đội, Montesquieu cho rằng nó phải nằm dới sự
quản lý của cơ quan hành pháp chứ không phải của cơ quan lập pháp,
nh thế mới hợp với bản chất của quân đội là hành động chứ không phải
là bàn cãi. Nhng "để cho ngời hành pháp không áp bức đợc dân chúng
thì quân đội trong tay cơ quan hành pháp phải mang tính nhân dân,
cùng lòng với dân", "và muốn đợc nh vậy thì chỉ có hai cách: hoặc là
những ngời tham gia quân đội phải có tài sản bảo đảm tính mạng của
mình trớc các công dân khác và chỉ tòng quân trong thời hạn một năm;
hoặc là có một quân đội thờng trực mà quân nhân thuộc tầng lớp thấp
kém nhất trong nớc, để cơ quan lập pháp muốn giải tán nó lúc nào
cũng đợc. Binh sĩ thờng trực này ở ngay trong dân chúng, không có
doanh trại hay đồn luỹ tách biệt với dân"
(2)
.
Còn về thứ quyền lực cuối cùng, quyền t pháp, Montesquieu cho
rằng nó không nên đợc giao cho một cơ quan hay một cá nhân cụ thể,
thờng trực nh hai quyền lực kia, mà do một đoàn thể dân chúng đợc cử
ra trong một thời gian ngắn do luật định. Làm nh thế thì thứ quyền
lực đáng sợ với ngời đời này mới không phải là một sự hữu hình, nh
thế ngời ta mới sợ cơ chế cai trị chứ không phải là sợ các quan cai trị.
Nghiêng theo cơ cấu tổ chức nhà nớc của Anh, ông cho rằng quyền
t pháp không nên kết hợp với bộ phận nào của quyền lập pháp, nhng
vẫn có những trờng hợp ngoại lệ đặc biệt.
Thứ nhất, khi ngời bị xét xử thuộc tầng lớp quý tộc, nếu giao cho
dân chúng xét xử thì thờng do bị ganh ghét mà bị xử sai lệch, hơn thế,
ngời này lại không đợc hởng quyền cơ bản của công dân là chỉ bị xét xử
bởi những ngời ở cùng đẳng cấp với mình, bởi vậy, trong trờng hợp này,
Viện quý tộc sẽ nắm quyền xét xử.
_____________

(1)(2) C.L. Montesquieu: Sđd, tr.118
Thứ hai, Viện quý tộc nên xem xét các vụ án mà điều chỉnh cho
khi tuyên án, bản án do các quan toà đa ra bớt phần khắc nghiệt và
không mù quáng theo luật một cách máy móc.
Thứ ba, khi một viên chức nhà nớc vi phạm quyền của dân chúng,
gây tội ác với nhân dân, thì Viện thứ dân sẽ tố cáo lên Viện quý tộc, và
bộ phận trong Viện quý tộc không có chung quyền lợi hay ý đồ với cả hai
bên sẽ nắm quyền xét xử.
Quan điểm này của ông có những hạn chế nhất định khi vẫn chủ
trơng đề cao các đặc quyền của tầng lớp quý tộc phong kiến, nhng mặt
khác vẫn có điểm tiến bộ, khi đề cao thủ tục đàn hạch, đảm bảo sự phụ
thuộc của cơ quan hành pháp vào cơ quan lập pháp.
Nói tóm lại, qua tác phẩm Bàn về Tinh thần pháp luật của
Montesquieu, ta có thể nhận thấy một bớc phát triển mới của t tởng
phân chia quyền lực, khi tác giả đa ra quan điểm phân tách các quyền
lập pháp, hành pháp và t pháp một cách triệt để, có sự giám sát, kiềm
chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực, và ngay giữa các cơ quan
trong cùng một nhánh quyền lực với nhau, nhằm ngăn chặn sự lạm
27

×