Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.23 KB, 4 trang )
Nguy cơ mắc bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính là rất cao
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hay COPD, là tình trạng tắc nghẽn
được dẫn khí lâu ngày kèm với viêm phế quản mạn, khí phế thủng, hay cả
hai. Tình trạng tắc nghẽn này tăng dần theo thời gian.
Viêm phế quản mạn tính được định nghĩa là tình trạng ho kéo dài
không gây ra bởi những nguyên nhân khác và có đàm từ 3 tháng trở lên mỗi
năm trong vòng 2 năm liên tiếp.
Ở bệnh viêm phế quản mạn tính, các tuyến tiết nhầy ở phổi trở nên
lớn hơn. Đường dẫn khí bị viêm và thành phế quản dày lên. Những thay đổi
trên và sự biến mất của các phế nang gắn với chúng làm giới hạn thông khí
do các thành ống dẫn khí bị méo mó và lòng ống dẫn khí bị hẹp lại.
Khí phế thủng là tình trạng tăng kích thước vĩnh viễn một cách bất
thường của các túi khí (phế nang) nằm ở cuối đường dẫn khí của phổi. Khí
phế thủng cũng phá hủy thành của các phế nang.
Có 3 dạng khí phế thủng: khí phế thủng trung tâm, khí phế thủng toàn
thể và khí phế thủng ngoại biên.
Tại Hoa Kỳ, có khoảng 14.2 triệu người được chẩn đoán là COPD,
12.5 triệu người bị viêm phế quản mạn tính, và 1.7 triệu người bị khí phế
thủng. Người ta ước lượng rằng cũng có chừng đó người tại Hoa Kỳ bị
COPD nhưng chưa được phát hiện ra. Số người bị COPD đã gia tăng 41.5%
tính từ năm 1982.
- Gần 8 - 17% nam giới Mỹ và 10-19% phụ nữ Mỹ bị tắc nghẽn
đường dẫn khí mạn tính. Sự tắc nghẽn này làm giảm dòng khí lưu thông qua
phổi khi thở ra. Trong suốt 1 thập kỷ trước, số phụ nữ bị COPD đã tăng
khoảng 30%.