Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.75 KB, 5 trang )
Nguy cơ từ bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là một bệnh phổ biến trên thế giới. Theo
một thống kê gần đây ở Hoa Kỳ có khoảng 14 triệu người mắc bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính; ở châu Âu, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính từ 23-41% ở
những người nghiện thuốc lá, tỷ lệ nam/nữ là 10/1; Bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính gây tử vong đứng hàng thứ 5 trong các nguyên nhân gây tử vong trên thế
giới, tại Pháp tử vong do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là 20.000 người/năm.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là một bệnh có đặc điểm tắc
nghẽn lưu lượng khí thở ra thường xuyên bị hạn chế không hồi phục hoặc chỉ hồi
phục một phần, tiến triển, thường có tăng phản ứng đường thở, do viêm phế quản
mạn tính và khí phế thũng gây ra, có thể coi BPTNMT là một loại bệnh do biến
chứng của viêm phế quản mạn tính, khí phế thũng và hen phế quản ở mức độ
không hồi phục. Cần được coi là loại bệnh mạn tính nặng, để có biện pháp phòng
và điều trị sớm. Chẩn đoán BPTNMT khi có tắc nghẽn đường thở cố định do viêm
phế quản mạn tính và khí phế thũng gây ra, hen phế quản có tắc nghẽn đường thở
cố định không hồi phục cũng gọi là BPTNMT.
Biểu hiện bệnh: chủ yếu gặp 2 thể của BPTNMT:
- Thể khí phế thũng chiếm ưu thế, có đặc điểm: người gầy, khó thở, môi
hồng do giãn phế nang, khó thở là chủ yếu, khó thở trước rồi sau mới ho, ho ít
khạc đờm, ít bị nhiễm khuẩn phế quản, tâm phế mạn xuất hiện muộn, thường bị ở
giai đoạn cuối, phù không rõ, ngực hình thùng, rút lõm cơ ức đòn chũm, gõ vang,
phổi rì rào phế nang giảm. Đo thông khí phổi, khí cặn tăng rõ. Khí máu bình
thường, chỉ giảm PaO2 nhẹ.
- Thể viêm phế quản mạn tính chiếm ưu thế, thường ở người béo bệu, tím
tái ngoại biên, ho khạc đờm nhiều năm rồi mới khó thở, khó thở nhanh, nhịp tim
nhanh, hay có nhiễm khuẩn phế quản, hay gặp những đợt suy hô hấp, tâm phế mạn
xuất hiện sớm: phù mắt cá chân, gan to, tĩnh mạch cổ nổi, hay kèm theo hội chứng