Đổi mới tư duy hay đổi mới cơ chế
Nhiều người so sánh giai đoạn hiện nay với giai đoạn đổi mới trước đây,
và chờ đợi những tư duy đột phá để nền kinh tế bước sang một giai đoạn
mới. Tuy nhiên, lối tư duy mong đợi một “tư duy đổi mới”, dù tư duy ấy
có thể gồm một bộ ý tưởng được suy nghĩ, cân nhắc kỹ càng, có vẻ vẫn
thuộc về lối tư duy cũ.
Đổi mới tư duy?
Điều này có lẽ bắt nguồn từ kinh nghiệm của giai đoạn Đổi mới trước
đây. Trong bối cảnh trước khi có cải cách kinh tế ở Việt Nam, nền kinh
tế nước ta tương đối đơn giản, tập trung và tuyến tính. Đến thời điểm
này,nền kinh tế đã trở nên phức tạp, phân tán, đa dạng hơn rất nhiều do
kết quả của quá trình thị trường hóa và quốc tế hóa liên tục trong hai
thập kỉ qua. Vì thế, để tiếp tục cải cách nền kinh tế lúc này, có lẽ cần
một cách đặt vấn đề khác.
Vì bản chất của môi trường kinh tế và xã hội hiện nay đã mang khá đậm
tính chất của nền kinh tế thị trường, với luồng thông tin cùng sự kiện
diễn biến với quy mô lớn, liên tục và phức tạp, nên sự đổi mới cũng cần
phải diễn ra liên tục, chứ không thể diễn ra theo kiểu một lần như trước
đây nữa. Do đó, vấn đề không phải đi trả lời câu hỏi “tư duy mới là gì?”
mà là làm thế nào để các tư duy mới liên tục được sản sinh.
Với cách đặt vấn đề như vâỵ có lẽ sẽ phải hình thành một thói quen mới,
đó là việc quen dần và chấp nhận sự tiến bộ kinh tế – xã hội sẽ đi theo
những hướng không hoàn toàn như chúng ta tiên liệu hoặc tin tưởng. Vì
một đặc điểm quan trọng của sự đổi mới hay sáng tạo thực sự, là người
ta không dự báo được trước. Người ta chỉ có thể tạo nên cái cơ chế cho
sự sáng tạo xuất hiện, chứ không thể kế hoạch hóa cái gì sẽ được sáng
tạo.
Từ phân công lao động đến phân hữu tri thức
Với cách tiếp cận như vậy, cần trở lại những nền tảng tạo nên động lực
sáng tạo,hay quá trình liên tục đổi mới tư duy, của nhân loại trong giai
đoạn kinh tế thị trường phát triển.
Trong thời kì đầu của nền kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế thế giới
bắt đầu tăng tốc ở những nước công nghiệp hóa đầu tiên, giải phóng
mạnh mẽ các nguồn lực hữu hình, hiện hữu (vốn, lao động, tài
nguyên).Tâm điểm của quá trình này là sự phân công lao động ngày
càng tinh vi trong tổ chức xã hội loài người. Đây là đặc điểm xã hội
quan trọng được các nhà kinh tế đầu tiên, điển hình là Adam Smith,
phát hiện vào nữa sau thế kỉ 18. Nhưng đóng góp quan trọng thực sự của
các nhà kinh tế học bối không phải chỉ là nhận ra sức mạnh ghê gớm
của quá trình phân công lao động nhờ đó năng suất của xã hội tăng lên
mãnh liệt, mà họ nhận ra kinh tế thị trường là một cơ chế đặc biệt, ưu
việt duy nhất mà loài người từng biết, cho phép sự phân công lao động
được diễn ra một cách tự động và liên tục. Tiếp đó, họ nhanh chóng
nhận ra nền tảng của kinh tế thị trường là sở hữu tư nhân về nguồn lực
(phương tiện sản xuất) và tự do sản xuất và trao đổi.
Trong thế kỷ 20, sau cuộc đại khủng hoảng 1929 – 1933, nền kinh tế thị
trường bị thách thức trên toàn thế giới. Nhưng trào lưu chống thị trường
và nền văn minh của kinh tế thị trường trỗi dậy, lan tràn và biến tướng
thành làn sóng chống lại tự do cá nhân. Đặc điểm chung của các trào lưu
này là những nỗ lực nhằm xây dựng một xã hội và nền kinh tế dựa trên
sự kiểm soát, kế hoạch hóa đời sống con người và các hoạt động kinh tế
từ một nhà nước trung ương. Kết quả là các mô hình xã hội này đều từ
từ đi vào vòng xoáy sụp đổ, vì xã hội không có khả năng tự đổi mới
hoặc tự vệ trước những thách thức mới.
Trước thực tiễn này, giới tư tưởng thế giới dần phát hiện ra một khía
cạnh khác cao hơn rất nhiều của nền kinh tế thị trường. Đó là vai trò của
tri thức trong đời sống xã hội và sản xuất kinh tế. Khi các nguồn lực
trong các nền kinh tế thị trường của Adam Smith đã được phát huy tối
đa, điều cần thiết là sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó. Cùng một
nhóm các nguồn lực, sản xuất ra tối đa sản phẩm, hoặc ngược lại, cùng
một yêu cầu về sản phẩm, sử dụng ít nguồn lực nhất có thể. Đó chính là
bản chất của cái gọi là “công nghệ”. Để có công nghệm không gì khác
luôn phải có cách thức sản xuất mới, hay kết hợp nguồn lực theo cách
mới hơn, hiệu quả hơn. Đó được gọi là quá trình “sáng tạo”. Để có sự
sáng tạo, cần phải có tri thức.
Bức tranh chung đã rất rõ ràng, tương tự như trong giai đoạn ban đầu,
vai trò của “sáng tạo” hay tri thức là như một nguồn lực. Việc nghiên
cứu tri thức cho thấy tri thức không phải là những vật thể khách quan, có
thể tập chung vào một tổ chức ở trung ương, mà thường tồn tại một cách
phân tán dưới những dạng đặc thù ở mỗi cá nhân, mỗi tổ chức hay mỗi
địa phương. Đó là các khái niệm “tri thức cá nhân” , “tri thức ngầm ẩn” ,
“tri thức bản địa” , vv… được phát triển trong khoa học xã hội hiện đại.
Với bản chất phân tán của tri thức, hay tính hữu hạn của tri thức nơi mỗi
cá nhân hay tổ chức trong xã hội rộng lớn và ngày càng phức tạp, người
ta nhận ra vai trò của “phân công tri thức” hay “phân hữu tri thức” , rất
tương đồng với “phân công lao động” trong giai đoạn sơ kỳ của kinh tế
thị trường. Nếu quá trình phân công lao động cho phép những lao động
riêng lẻ kết hợp với nhau để tao ra năng suất cao cho toàn xã hội, thì quá
trình phân hữu tri thức cho phép những tri thức phân tán kết hợp với
nhau để tạo ra một quá trình sáng tạo liên tục.
Một lần nữa, thị trường đóng vai trò như một cơ chế ưu việt giúp quá
trình phân hữu tri thức tồn tại và phát triển. Với những thể chế hỗ trợ
phù hợp, như bản quyền về ý tưởng hay sáng kiến, quyền tự do tư duy
và nghiên cứu, cho đến quyền tự do ngôn luận, phát biểu và trao đổi, đã
trở thành nền tảng để quá trình phân hữu tri thức diễn ra, hệt như quyền
tư hữu tài sản và tự do hoạt động sản xuất và trao đổi đóng vai trò nền
tảng cho sự phát triển của quá trình phân công lao động.
Cơ chế cho tri thức liên tục sản sinh
Trong điều kiện Việt Nam, sự phát triển kinh tế thị trường chỉ diễn ra
trong vài chục năm gần đây, nhưng nó đã chứa đựng và hấp thu cả lịch
sử của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường lâu dài của nhân loại.
Nếu giờ đây chúng ta có thể nói về các giai đoạn của quá trình cải cách
kinh tế, hay sự nghiệp Đổi mới (vẫn đang diễn ra) , từ Đổi mới một đến
Đổi mới hai, vv… thì đó chính là những giai đoạn khác nhau của nền
kinh tế thị trường nói chung. Có thể có nhiều cách diễn giải và diễn đạt
về các giai đoạn đổi mới của chúng ta, cũng như những nhu cầu thực sự
thúc đẩy các giai đoạn đó. Ở đây, tôi muốn tiếp cận các giai đoạn trên
theo quan niệm về phân công lao động và phân hữu tri thức như đã phân
tích trên kia.
Với cách tiếp cận như vậy, thì có thể xem quá trình đổi mới ở Việt Nam
vào cuối thập niên 1980 là giai đoạn giải phóng các nguồn lực đang bị
kìm kẹp bởi các thể chế phi thị trường. Giai đoạn đó sẽ mất dần động
năng khi các nguồn lực đã được giải phóng ở mức cao trong mối quan
hệ của kinh tế thị trường. Sẽ đến giai đoạn Việt Nam cần hội nhập ở
mức cao hơn, ở đó cần có sự sáng tạo, tức là những cách thức kết hợp
các nguồn lực này theo một cách hiệu quả hơn, theo nghĩa rộng nhất của
từ “hiệu quả”. Và đó là giai đoạn Việt Nam cần đến vai trò thực thụ của
tri thức, trong toàn bộ quá trình vận động xã hội.
Điều này đòi hỏi tri thức cho sáng tạo phải được sản sinh một cách bền
vững. Nói cách khác, đã dến lúc chúng ta cần gây dựng một cơ chế sản
sinh ra tri thức một cách vững chắc và liên tục. Sẽ là không đủ nếu chỉ
tìm kiếm những giải pháp, những “tư duy mới” theo từng giai đoạn, một
cách tập trung. Thay vì theo giai đoạn, tri thức cần sản sinh liên tục.
Thay vì tập trung, tri thức cần phân tán.
Nói cách khác, tìm kiếm một tư duy đổi mới hiện nay là không đủ trong
bối cảnh xã hội hiện đại, đa dạng và phức tạp. Cái mà xã hội Việt Nam
cần là phải tạo lập được một cơ chế để trong đó các tư duy mới liên tục
được phát sinh, cạnh tranh với nhau và cùng phát triển. Có thể nói, nhu
cầu của chúng ta hiện nay là đổi mới cơ chế đổi mới tư duy.
Để làm được điều này, những thể chế và điều kiện cần thiết cho quá
trình phân hữu tri thức phải dần được tao lập và bảo vệ. Ở mức độ cao
nhất, đó là việt tiếp tục xây dựng và kiện toàn một nhà nước pháp quyền.
Sự diễn giải luật pháp cần rõ rang và dễ hiểu, môi trường chính sách cần
minh bạch và nhất quán. Chế độ bản quyền cần được tôn trọng và tuân
thủ một cách nghiêm túc. Tư tưởng và ngôn luận ngày càng cởi mở hơn
và hướng tới sự tự do và công khai trong tranh luận, tự do nghiên cứu và
phản biện chính sách. Trong quá trình bồi đắp và phát triển những thể
chế thân thiện với thị trường và tạo điều kiện cho tri thức phát triển, các
cơ quan truyền thông, các diễn đàn chung, các sự kiện hội họp, và các tổ
chức công dân có vai trò to lớn. Đây là con đường mà Việt Nam không
thể tránh khỏi trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và tiến
trình văn minh chung của nhân loại.