Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Ôn tập văn học 10 part 8 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.67 KB, 31 trang )

nghĩa cho chàng.
Nửa năm sau, chàng Kim trở lại vườn Thuý , tìm đến nơi "di trú" của gia đình người
yêu. Vương Ông khóc than nhắc lại
lời K iều trước lúc ra đi:
"Dùng dằng khi bước chân ra
Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần.
Trót lời nặng với lang quân,
Mượn con em nó Thuý Vân thay lời.
Gọi là trả chút nghĩa người
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên "
Qua đó, ta thấy tấm lòng quý hoá thơm thảo của Thuý Kiều. Nàng bán mình để chuộc
cha, để cứu gia đình. Tình yêu dù
tan vỡ nhưng nàng vẫn giữ lấy cái "nghĩa" với chàng Kim, "cậy em" "thay lời nước non".
Chị có trải qua nhiều đau khổ "thịt
nát xương mòn " vẫn thơm lây về nghĩa cử chỉ của em.
2. Kiều trao lại kỉ vật thiêng liêng cho em. Trao duyên rồi vẫn còn vấn vương, đó là bi
kịch tình yêu khi K iều nói:
"C hiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung."
Đã trao duyên rồi, sao lại nói "vật này của chung?" Đó là quy luật của tình yêu, là nỗi
đau của Kiều "con tằm đến thác vẫn
còn vương tơ".
3. Lời than của Kiều não nùng thê thiết như lời trăng trối. Kiều nói đến "hồn", đến "dạ
đài", nói đến một ngày mai bi thảm
từ cõi âm trở về:
"Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đến nghì trúc mai.


Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan".
Tình yêu tan vỡ, Kiều xem như mình đã "chết", chết trong đau khổ. Lời than của Kiều
thấm đầy lệ.
4. Kiều thầm nhắn gửi người yêu: Tình yêu đã tan vỡ, đã "trâm gãy bình tan". Đau đớn
khôn xiết kể cho "tơ duyên ngắn
ngủi", cho "phận bạc" Kiều gửi lạy tình quân Kiều cất tiếng gọi người yêu rồi ngất đi:
"Ôi Kim Lang! Hỡi K im Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Trao duyên cho em để rồi ra đi mặc cho sỗ phận "nước chảy hoa trôi lỡ làng". K iều ngỡ
rằng trả được nghĩa chàng Kim sẽ
bớt phần đau khổ. Trái lại, trao duyên cho em rồi, Kiều lại càng vô cùng đau khổ. Nguyễn
Du với trái tim nhân đạo mênh
mông, ông đã ghi lại những biến thái tinh tế trong tâm hồn Kiều, những đau đớn ứa máu của
người con gái khi mối tình đầu tan
vỡ. Ta cảm thấy ông là người chứng kiến lễ trao duyên. Đây là một trong những đoạn thơ
xúc động nhất trong "Truyện
Kiều", gồm những "câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình".
Sử thi
I. Định nghĩa
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi) có quy mô hoành tráng, miêu
tả và ca ngợi những thành tựu có
tính toàn dân và có ý nghĩ trọng đại (sống còn, vinh nhục) đối với cộng đồng, ca ngợi những
anh hùng bộ tộc mang sức mạnh
thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc.
Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần - lễ nghi, nghệ thuật của xã hội thị tộc-bộ lạc, một thể
loại một đi không trở lại, phản
ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây dựng sự phát triển, chinh phục tự
nhiên và chiến đấu chiến thắng mọi kẻ
thù của bộ tộc.

II. Những bộ sử thi của Việt Nam và thế giới
1. Việt Nam
"Đẻ đất đẻ nước" của người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu
thơ; bản sưu tầm ở Thanh Hóa dài
8503 câu (?)
- "Bài ca Đan Sẵn" của người Ê đê.
- "Xinh Nhã" của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê.
- “Y Ban” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên.
- "Đăm Di" của người Ê đê và Giarai.
- "Xinh Chơ Niếp" của người Ê đê.
- v.v
2. Thế giới
- "Ramayana" của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi.
- "Mahabharata" của Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi.
- "Ôđixê" của Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ.
- "Iliat" của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ.
- v.v
III. Những ý kiến về sử thi
1. "Thời đại thịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong thời đại dã man được diễn tả
trong những bài thơ của Hômerơ,
nhất là tập Iliat.
Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ thần thoại - đó là những di sản chủ yếu mà
người Hi Lạp đã đem được từ thời
đại dã man sang thời đại văn minh ” (Ăng ghen)
2. "Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta mới có thể giải thích
được vẻ đẹp tuyệt vời và sâu sắc
của thần thoạivà anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt để giữa nội dung và
hình thức " (Gorki)
3. "Sử thi anh hùng bao hàm một bức tranh hoàn chỉnh của cuộc sống nhân dân dưới hình
thức kể truyện anh hùng về quá

khứ. Thế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà của chúng - đó
là những nhân tố chủ yếu của
một nội dung sử thi anh hùng". (Mêlêtinxki)

Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều
(1519) Người lên ngựa, kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng, bụi cuồn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi,
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
(1526) Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
I. Xuất xứ
Đoạn thơ 8 câu, từ câu 1519-1526 ghi lại cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều đi về Vô
Tích thăm vợ cả Hoạn Thư và thu
xếp chuyện "vườn mới thêm hoa".
II. Đại ý
Đoạn thơ ghi lại cảnh biệt ly giữa Thuý Sinh và Thuý Kiều và nói lên nỗi buồn thương
nhớ, cô đơn của đôi lứa
III. Phân tích
1. Hai câu đầu ghi lại khoảnh khắc chia ly, chia lìa. Hai vế tiểu đối, hai hành động như
một nét cắt đau lòng:
Người lên ngựa // kẻ chia bào.
Cả một "rừng phong thu" bao la đỏ ối "đã nhuốm màu quan san", nơi xa xôi cách biệt.
"Màu quan san" ấy gợi cho ta cảnh
ly biệt vẫn thường diễn ra vào mùa thu. Nỗi nhớ thương của đôi lứa trẻ trung, từ lòng người
như thấm sâu vào cảnh vật, vào
không gian bao la, vào sắc lá của "rừng phong thu".
2. Hai câu 3, 4 tả cái đứng lặng và dõi theo của nàng Kiều. Con đường đỏ bụi (dặm

hồng), bụi cuốn lấy yên ngựa của
người đi xa (bụi cuồn chinh an). Kiều trông theo bóng hình Thúc Sinh, người chồng, vị ân
nhân của nàng, nhìn mãi, nhìn hoài
cho đến lúc chỉ thấy màu xanh của ngàn dâu mờ xa cuối chân trời. Chữ "trông" và chữ
"khuất" diễn tả tình lưu luyến khôn
nguôi:
"Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh".
Từ màu đỏ của "rừng phong thu" đến màu "hồng" của bụi cuốn, màu "xanh" của ngàn
dâu, đó là màu của tâm tưởng, màu
của biệt li, màu của thương nhớ:
"Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?"
(Chinh phụ ngâm)
3. Nỗi buồn cô đơn của Kiều. Nàng thương mình lẻ loi, cô đơn "chiếc bóng năm canh",
thao thức, thương nhớ, chờ đợi
Nàng thương Thúc Sinh đi xa "muôn dặm" vất vả, cô đơn "một mình", và một ngày một "xa
xôi" thêm:
"Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi".
"Người về"với "kẻ đi" ở hai phía chân trời. "C hiếc bóng" và "một mình" đều lẻ loi, cô
đơn. Đêm "năm canh" đợi chờ như dài
ra. "Muôn dặm" với bao thương nhớ như "xa xôi" vô tận.
4. Đêm đêm nàng Kiều thao thức, chỉ có vầng trăng với nàng. Xưa là vầng trăng thề
nguyền, chứa chan hạnh phúc,
"Đêm nay" chỉ có vầng trăng li biệt, "vầng trăng ai xẻ làm đôi", biết bao đau buồn thương
nhớ!
"Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm đường"
Vầng trăng chẳng còn tròn vành vạnh nữa mà đã bị cắt, bị "xẻ làm đôi", như một ám ảnh,

một dự báo cuộc từ biệt lần này
cũng là cuộc vĩnh biệt tình duyên giữa Thúc Sinh với nàng K iều. Đoạn thơ "Thúc Sinh từ
biệt Thuý Kiều" là một đoạn thơ tả
cảnh ngụ tình đặc sắc, "ngang giá một thiên phú biệt li" như Vũ Trinh đời N guyễn đã bình.
Nó chứa chan tình người, gợi lên nỗi đau buồn, thương nhớ cho những lứa đôi nặng tình mà
li biệt
Kim Trọng trở lại vườn Thuý
(2741) Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.
Vội xang vườn Thuý dò la,
Nhìn xem phong cảnh, nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xoè én liệng rường không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa!
Chung quanh nặng khắt như tờ,
(2754) - Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
I. Xuất xứ
Sau nửa năm về Liêu Dương hộ tang chú, Kim Trọng vội trở lại vương Thuý "dò la"
Đoạn thơ dài 14 câu, từ câu 2741
đến câu 2754.
II. Đại ý
Đoạn thơ tả nỗi buồn ngao ngán của Kim Trọng trước cảnh tiêu điều, hoang vắng của
vườn Thúy.
III. Phân tích
1. Bốn câu đầu giới thiệu Kim Trọng về Liêu Dương "phù tang" chú đã sáu tháng rồi,

nay mới trở lại nhà ở Bắc Kinh. Xa
cách người yêu đã trong một thời gian dài "nửa năm", trên một không gian "muôn dặm"
cách trở, với bao thương nhớ:
"Ngoài nghìn dặm, chốc ba đông,
Mối sầu ghi gỡ cho xong còn chầy"
Hai chữ "vội sang" trong câu thơ "Vội sang vương Thuý dò la" diễn tả niềm thương nhớ
bồn chồn, sự khát khao được
gặp mặt người yêu đã nửa năm xa cách. Câu thơ "Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa"
không chỉ gợi tả khái quát sự đổi
thay của vườn Thuý, của gia đình người đẹp mà còn thể hiện một cái nhìn ngơ ngác, băn
khoăn của chàng Kim.
2. Mười câu thơ còn lại tả cảnh tiêu điều hoang vắng của vườn Thuý và nỗi niềm tâm sự
của Kim Trọng. Vườn xưa có
"Lơ thơ tơ liễu buông mành", có "đầy thềm hoa rụng" có "song hồ nửa khép cánh mây",
có "tường gấm" Nay đã thay đổi
hoàn toàn, "nay đã khác xưa". Vườn xưa, nay đã "cỏ mọc lau thưa". Sân xưa, nay đã "Cỏ lan
mặt đất rêu phong dấu giày".
Với K im Trọng, "dấu giày" của người đẹp, của người yêu như đã được "rêu phong" lại, giữ
lại cho chàng, để lòng chàng ngẩn
ngơ thương nhớ! Nhà cửa hoang vắng đổ nát tiêu điều: "Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã
rời". Xưa kia vườn Thuý có "con
oanh học nói " thì nay chỉ trông thấy cảnh "Xập xoè én liệng rường không", lòng chàng K
im lại càng ngổn ngang đau đớn.
Câu thơ "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" tuy khơi gợi từ một tứ thơ Đường của Thôi
Hộ nhưng đầy sáng tạo làm hiện
lên một khung cảnh buồn thương vắng bóng giai nhân, cỏ hoa như thấm đau nỗi buồn
thương nhớ li b iệt của chàng Kim. Biết
bao bơ vơ, sầu tủi tràn ngập lòng người Cây đào ấy như một chứng minh về kỷ niệm
không bao giờ quên đối với chàng
Kim đa tình: "Dưới đào dường có bóng người thướt tha Trên đào nhác thấy một cành kim

thoa".
Đây là hai câu thơ hay nhất trong đoạn :
"Cuối tường gai góc mọc đầy
Đi về này những lối này năm xưa".
Sáu tháng trước, Kim Trọng đa tình đã từng "Tường đông, ghé mắt ngày ngày hằng
trông", đã biết bao phen "lần theo
tường gấm dạo quanh" Và có bao giờ quên được cái giây phút thần tiên "Thang mây rón
bước ngọn tường" để tỏ tình với
người đẹp từng "thầm trông trộm nhớ ". Cũng như bức "tường gấm" ấy, "lối này"… cũng
đầy ắp kỷ niệm với "kẻ thiên tài":
"Xắn tay mở khoá động đào
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai".
Làm sao quên được cái đêm tự tình ấy, nàng Kiều đã "xăm xăm băng lối vườn khuya một
mình". Câu thơ "Đi về này những
lối này năm xưa" như làm hiện lên trong tâm hồn Kim Trọng bao kỷ niệm đẹp về nàng
Kiều mà thời gian không thể xoá nhoà.
Chàng Kim như chết nặng đi trong cô đơn, trong thương nhớ, biết ngỏ tâm sự cùng ai. Một
câu hỏi đầy bồi hồi, ám ảnh, ngổn
ngang thương nhớ:
"Chung quanh lặng ngắt như tờ
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?"
3. Đoạn thơ "Kim Trọng trở lại vườn Thuý" cũng là một trong những đoạn thơ tả cảnh
ngụ tình tuyệt bút của thi hào
Nguyễn Du. Nét đặc sắc ở đoạn thơ ở chỗ: Kim Trọng nhìn cảnh vương Thuý tiêu điều
hoang vắng mà mang tâm sự ngổn
ngang trong lòng. Người yêu, người đẹp bây giờ đi đâu về đâu? Cảnh vật nào bao giờ cũng
mang theo bao kỷ niệm của
người yêu từng nặng tình thề nguyền Cảnh cũ vườn xưa từ "song trăng" đến "hoa đào", từ
cánh én đến cỏ lau, từ "tường
gấm" đến "lối này" như mang nặng tình người, đang đối diện và tâm sự cùng chàng Kim.

Thuý kiều chắc đang ở Lâm Truy,
nàng có nghe thấu "Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?"
Anh hùng tiếng đã gọi rằng
2419- Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân lạy trước Từ công:
"Chút thân bồ liễu mà mong có rày!
Trộm nhờ sấm sét ra tay.
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
Khắc xương ghi dạ xiết chi,
Dễ đem gan góc đền nghì trời mây."
Từ rằng: "Q uốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân!
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng".
Vội truyền sửa tiệc quan trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.
Đòi phen gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam.
Phong trần mài một lưỡi gươm,

Những phường giá áo, túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương.
Trước cờ ai dám tranh cường?
2450- Năm năm hùng cứ một phương hải tần!
I. Xuất xứ
Đoạn thơ "Anh hùng tiếng đã gọi rằng", dài 32 câu, trích trong "Truyện kiều" từ câu
2419 đến câu 2450. Đoạn thơ này
tiếp sau cảnh Kiều báo ân báo oán.
II. Ý tưởng đoạn thơ
Đoạn thơ ca ngợi Từ Hải là một anh hùng đích thực giàu nghĩa khí qua đó nêu bật và
khẳng định cảm hứng nhân văn, nói
lên khát vọng tự do của con người thời đại.
III. Phân tích
1. Mười tám câu đầu là cuộc trò chuyện giữa Từ Hải với K iều. Kiều tạ ơn Từ Hải đã
giúp mình báo ân báo oán. Có nhờ
được "sấm sét ra tay" thì "bể oan" mới được vơi đi, "tấc riêng" mới được gột rửa, được xoá
bỏ, được "đổ đi", mới thanh thản
nhẹ nhàng. Ơn nghĩa ấy vô cùng to lớn (trời mây) khắc vào xương, ghi sâu vào dạ, chẳng
bao giờ quên:
"Khắc xương ghi dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây".
Kiều nói chân thành, nhỏ nhẹ, khiêm nhường (thân bồ liễu, tấc riêng, gan óc ) đầy tình
nghĩa. Từ Hải tự coi mình là "quốc
sĩ", xem Kiều là "tri kỉ". Từ hải giúp K iều báo ân, báo oán là một việc làm đầy nghĩa khí
như các anh hùng hảo hán xưa nay
vẫn coi trọng: "Lộ kiến bất bình, bạt đạo tương trợ". Với Từ Hải, không thể dung tha mọi
"bất bằng" tội ác ở đời:
"Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha"

Câu nói của Từ vang lên đĩnh đạc hào hùng thể hiện một lý tưởng anh hùng tuyệt đẹp,
như một lời tuyên chiến với mọi cái
ác, cái bất công ở đời.
Từ Hải xem hành động ra oai "sấm sét" của mình giúp K iều báo ân báo oán là "việc
nhà", là chuyện gia đình cũng là để
Kiều sớm gặp lại gia đình, gặp lại song thân. Từ Hải là một con người chí tình chí nghĩa,
thấu hiểu được nỗi đau riêng và ước
mong của Kiều:
"Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muông dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng"
2. Từ Hải là một anh hùng đích thực.
Tiến quân như vũ bão "trúc chẻ ngói tan". Binh uy chấn động "sấm ran trong ngoài". Từ Hải
dựng lên một triều đình đối địch
làm chủ "một góc trời", có tổ chức quy củ: "Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà". Từ Hải xuất
quân đánh đâu thắng đấy:
"Đòi phen gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam".
Dưới con mắt của Từ Hải, bọn vua quan triều đình chỉ là "phường giá áo túi cơm" mà
thôi. Từ đã có một giang sơn riêng,
một cõi biên thuỳ riêng ngang nhiên thách thức:
"Trước cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần'.
Nguyễn Du miêu tả Từ Hải oai phong lẫm liệt như một anh hung thần thoại, một dũng sĩ
trong sử thi, hiện lên trong hào
quang chiến trận, lừng lẫy trong chiến công. Những động từ mạnh, những hình ảnh kì vĩ
được vận dụng sáng tạo, đoạn thơ
vang lên hào hùng mang âm điệu anh hùng ca:
"Gió quét mưa sa", "đạp đổ năm toà cõi nam", " sấm ran trong ngoài" Các từ Hán Việt

góp phần miêu tả cốt
cách phi thường của Từ Hải: quân trung, hội đồng tẩy oan, binh uy, triều đình, văn võ, sơn
hà, phong trần, biên thuỳ,
cô quả, bá vương, hùng cứ, hải tần
Đoạn thơ góp phần hoàn thiện chân dung anh hùng Từ Hải : một con người chí tình chí
nghĩa, sống và chiến đấu vì lý
tưởngvà khát vọng tự do, lẽ công bằng. "Đoạn thơ thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân văn
trong "Truyện Kiều". Màu sắc
sử thi, hình tượng kì vĩ, âm điệu anh hùng ca là nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ này.
Nhân vật Từ Hải là một khám phá
đầy sáng tạo của Nguyễn Du: từ một hảo hán trong "Kim Vân Kiều truyện" trở thành một
anh hùng đích thực trong
"Truyện Kiều".
Độc Tiểu Thanh kí
Nguyễn Du
Tây hồ hoa uyển tân thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư,
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Đọc tập tiểu thanh ký
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt cờn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Vũ Tam Tập dịch
I. Xuất xứ
1. "Độc tiểu thanh kí" - bài thơ rút trong "Bắc hành tạp lục", tập thơ đi sứ của Nguyễn Du
(năm 1813 - 1814).
2. Tiểu Thanh là một tên cô gài tài sắc ở đầu thời Minh, Trung Quốc. Nàng họ Phùng lấy
làm lẽ một người cũng tên là
Phùng. Vợ cả ghen hành hạ, nàng đau khổ chết năm 18 tuổi. Nàng có một tập thơ "Độc tiểu
thanh kí" bị vợ cả đốt đi còn sót
lại vài bài. Nay ở Cô Sơn (Chiết Giang), cạnh Tây Hồ còn mộ Tiểu Thanh. Nguyễn Du đã
đọc phần dư cảo của "Tiểu Thanh
kí" khi ông đi sứ mà viết bài thơ này.
II. Chủ đề
Bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" nói lên lòng xót thương đối với những người phụ nữ tài sắc
bị dập vùi đau khổ, chết
trong oan ức, đồng thời tác giả tự cảm thương cho thân phận mình.
III. Phân tích
1. Đề
Cảnh vật tang thương. Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành gò hoang hết cả. Thương một đời
dâu bể, nhà thơ thương người đàn
bà bạc mệnh. Nhà thơ đọc "mảnh giấy tàn" (nhất chỉ thư) đứng lặng trước cửa sổ điếu nàng
Tiểu Thanh.
"Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bến song mảnh giấy tàn"
2. Thực
Nhan sắc (son phấn) và tài năng (văn chương) đều bị vùi dập. Son phấn có thần, sau khi
chết người ta còn xót thương tiếc
nuối. Văn chương còn có số mệnh gì mà người ta còn bận lòng về những bài thơ sót lại sau
khi bị đốt? Nhà thơ thương xót

cho nhan sắc và tài năng của Tiểu Thanh bị hãm hại, chôn vùi:
"Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư".
Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật nhan sắc và tài năng bị vùi dập, thể hiện tình thương
của nhà thơ. Đúng là "Câu thơ còn
đọng nỗi đau nhân tình" (Tố Hữu).
3. Luận
Nhà thơ suy ngẫm về "hận sự" và "kì oan" trong xã hội. Mối hận xưa nay hỏi trời mà vẫn
khó. Cái oan lạ vì nết phong nhã,
tự mình ta lại buộc lấy mình. Ta như kẻ cùng hội cùng thuyền với kẻ mắc nỗi oan lạ vì nết
phong nhã ấy. Nỗi đau thương và
bế tắc dày vò nhà thơ và đó cũng là nỗi đau và bế tắc của đời người:
"Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang"
Phải hỏi trời vì hỏi người mãi mà chẳng được. Hỏi trời lại càng rất khó, thế thì "hận sự"
không thể nào kể xiết. Bế tắc là vô
hạn! Phong lưu, phong nhã là vẻ đẹp, là cốt cách sang trọng sao lại là kì oan? Nguyễn Du đã
từng trải qua "10 năm gió bụi"
trong cảnh tha phương, ốm đau không có thuốc, trôi giạt lênh đênh, tóc sớm bạc có lúc ông
tự nhận mình thời trai trẻ cũng là
kẻ có tài (tráng niên ngã diệc vi tài giả). Vì thế ông mới tự xếp mình vào "cùng hội cùng
thuyền", là khách phong lưu như Tiểu
Thanh nên mới mang cái oan lạ như nàng. Thật là chua chát!
4. Kết
Hai câu kết ẩn chứa bao tâm sự. Tố Như hỏi hậu thế:
"Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"
Sau 300 năm nàng Tiểu Thanh chết, đến điếu và khóc nàng. Liệu sau khi ta mất hơn300
năm, người đời ai khóc tố Như?
Đó là lời tự thương đầy lệ. Nhà thơ tự thấy mình cô đơn bơ vơ, sầu tủi

"Độc Tiểu Thanh kí" bài thơ mang cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Nguyễn Du đã khóc một
Đạm Tiên, một Thuý Kiều
Ông đã dành cho nàng Tiểu Thanh bao niềm thương xót. Đến Tây Hồ trên đường đi sứ, cái
tâm của ông lại hướng về nỗi đau
khổ oan trái của một giai nhân bị dập vùi với bao "những điều trông thấy mà đau đớn lòng".
Hai câu kết bài thơ phản ánh "nỗi
đoạn trường" của nhà thơ để dân tộc ta "Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du” như Tố Hữu đã
nói.
Thăng Long thành hoài cổ
Bà Huyện Thanh Quan
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
I. Xuất xứ
Tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, cạnh Hồ Tây. Bà là vợ của ông Lưu
N ghi, làm tri huyện Thanh Quan,
tỉnh Thái Bình, nên được người đời ái kính gọi là Bà huyện Thanh Quan. Bà từng được vua
Minh Mệnh vời vào Phú Xuân
nhận nữ chức quan "Cung trung giáo tập"
Bà còn để lại 6 bài thơ Nôm, đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật: "Qua đèo
ngang", "Chiều hôm nhớ nhà",
"Thăng Long thành hoài cổ", "Chùa Trấn Bắc", "Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ", "Tức cảnh
chiều thu".
Ngôn ngữ thơ trang nhã, điêu luyện, âm điệu du dương réo rắt, giọng thơ buồn mác, hoài
cổ là nét đặc sắc trong thơ Bà

Huyện Thanh Quan.
II. Chủ đề
Bài thơ nói lên nỗi nhớ xưa thành Thăng Long và nỗi đau buồn về cuộc đời tang thương.
III. Phân tích
1. Đề
Như một lời than, nhẹ trách tạo hoá. Hí trường: sân khấu. Tinh sương: Tinh là sao, sương
là sương giá. Mấy tinh sương là
mấy năm. Ông trời gây chi thế, làm cho cuộc đời luôn biến đổi chẳng khác gì các lớp kịch,
lớp này tiếp sang lớp khác trên sân
khấu. Cho đến nay, đã mấy năm thấm thoắt trôi nhanh qua. Ý thơ sâu nắng buồn man mác
về dòng chảy thời gian:
"Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương".
2. Thực
Kinh thành xưa - thuở vàng son nay còn đâu nữa! Chỉ còn lại vẻ hoang tàn:
"Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương".
Đường bàn cờ dọc ngang, xưa kia xe ngựa của ông hoàng bà chúa đi lại rầm rập nay
chỉ còn lại "hồn thu thảo" - hồn cỏ
thu tàn tạ. Lâu đài xưa đã đổ nát, đã hoang tàn chỉ còn lại cái "nền cũ", vẻ tang thương hiện
lên dưới "bóng tịch dương" - bóng
mặt trời chiều tối. Hai câu thơ đối nhau làm nổi bật cái hoang phế, tàn tạ, thương tâm. "Lối
xưa" với "nền cũ", "xe ngựa" với
"lâu đài", "hồn thu thảo" với "bóng tịch dương" đăng đối, hoà hợp; nỗi đau buồn tang
thương từ cảnh vật đã và đang thấm sâu
vào lòng người. Đó là nỗi buồn hoài cổ về kinh thành xưa.
3. Luận
Nỗi đau về cuộc đời tang thương biến đổi như chất chứa dồn nén cảnh vật:
"Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương".

Đá và nước đã được nhân hoá, như hai chứng nhân lịch sử, như thách thức (trơ gan) cùng
năm tháng (tuế nguyệt). Như
đau đớn giận hờn (cau mặt) với sự đổi thay, với dâu bể (tang thương). Nghệ thuật chọn từ,
phối thanh (bằng trắc), phép đối -
được nữ sĩ vận dụng rất điêu luyện. Các triều đại đã nối tiếp hưng phế. K inh thành xưa, đế
đô nghìn năm xưa nay xuống cấp
trở thành một tỉnh dưới triều Nguyễn. Với nữ sĩ, ông cha đã mấy đời ăn lộc triều Lê, Thăng
Long lại còn chốn cũ quê nhà thì
nỗi đau buồn không thể nào kể xiết. Đá và nước được nói đến trong phần luận chính là nỗi
lòng nhà thơ.
4. Kết
Hai câu kết nói về dòng chảy thời gian và nỗi đoạn trường của Bà Huyện Thanh quan -
nỗi buồn hoài cổ:
"Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường."
Gương cũ nghĩa bóng là lịch sử, là trang đời. Kim cổ là hiện tại và quá khứ. Chuyện lịch
sử qua hàng năm như soi vào quá
khứ và hiện tại. Nhìn "Cảnh đấy" - cảnh Thăng Long tang thương, cảnh "sóng lớp phế
hưng" mà "người đây" (nữ sĩ) đau đớn
tưởng đứt ruột (luống đoạn trường). Đó là nỗi đau của một con người, cũng là nỗi buồn của
một lớp người khi nhớ về kinh
thành xưa một thời vang son, hoa lệ.
IV. Tổng kết
"Thăng Long thành hoài cổ" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ tả
cảnh ngụ tình. Cảnh thì tang
thương. Tình thì hoài cổ với nỗi đau đoạn trường. Có hồn thu thảo, bóng tịch dương, đá và
nước như chứng nhân lịch sử,
chia xẻ nỗi đoạn trường với thi nhân.
Thi liệu và từ ngữ chọn lọc tinh tế. Một gam màu nhạt của bóng tịch dương phủ mờ bài
thơ. Âm điệu du dương, réo rắt

như một tiếng than mà ta cảm nhận được. Các từ Hán Việt (chữ in nghiêng) tạo nên cốt cách
trang trọng, cổ kim. Điêu luyện
nhất là phép đối, nghệ thuật phối thanh và nhân hoá. Bài thơ mang vẻ đẹp trang nhã và một
nỗi buồn hoài cổ thấm thía.
"Thăng Long thành hoài cổ"- bài thơ để ta yêu, để ta nhớ mãi
Sử thi Hi Lạp
I. Một vài nét về văn học Hi Lạp cổ đại
- Văn học Hi Lạp cổ đại là "mảnh đất nuôi dưỡng" nghệ thuật. Hi Lạp sau này. Nó hình
thành và phát triển trong bảy tám
thế kỷ từ khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên.
- Nó gồm có Thần thoại Hi Lạp, sử thi Hi Lạp, bi kịch và hài kịch Hi Lạp.
Là nguồn thơ không bao giờ vơi cạn, văn học Hi Lạp cổ đại đã ca ngợi tự do, công lí dân
chủ, tình yêu, đạo lí, nhân đạo,
đề cao lí tưởng anh hùng, chiến thắng số mệnh Nó đã xây dựng nên những hình tượng kì
vĩ tráng lệ, huyền diệu và chữ tình
đằm thắm, vô cùng cao cả và đẹp đẽ. Nó mãi mãi là dấu ấn chói ngời của nền văn minh Tây
Âu thuở bình minh nhân loại.
II. Tác giả Hômerơ
Theo truyền thuyết Hômerơ là nhà thơ mù ở Tiểu Á, vào thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên
đi lang thang khắp các thành
bang kể truyện thơ của mình. Ông được coi là tác giả 2 cuốn sử thi Iliat và Ô đixê.
III. Tác phẩm "Ôđixê"
1. Nguồn gốc đề tài
Iliat là bài ca về thành Iliông (còn gọi là Tơroa) gồm 15.683 câu thơ nói về cuộc chiến
tranh 10 năm ở thành Tơroa.
"Ôđixê" là sự nối tiếp sử thi Iliat gồm 12.110 câu thơ, chia thành 24 khúc ca. Ôđixê kể lại
cuộc hành trình về quê hương của
Uylitxơ sau chiến thắng chiếm đánh thành Tơroa; một hành trình kéo dài 10 năm.
2. Tóm tắt "Ôđixê"
Sau khi chiến thắng ở Tơroa, quân Hi Lạp lần lượt kéo về xứ sở. Uylitxơ cùng đoàn dũng

sĩ của mình vượt qua chặng
đường dài dằng dặc vô cùng nguy hiểm trên biển cả mênh mông. Đoàn chiến thuyền của
Uylitxơ gặp bão dạt từ đảo này sang
đảo khác, trôi đến bờ biển châu Phi, xứ sở của những người trồng "quả lú", rồi lại trôi đến
phía tây Địa Trung Hải. Chàng
cùng các chiến hữu lọt vào đảo những tên khổng lồ "một mắt" Pôliphem, lần sang mảnh đất
của bọn khổng lồ "to như trái núi",
vào nhà mụ phù thuỷ Xiếc-xê, xuống "thế giới những linh hồn", lách qua eo biển của hai
con quái vật Caripđơ và Xkila trấn
giữ, bước lên đảo thần Mặt trời Hêliôt Quá đói khát, các bạn đồng hành của Uylitxơ ăn
mất mấy con bò trong đàn bò của
thần nên đã bị thần Dớt gây ra một trận bão lớn để trừng phạt. Sau bao nhiêu tai hoạ dồn
dập, bạn bè của Uylitxơ dần dần
chết hết. Uylitxơ trôi giạt đến đảo của nàng tiên Calipxô xinh đẹp. Nàng tiên mê đắm
Uylitxơ, dâng thần đơn linh dược cho
chàng trở thành bất tử để cùng chàng kết bạn trăm năm. Sau 7 năm trời bị Calipxô lưu giữ,
Uylitxơ mới được thần linh giải
thoát, chàng tiếp tục vượt biển đến ngày thứ 18, thì bạn bè Uylitxơ bị thần Pôêdiđông gây
bão tố đánh chìm để trả thù cho
con trai là gã khổng lồ Pôliphem đã bị chàng chọc mù mắt. Uylitxơ trôi giạt vào vương quốc
Phêaxi, được công chúa Nôdica
cứu giúp, và nhà vua Anxinôôx tiếp đãi ân cần cấp cho thuyền nhẹ bay như cánh chim để
chàng về quê hương. Trong bữa
tiệc tiễn đưa, nghe nghệ nhân hát ca ngợi về chiến công con ngựa gỗ thành Tơroa, Uylitxơ
xúc động rơi lệ. Nhà vua gạn hỏi
mới biết tên tuổi thật của chàng. Nhà vua ngỏ ý muốn chàng thuật lại hành trình từ khi rời
khỏi Tơroa. Nghe chàng kể những
gian truân, nguy hiểm đã qua, nhà vua và triều thần vô cùng cảm động.
Uylitxơ đến Itacơ quê hương sau 20 năm trời chinh chiến. Chàng giả dạng người hành
khất đến gặp người chăn lợn cũ

Ơmê, sau đó chàng bí mật gặp lại con trai Têlêmac. Hai cha con bàn mưu giết bọn cầu hôn.
Sau 10 năm trì hoãn, cuồi cùng
Pênêlốp, vợ chàng phải ra điều kiện, ai bắn trúng một phát xuyên qua 12 vòng trong của 12
cái rìu thì nàng sẽ lấy người đó.
Uylitxơ vào cung điện của vợ mình trong vai hành khất. Nhũ mẫu Ơriclê theo phong tục đã
rửa chân cho chàng, phát hiện ra
Uylitxơ qua vết sẹo bị lợn lòi húc ở chân. Chàng đã ra hiệu cho Ơriclê giữ bí mật. Cuộc tỉ
thí bắt đầu.108 vị cầu hôn đều thất
bại, chỉ có người hành khất đã bắn xuyên 12 chiếc rìu. Hai cha con Uylitxơ đã trừng trị bọn
cầu hôn và lũ người nhà phản bội.
Nhưng Pênêlốp vẫn không chịu nhận chàng. Chỉ đến lúc Uylitxơ chỉ ra cái dấu riêng của
chiếc chân giường là một cái gốc
cây, Pênêlốp mới chịu nhận ra chồng nàng. Cuộc dàn xếp với thân nhân bọn cầu hôn bị giết
diễn ra những ngày sau đó.
3. Giá trị của tác phẩm
a. Sử thi Ôđixê ca ngợi chí tuệ, dũng khí và nghị lực của con người với khát vọng chinh
phục thế giới chung quanh và niềm
mơ ước về một cuộc sống hoà bình, yên vui, hạnh phúc. Nó còn ca ngợi tình yêu quê hương,
tình vợ chồng, cha con, tình bạn
cao cả, thuỷ chung.
b. Sử thi Ôđixê có cốt truỵên chặt chẽ, hấp dẫn và li kì. Ngôn ngữ tráng lệ. Nhân vật
Uylitxơ là một anh hùng mà trí tuệ,
mưu trí "sánh ngang với thần linh". C hất bi kịch, màu sắc thơ mộng huyền ảo như muôn
ngàn sợi chỉ màu óng ánh dệt nên sử
thi này, thể hiện một vẻ đẹp riêng không thể nào bắt chước nổi.
Uylitxơ trở về
I. Xuất xứ
Sau 20 năm trời chinh chiến, Uylitxơ mới về đến quê hương. Hai cha con đã lập mưu giết
chết 108 vị cầu hôn. Pênêlốp vẫn
không tin chồng mình trở về. Đoạn này trích khúc 23 - "Ôđixê", nói lên quá trình Pênêlốp

nhận ra Uylitxơ chồng nàng. Hai
người vô cùng cảm động.
II. Phân tích
1. Pênêlốp
Là một người vợ thuỷ chung, kiên trinh đợi chờ chồng suốt 20 năm trời khi chồng đi
chinh chiến. Nàng đã tìm đủ mọi cách
để trì hoãn (chuyện dệt bức thảm, chuyện nêu điều kiện bắn xuyên 12 vòng tròn trên 12 lưỡi
rìu) để khước từ bọn cầu hôn.
- Gặp lại Uylitxơ tại cung điện của mình sau sự kiện "người hành khất" đã bắn xuyên 12
lưỡi rìu và giết chết 108 vị cầu hôn.
Nói với nhũ mẫu, nàng thận trọng cho rằng người vừa bắn xuyên 12 lỗ rìu là "một vị thần"
còn "Uylitxơ đã chết rồi". N hũ mẫu
nói về "cái sẹo" do lợn lòi húc ở chân Uylitxơ thì nàng vẫn thận trọng cho đó là "ý định
huyền bí của thần linh bất tử".
Sau khi xuống lầu, Pênêlốp băn khoăn "không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện " hay
nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay
người mà hôn, khi thì nàng lại "đăm đăm nhìn chồng", khi lại không nhận ra chồng dưới bộ
quần áo rách mướt.
- Khi bị con trai trách mẹ là "tàn nhẫn", "độc ác quá chừng", "lòng dạ mẹ rắn hơn cả đá"
thì Pênêlốp "kinh ngạc quá chừng"
và tin rằng, nàng và Uylitxơ sẽ nhận ra nhau qua "những dấu hiệu riêng" chỉ có hai người
biết còn người ngoài không ai biết
hết. Thật là thận trọng, thông minh và giàu niềm tin.
- Uylitxơ trách "nàng thật là người kì lạ", các thần đã ban cho nàng "một trái tim sắt
đá" Lúc bấy giờ Uylitxơ vừa tắm và
thay quần áo xong "đẹp như một vị thần". Nàng ra lệnh cho nhũ mẫu "K hiêng giường ra
khỏi gian phòng vách tường kiên cố
"để thử chồng" K hi nghe Uylitxơ nói lên chân giường là một gốc cây cảm lảm không thể
nào di chuyển được thì Pênêlốp
"bủn rủn cả chân tay", "chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán

chồng". Hai mươi năm ấy biết bao
nhiêu tình! Pênêlốp nhìn chàng không chán mắt và hai tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy
cổ chồng không lỡ buông rời".
Tóm lại, Pênêlốp là một người vợ thuỷ chung rất thận trọng như nàng nói "vì đời chẳng
thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm
điều tai ác". Pênêlốp rất thông minh, kín đáo và bình tĩnh làm chủ cảnh ngộ. Nàng là một
phụ nữ, một người vợ rất giàu tình
cảm khi nhận ra Uylitxơ đích thực là chồng mình.
2. Uylitxơ
- Với kì mưu "con người gỗ thành Tơroa" chàng là một người trần mà mưu trí "sánh
ngang thần linh". M ười năm trời lênh
đênh biển cả, trải qua bao gian nguy, Uylitxơ là hiện thân của lòng dũng cảm, mưu trí và có
nghị lực phi thường.
- Là một con người giàu lòng yêu quê hương, gia đình, vợ con.
- Lập mưu giết bọn cầu hôn chứng tỏ "cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một
kẻ phàm trần nào sánh kịp" như
Têlêmác đã nói.
- Bình tĩnh, rất giàu tình cảm. Sự thật vốn không ưa trang trí, hãy kiên nhẫn đợi chờ để sự
thật nói lên sự thật! Uylitxơ để
cho "cái chân giường nói lên sự thật". Và khi Pênêlốp nhận ra chàng đích thực là chồng
nàng thì Uylitxơ "ôm lấy vợ xiết bao
thân yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình, mà khóc dầm dề".
Uylitxơ là hình ảnh lý tưởng về người anh hùng, về một người chồng, một người cha
dũng cảm, mưu trí, độ lượng, thuỷ
chung.
3. Nét đặc sắc nghệ thuật
- Tạo ra nhiều tình huống hấp dẫn, cảm động.

×