Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Ôn tập văn học 10 part 1 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.72 KB, 31 trang )

Các thành phần cấu tạo của nền văn học Việt Nam
1. Nền Văn học dân gian ra đời từ thời viễn cổ và tiếp tục phát triển về sau này. Tính
nhân dân, tính dân tộc của nó từ nội dung tới hình thức có tác dụng sâu sắc đến sự hình
thành và phát triển của nền văn học viết.
2. Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10 (?) gồm có 3 bộ phận: Văn học viết bằng
chữ Hán, Văn học viết bằng chữ Nôm và Văn học viết bằng chữ quốc ngữ. Ba bộ phận văn
học ấy nối tiếp, kế thừa và phát triển cho thấy tinh
thần sáng tạo, ý trí tự lập tự cường và sức mạnh Việt Nam vô cùng to lớn.
3. Văn học dân gian là cội nguồn của nền văn học dân tộc. Hai thành phần Văn học viết
và Văn học dân gian luôn luôn tác động qua lại, hội tụ và kết tinh ở những thiên tài văn
chương như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v
Các thời kỳ phát triển
Có thể chia làm 3 thời kỳ lớn:
1. Thời kỳ từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX: Thơ văn Hán - Nôm.
2. Thời kỳ từ thế kỷ thứ XX đến năm 1945: Thơ văn Hán Nôm - thơ văn quốc ngữ.
3. Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay: thơ văn quốc ngữ mang nội dung
cách mạng, kháng chiến, yêu nước và tiến bộ.
Mấy nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam
1. Truyền thống yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc
2. Tình nhân ái.
3. Thơ ca có một truyền thống lâu đời phát triển mạnh. Có nhiều kiệt tác.Văn xuôi phát
triển chậm: từ 1930 trở đi mới phát
triển nhanh vọt, tiến lên hiện đại hoá.
Khái niệm văn học dân gian.
- Văn học dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tuệ nhân
dân).
- Văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng hoặc văn học bình dân.
- Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ thời
viễn cổ, phát triển qua các thời kì lịch sử, đến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân gian có
những đặc trưng riêng so với văn học viết; nó cùng với văn học viết hợp thành nền văn học
dân tộc.


Các thể loại văn học dân gian
1. Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ.
2. Truyện dân gian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ
ngôn.
3. Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ.
Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
1. Tính tập thể (trong sáng tạo, trong lưu truyền, trong sử dụng và cảm thụ )
2. Tính truyền miệng.
3. Gắn với sinh hoạt xã hội (đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động )
Giá trị và vai trò của văn học dân gian trong nền văn học dân tộc
1. Văn học dân gian là kho báu về trí tuệ, tâm hồn và thẩm mĩ cao đẹp của nhân dân.
2. Văn học dân gian là ngọn nguồn, là cơ sở kết tinh của văn học dân tộc.
Định nghĩa
Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi) có quy mô hoành tráng, miêu
tả và ca ngợi những thành tựu có
tính toàn dân và có ý nghĩ trọng đại (sống còn, vinh nhục) đối với cộng đồng, ca ngợi những
anh hùng bộ tộc mang sức mạnh
thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc.
Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần - lễ nghi, nghệ thuật của xã hội thị tộc-bộ lạc, một thể
loại một đi không trở lại, phản
ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây dựng sự phát triển, chinh phục tự
nhiên và chiến đấu chiến thắng mọi kẻ
thù của bộ tộc. Những bộ sử thi của Việt Nam và thế giới
1. Việt Nam.
"Đẻ đất đẻ nước" của người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu
thơ; bản sưu tầm ở Thanh Hóa dài
8503 câu (?)
- "Bài ca Đan Sẵn" của người Ê đê.
- "Xinh Nhã" của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê.
- “Y Ban” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên.

- "Đăm Di" của người Ê đê và Giarai.
- "Xinh Chơ Niếp" của người Ê đê.
- v.v
2. Thế giới:
- "Ramayana" của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi.
- "Mahabharata" của Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi.
- "Ôđixê" của Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ.
- "Iliat" của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ.
- v.v
Những ý kiến về sử thi
1. "Thời đại thịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong thời đại dã man được diễn tả
trong những bài thơ của Hômerơ,
nhất là tập Iliat.
Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ thần thoại - đó là những di sản chủ yếu mà
người Hi Lạp đã đem được từ thời
đại dã man sang thời đại văn minh ” (Ăng ghen)
2. "Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta mới có thể giải thích
được vẻ đẹp tuyệt vời và sâu sắc
của thần thoạivà anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt để giữa nội dung và
hình thức " (Gorki)
3. "Sử thi anh hùng bao hàm một bức tranh hoàn chỉnh của cuộc sống nhân dân dưới hình
thức kể truyện anh hùng về quá
khứ. Thế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà của chúng - đó
là những nhân tố chủ yếu của
một nội dung sử thi anh hùng". (Mêlêtinxki)
Một vài nét về tác phẩm
1. Quy mô
Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" có quy mô hoành tráng. Bản sưu tầm ở Thanh Hoá dài tới 8503
câu thơ. Người Mường ở Nghĩ
Lộ, Hoà Bình và miền tây Thanh Hoá còn truyền tụng "Đẻ đất đẻ nước". Các thầy mo (thầy

cúng) vẫn đọc "Đẻ đất đẻ nước"
trong các tang lễ.
2. Tóm tắt
Thuở ấy, khi đất trời còn hỗn mang, bỗng "mưa dầm mưa dãi" nước ngập mênh mông, 50
ngày sau mới rút hết. Tự nhiên
mọc lên một cây xanh có 90 cành, có một cành cao trọc trời, biến thành ông Thu Tha, Bà
Thu Thiên. Hai Thần truyền lệnh
làm ra Đất, Trời và Vạn vật. Sau đó, nắng dữ dội suốt 12 năm liền, mặt đất xơ xác. Thần
Pồng Pêu ao ước một trận mưa lớn.
Tức thì mưa to gió lớn suốt chín, mười ngày đêm; hạt mưa to bằng quả bưởi, nước lại ngập
bao la. Bẩy tháng sau nước rút
cạn, có một cây si khổng lồ mọc lên tua tủa 1919 cành. Trời sai con Sâu Gang khoét ruỗng
ruột cây si. Cây đổ, mỗi cành hoá
ra một bản mường:
"Một cành đổ về đất Sạp
Nên mường Sạp.
Một cành đổ về đất Giạp
Nên mường Giạp.
Một cành ngã về đất Bi, đất Lỗ.
Nên Mường Bi, Mường Lỗ "
Có một cành si lại hoá ra Mụ Dạ Dần; mụ đẻ ra hai cái trứng kì dị, nở ra cun Bướm Bạc
và cun Bướm Bờ. Vừa mới nở,
cun Bướm Bạc đã ăn hết 9 chõ cơm; cun Bướm Bờ ăn hết 5 chõ xôi:
"Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ
Lớn cao hơn đụn chính, đụn mười.
Tiếng cười như tiếng trống cái
Tiếng nói như tiếng sấm vang
Xương vai dài tám mươi lóng
Xương sống dài bẩy mươi gang "
Vua trời cho mười nàng tiên xuống trần gian du ngoạn. Hai cun cưõi ngựa bạc, vác ná đi

sãn lợn rừng, gặp các nàng tiên
"lưng ong, tóc mượt". Hai nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ nên chồng . Sau 12 năm
9 tháng, hai nàng tiên sinh được
một bầy con mà "Trống chim Tùng, mái chim tót là con út con yêu". Đôi chim trống mái
sau "9 ngày, 9 đêm, 9 tháng" để ra
1919 chiếc trứng nở ra Thần Chớp, Thần Mây, nở ra chuột, lợn, voi, thú dữ Đôi chim đẻ
ra lứa thứ hai "được một trứng
đen đen bốn khúc - Trứng bầu dục 4 khuôn - Mặt vuông mặt tròn chín cạnh -Rành rành
mười hai quai" Mụ Dạ Dần sai
chim chiền chiện ấp, trứng nở ra một bầy con, mỗi đứa nói một thứ tiếng: tiếng Lào, tiếng
Thái, tiếng K inh, tiếng Mọn, tiếng
Mường, tiếng Mán, tiếng Mèo… Trứng cũng nở ra anh em nhà lang: ông Dịt Dáng, ông
Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố
Bướm Khang, ông Sang Si, nàng Vạ Hai Chiếng Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mường có
từ đấy.
Thần Cuộng Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời "đúc 9 mặt trời, đúc được 12 mặt trăng"
làm chói chang trời đất. Họ nhà
Ngao "thần nỏ" dùng cung tên bắn rụng hết, chỉ để lại một mặt trăng, một mặt trời. Rồi ông
Thu Tha, bà Thu Thiên làm ra
năm, tháng, ngày, đêm, bốn mùa cho người theo đó làm ăn sinh sống.
Người Mường chưa có thủ lĩnh.Mường nước mời ông Dịt Dáng, rồi mời Lang Tá Cái ra
"cầm binh cầm mường”. Cả hai
đều bất tài bị "ma đón đường, thuồng luồng xanh","rồng vàng ngăn ngõ". Mường nước phải
đi mời Lang Cun Cần ra tiễu trừ
ma quỷ, thú dữ.
"Ma chạy từng bầy trốn vào trong núi
Ma rồng sơ Lang Cun Cần trời
Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần chặt
Ma Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh"
Lang Cun Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa Thần giúp lang dựng nhà cửa to đẹp. Tà Cắm

Cọt (thần lửa) cho Cun Cần
lửa. Nàng tiên Mái Lúa (thần Trồng Trọt) giúp lang nhiều hạt giống để sản xuất. Lang
Khấm Dậm bày cho cách ủ men chế
rượu cần. Mụ La, mụ Húng, (thần chăn nuôi) dạy cho mường nước nuôi gia súc, gia cầm.
Mường nước có trâu bò cày ruộng
làm nương.
Hai chương 17, 18 gồm 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lang lấy em gái
nàng Vạ Hai Chiếng, bị làng bản
coi khinh, bị vua Trời sai cun Sấm nàng Sét (thiên lôi) xuống trừng phạt, may mà thoát chết.
Lang Cun Cần sai bỏ nàng Vạ
Hai Chiếng vào rừng sâu. Lang sai người đem lễ vật đi khắp nơi tìm "gái đẹp con dòng".
Cun Cần lấy được nhiều vợ: có vợ là
con gái vua Trời, có vợ là thần tiên, có vợ là con gái mường nước. Lang Cun Cần có một
bầy con:
"Nàng Vậm Đầu Đất
Đẻ được cun Tồi, cái Sang
Nàng Vậm Đầu Nước
Đẻ ra cun Tàng, cái Lớn,
Nàng Ả Sao, Ả Sáng,
Ả Rạng nhà ông vua Trời
Đẻ được Lang Cun Khượng
Ả Gái nuôi trong mường
Đẻ ra chàng Toóng Ín "
Con cái trưởng thành. Lang Cun Cần chia đất cho các con. Anh em bất hoà. Toóng Ín vu
cho Lang Cun Khương làm giặc
để âm mưu cướp đất của anh. Lang Cun Khương chạy lên vua Trời, nhờ ông ngoại che chở.
Trời giáng hoạ, gây ra lũ lụt, ép
anh em nhà Lang phải giết Toóng Ín. Từ đó, Lang Cun Khương trở nên một thủ lĩnh giàu
có, đầy quyền uy.
Tậm Tạch là tôi tớ của lang đã tìm được cây Chu Đồng (cây thần) lấy được "bông thau,

quả thiếc" mà trở nên giàu có.
Anh em Lang Cun Khương lập mưu chuốc rượu cho Tậm Tạch say, lừa lấy được "bông
thau, quả thiếc". Lang đưa cả
mường nước đi chặt cây Chu Đồng kéo về làm nhà chu.Tậm Tạch phản loại bị lang giết
chết. Rùa Thần lại giúp lang làm nhà
chu "sáng cả mường, kinh kì kẻ chợ", "rạng trời rạng đất". Lang giết 10 voi ngà, 30 trâu
mộng, 9 bò, 100 gà sao, nấu 1000 vò
rượu, để ăn mừng. Lang Cun Cần ban thưởng cho các con nhiều vàng bạc quý giá.
Con của Tậm Tạch lại đốt nhà chu để báo thù cho cha. Hắn lại bị lang giết chết, máu hắn
hoá thành con Moong khổng lồ,
tàn phá bản mường. Lang Cun Cần đưa tất cả mường nước đi săn Moong, vô cùng nguy
hiểm mới giết được. Moong được
ăn thịt; người Lào, người Thái, người Tày, người Mường nhanh chân lấy được da Moong
vằn vện mà học được cách thêu
thùa, dệt vải rất đẹp. Người K inh đến sau lấy được thịt và mỡ Moong, từ đấy biết nấu nhiều
món ăn ngon.Người "Mường
ngoài" (Hoà Bình) đến sau cùng, chẳng được thứ gì , chỉ nhìn thấy đống tro thui Moong,
chẳng may, gió thổi tro bay dính vào
môi, nên môi người "Mường ngoài" bị đen là vì thế!
Tai hoạ còn nhiều. Chó ăn phải phổi Moong mà thành chó điên. Chó điên bị giết, xác bị
quẳng xuống sông, cá ăn phải biến
thành Cá điên. Cá điên bị lang bắt giết, bầy quạ ăn phải hoá ra Quạ điên. Mường nước săn
nùng mãi, cuối cùng Lang Cun
Khương bắn trúng Qụa, cả bày hoảng sợ bay trồn vào rừng sâu. Nhưng rồi hồn Toóng Ín lại
biến thành Ma Ruộng đưa bầy
Rắn "mỏ vàng, mỏ đỏ" đánh nhau với anh em Lang Cun Khương. Quân hai bên đánh nhau
suốt đêm ngày, kịch chiến giữa
ruộng, quần nhau trên đồi gianh, đuổi nhau trong rừng sến, hỗn chiến tại bến sông Rồng,
Toóng Ín thất thế phải chạy xuống
thuỷ phủ của Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long Vương biến Toóng Ín thành Ma

May, Ma Lang. Hắn đưa binh mã
gồm thuồng luồng, ba ba, cá ngao dâng nước làm lũ lụt, dìm chết được Lang Cun Tàng,
Lang Cun Khương cùng mường
nước nổi chiêng cồng đem giáo mác, cung nỏ, lưới vây các ngả sông đón đánh. Giặc Ma
May, Ma Lang bị đại bại, bỏ lại
trên bãi chiến trường bao xác loài thuỷ quái, làm thổi cả bản mường.
Từ đó, mường nước yên vui, hoà bình thịnh vượng. Lang Cun Cần đã sống được trên vạn
năm. Trẻ già, trai gái mường
nước nô nức sắm áo quần, lo kiệu lo ngai, rước vua về, "Đồng chì tam quan kẻ chợ"
Giảng văn: Đẻ nước
1. Xuất xứ
Đoạn thơ này trích gần trọn chương "Đẻ nước" trong sử thi "Đẻ đất đẻ nước"; từ câu
268-334 theo sưu tầm của Hoàng
Anh Nhân (Thanh Hoá)
2. Ý chủ đạo
Đoạn thơ nói về trận đại hồng thuỷ thời tiền sử - buổi đầu khai thiên lập địa theo cách
cảm nhận riêng của người Mường xa
xưa.
3. Ông Pồng Pêu
Là Thần Mưa theo cách gọi của ngưòi Mường.
Thiên tai kéo dài "Hạn 9 tháng biền biệt - nắng 12 năm xác đất" làm cho muôn loài đau
khổ: "cây cau úa cả tàu - rừng vàu
không mọc măng", làm cho "chó mực, chó ngao lè lưỡi, rái cá phải chạy lên đồi"
Ông Pồng Pêu lúc đó đang ngồi "đan chài" và "đan lưới" trong nhà, bình dị như con người
lao động. Ông ngước nhìn khắp trời
đất, rồi gọi gió, gọi "mưa cho mát lòng các loài thú hiền thú dữ, cây lau cây bái". Tức thì
trời mưa to. Pồng Pêu là biểu tượng
cho ý nguyện của muôn loài muôn vật và con người vì sự sống bắt diệt trên trái đất.
4. Cảnh trời mưa
Mưa miêu tả dữ dội chẳng khác nào trận đại hồng thuỷ trong Kinh thánh nói đến. Mây

vàng mây đen đùn lên che kín cả
bầu trời, gió ùn ùn thổi điên cuồng. Cun Sấm nàng Sét cùng ra oai:
"Lanh lảnh cun Sấm xuống thét
Lăm lăm nàng sét xuống đánh".
Mưa kéo dài "mưa 9 đêm, mưa liền 9 ngày". Hạt mưa " to bằng hột cà" về sau "to bằng
quả bưởi". Nước ngập mênh
mông. Mưa để "rước nàng ngâu về trời" để "đưa chàng ngâu qua sông Ngân". Mưa "ngập
cây", "ngập bụi", mãi "bốn tháng
nước rút - bẩy tháng nước xuôi". Mưa đem đến sự sống cho đàn cua đá, đàn cá, đàn ba ba,
đàn cá chuối, đàn nòng nọc, đàn
cá cơm. Sau khi "đẻ nước" trời "đẻ đất".
Có đất, đất đang xơ xác,
Có nước, nước ùn đục ngầu
Đó vẫn là cảnh thiên địa xơ khai.
Biện pháp lặp và liệt kê được nhà thơ dân gian xưa của tộc Mường, vận dụng tạo nên ấn
tượng "đẻ nước". Thần mưa, thần
Sấm, thần Sét, Chức nữ, Ngưu lang được nói đến hồn nhiên đầy ý vị. Đoạn sử thi đã giải
thích hiện tượng mưa gió, lũ lụt
qua cảm quan nghệ thuật “vạn vật hữu linh" của người Mường thời viễn cổ.
Xuất xứ
"Bài ca chàng Đam Săn" là sử thi anh hùng của tộc người Ê đê ở Tây Nguyên. Tác phẩm
được nhiều người sưu tầm tuy lời
kể có khác nhau ít nhiều, nhưng cốt truyện đều giống nhau.
Tóm tắt
Theo tục "nối dây", Đam Săn phải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Anh đã
chống lại, nhưng bị trời lấy ống điếu gõ
vào đầu 7 lần "Đam Săn chết lịm, rồi Trời cho sống lại". Cuối cùng Đam Săn phải làm theo
lời Trời. Đam Săn trở thành tù
trưởng giàu mạnh, danh tiếng vang lừng rừng núi, "đầu đội khăn kép, vai mang túi da". Đam
Săn đã cùng bộ tộc đánh thắng

hai tù trưởng hùng mạnh khác là Mơtao Grứ và Mơtao Mơxây, bắt được nhiều nô lệ, thu
được nhiều tài sản quý báu. Ngang
tàn coi thường thần linh, Đam Săn chặt cây thần. Chặt mãi cây mới đổ. Cây đổ quật chết cả
hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Anh
vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống vợ anh. Đang sống trong yên vui giàu có, Đam Săn
lại lên đường đi bắt Nữ thần Mặt
Trời để có "hai vợ lẽ vợ thật đẹp”. Cuộc cầu hôn thất bại, anh trở lại quê nhà, bị chết lún
giữa rừng của bà Sun Y Rít. Đam
Săn chết, cháu Đam Săn ra đời, lại theo tục "nối dây" đi tiếp hành trình của cậu chàng, dấn
thân vào cuộc chiến đấu mới.
Giảng văn
Đi bắt nữ thâng Mặt Trời
1. Xuất xứ và ý tưởng chủ đạo
Đoạn trích "Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời" nằm trong chương 7 "Bài ca chàng Đam
Săn"
Đoạn sử thi này nói lên khát vọng và dũng khí, lòng quả cảm của người anh hùng Đam Săn
được bộ tộc ngưỡng mộ.
2. Hình ảnh dũng sĩ Đam Săn
- Khát vọng phi thường. Là một tù trưởng giàu có và hùng mạnh: "Trăm chiêng núp anh
đã có. Trăm chiêng bằng anh đã
có. Trăm con voi anh đã có ". Nhiều nồi đồng, lợn dê đầy sân. "Tiếng tăm anh vang đến
thần núi", ai cũng phải khen anh là
"gan dạ, anh dũng", không hề lùi trước bất cứ địch thủ nào! Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt
Trời vì nàng là "người đẹp nhất",
"bắp chân nàng tròn, váy nàng đẹp tuyệt vời". Đi bắt nữ thần Mặt Trời mới thành một tù
trưởng "hết sức giàu mạnh trên đời
không ai bì kịp" Khi đến vương quốc của nữ thần Mặt Trời, Đam Săn đã nói với người
đẹp: "Tôi muốn có hai vợ lẽ, tôi
muốn có một người vợ thật đẹp và tôi hứa với nàng tôi sẽ mang nàng xuống trần lập một gia
đình chung với Hơ Nhí và Hơ

Bhí". N gười tù trưởng phải có khát vọng phi thường như vậy mới tiêu biểu cho phẩm chất
cao đẹp của cộng đồng bộ tộc xa
xưa.
- Dũng khí quả cảm vô song.
Lên đường với con tuấn mã, tay cầm lao, gươm dắt thắt lưng, khoác áo màu đen màu
trắng, mang theo bùa ngải "sẽ giúp
tôi thắng!". Đừng đi đầy tê giác, hùm thiêng, cọp dữ, đã cắm chông, đã cắm bẫy, nước đầy
đỉa, cây đầy sên, bò cạp giữa
đường, rết trên ngọn cây xương người và xương trâu đầy rừng! Nhưng quyết tâm của
Đam Săn không hề nao núng: "Mặc
kệ! để tôi kiếm một nối đi. Tôi sẽ tới chỗ tôi muốn! Gặp hùm tôi sẽ giết hùm".
Đam Săn ra đi từ lúc gà gáy. Chàng vượt qua rừng âm u, núi rậm chân và tay bị cỏ tranh,
mây "cắt nát". Đến ranh giới giữa
trời và đất, Đam Săn đã "chặt một sườn núi ném xuống bùn làm con đường" để vượt qua và
tiến lên. Chàng dũng sĩ vô cùng
ngạc nhiên trước cái nhà của nữ thần: cầu thang nhà là chiếc cầu vồng, cối và chày giã gạo
đều bằng vàng, sân nhà đầy voi,
trong nhà đầy chiêng núp. Tôi tớ trai và gái đi lại đông như mây. Đam Săn thì được người
nhà của nữ thần ngắm nghía như
nhìn một "thần linh danh tiếng". Còn nữ thần Mặt Trời thay hai lần váy mới "nhấp nháy như
chớp sáng". Tóc chải bóng buông
dài. Dáng đi thướt tha "như chim diều bay, như phượng hoàng liệng, như nước chảy êm
đềm". Cổ nàng "đẹp như cổ con
công". Nàng là dòng dõi nhà "Trời và Đất". Với tưởng tượng kì diệu, tác giả sử thi đã miêu
tả hành trình của Đam Săn và hình
ảnh nữ thần Mặt Trời để ca ngợi dũng khí, lòng quả cảm và khát vọng về công danh, hạnh
phúc của người dũng sĩ lỗi lạc.
Cuộc cầu hôn không thành, Đan Săn lên ngựa trở về. Thần ánh sáng đã làm cho đất nhão
ra. Chàng dũng sĩ đã chết trong
tư thế lẫm liệt. Mặc dù vậy, Đam Săn là tù trưởng duy nhất đi tới được vương quốc nữ thần

Mặt Trời. Người Ê đê xưa và
nay vô cùng tự hào về hành trình của Đam Săn. Cách giải thích hiện tượng tự nhiên, Mặt
Trời và ánh sáng của người Ê đê xa
xưa rất kì diệu.
Đoạn Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời là đoạn hay nhất tràng lệ nhất, bi tráng nhất trong
sử thi "Bài ca chàng Đam
Săn". Nghệ thuật phóng đại và so sánh được sử dụng trong miêu tả và chuyện kể rất thần
tình, đầy ấn tượng.
Một vài điều cần biết về chuyện cổ tích
1. Cổ tích là tích cũ, chuyện xa xưa, ra đời khi xã hội có áp bức, bóc lột. Cổ tích kể về
những
truyện mang yếu tố hoang đường, sự tích kì lạ về con người, hoặc thế giới muôn loài, chứa
đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.
2. Người ta chia truyện cổ tích thành 3 loại:
- Truyện cổ tích loài vật (Quạ và Công; Con thỏ tinh khôn )
- Truyện cổ tích thần kỳ (Chử Đồng Tử, Cây khế…)
- Truyện cổ tích sinh hoạt (Chàng ngốc, Cái cân thuỷ tinh )
3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giàu và nghèo, thống trị và bị thống trị, chính nghĩa
và phi nghĩa Các bài học về ở
hiền gặp lành, ác giả ác báo, tham thì thâm rất dễ bắt gặp trong truyện cổ tích. Cổ tích nêu
cao khát vọng về tự do và hạnh
phúc, công bằng ở đời.
Truyên "Chử Đồng Tử"
1. Tóm tắt.
Ngày xưa ở nàng Chử Xá có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nghèo khổ, mò
cua bắt ốc, chỉ có một chiếc khố
chung nhau, hễ ai đi đâu thì đóng: Chử Cù Vân ốm sắp chết dặn con cứ táng trần cho cha.
Nhưng khi Chử Cù Vân qua đời
thì Chử Đồng Tử đã lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn cất. Ngày ngày Chử Đồng Tử vẫn
xuống sông mò cua bắt cá kiếm

sống. Thuở ấy có nàng Tiên Dung, công chúa của vua Hùng thứ ba, nhan sắc tuyệt trần, đã
17, 18 tuổi mà không chịu lấy
chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Một hôm, thuyền của nàng đến khúc sông
làng Chử Xá, thấy cảnh sông nước
bờ bãi xinh đẹp, nàng bèn ra lệnh cho thị nữ vây màn tứ vi vào một nơi có bóng mát để tắm.
Không ngờ nơi đó Chử Đồng
Tử đang náu mình dưới cát. Tiên Dung giội nước một lúc, nàng giật mình thấy một chàng
trai trồi lên. Nàng hỏi duyên cớ thì
Chử Đồng Tử nói vì không có quần áo, thấy thuyền quan quân thì sợ nên phải vùi mình
xuống cát để ẩn.
Tiên Dung nói với Chử Đồng Tử : "Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run
rủi, lại gặp chàng chốn này mới biết
cưỡng không được với trời". Nàng sai thị nữ đem áo quần cho Chử Đồng Tử và sửa soạn
tiệc hoa. "Chử Đồng Tử bối rối
chối từ, Tiên Dung nói: "Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối!". Hai
người nên vợ nên chồng từ đấy.
Vua Hùng được tin giận lắm, ra lệnh cho quân quan, người hầu của Tiên Dung phải về
kinh đô. Nàng sợ cha, đành cùng
chồng ở lại làm ăn. Mấy năm sau, cuộc sống trở nên thịnh vượng. Nàng để chồng ra biển
tìm vật lạ đem về đổi lấy các thứ
khác. Chử Đồng Tử lên đường. Đến một nơi núi non hữu tình, thấy cái am nhỏ, chàng leo
lên núi, may thay gặp sư Phật
Quang. Thấy Chử Đồng Tử là người chân thật, sư Phật Quang truyền cho phép lạ, hơn một
năm sau thành tài. Chử Đồng Tử
xuống núi trở về nhà, lạy tạ nhà sư và được Phật Quang ban cho một cái gậy, một nón có
phép mầu nhiệm biến hoá. Chử
Đồng Tử đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung rồi hai vợ chồng du ngoạn cảnh sông núi.
Có lần trời tối giữa đường, hai vợ
chồng cắm cái gậy xuống đất, úp nón lên đầu gậy, hai người tựa vào nhau dưới nón mà ngủ.
Nửa đêm tỉnh giấc, hai vợ chồng

thấy mình đang sống trong một cung điện tráng lệ Tin lạ ấy bay đến tai vua Hùng. Vua cả
giận, ngỡ là Chử Đồng Tử và Tiên
Dung làm phản bèn sai quân quan đi đánh dẹp. Binh mã triều đình chưa qua sông thì trời tối
phải dừng lại. Đêm ấy, Tiên Dung
và Chử Đồng Tử cùng bay lên trời. Mưa to, gió lớn, cung điện cũng biến mất. Về sau, bãi ấy
gọi là bãi Tự Nhiên, đầm ấy gọi
là đầm Nhất Dạ. Nghe nói, thời nước ta bị tàu đô hộ, Chử Đồng Tử đã cưỡi rồng xuống giúp
Triệu Việt Vương một cái vuốt
rồng cắm lên mũ đầu mâu Nhờ thế mà quân ta phản công, chém được tường giặc Lương là
Dương Sằn, khôi phục lại đất
nước.
2. Ý nghĩa.
- Chử Đồng Tử " là một truyện cổ tích thần kì, có nhiều dị bản đậm sắc thần kỳ"
Nó cũng thuộc đề tài về những kẻ hèn mọn "lấy tiên, lấy công chúa được kể qua nhiều
truyện cổ tích thần kì. Truyện
"Chử Đồng Tử" cũng vậy. Chử Đồng Tử mò cua, bắt cá, nghèo khổ, một cái khố cũng
không có, nhưng rất hiếu thảo, chân
thật. Hạnh phúc cầm tay rồi mà chàng vẫn bối rối, muốn chối từ. Với Tiên Dung thì nàng
"gặp" và lấy Chử Đồng Tử là do
"duyên trời run rủi", là " tự trời xe duyên". Qua đó, ta thấy truyện Chử Đồng Tử nói lên
quan niệm của nhân dân ta về vấn đề
hôn nhân là do duyên số, đồng thời thể hiện ước mơ tự do và dân chủ trong tình yêu, trong
xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Tiên
Dung đã chủ động kết duyên với Chử Đồng Tử vượt qua lễ giáo và đẳng cấp, vượt qua mọi
thử thách để bảo vệ hạnh phúc.
Tình tiết Chử Đồng Tử cưỡi rồng xuống hạ thế giúp Triệu Việt Vương chiếc vuốt rồng linh
nghiệm để quân ta chém được
tướng giặc là Dương Sằn, Tổ quốc được giải phóng, đã làm cho truyện cổ tích này thêm vị
truyền thuyết thể hiện sâu sắc lòng
yêu nước của nhân dân ta. Con người Việt Nam dù đi đâu làm đâu cũng nhớ về cội nguồn,

tìm mọi cách để giúp nước. Chử
Đồng Tử và Tiên Dung đã sống và hành động như vậy.
Nhà sư Phật quang, cái nón và chiếc gậy nhiệm màu, cung điện tự mọc lên, tự mất đi,
Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên
trời, Chử Đồng Tử giúp Triệu Quang Phục cái vuốt rồng đó là yếu tố hoang đường, kì
diệu làm cho truyện cổ tích này vô
cùng hấp dẫn. Các địa danh: làng Chử Xá, bãi Tự Nhiên, đầm Nhất Dạ nay vẫn còn đó,
làm cho truyện cổ tích "Chử Đồng
Tử" tuy mang màu sắc hư ảo, thần kì mà như thật, có thật. Rất thú vị về những tên người,
tên đất ấy.
Tóm tắt
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao sinh được hai người con trai giống nhau như hai
giọt nước, thật khó phân biệt ai là
anh, ai là em. Khi hai anh em đến tuổi 17, 18 thì cha mẹ đều qua đời cả. Anh em lại càng
yêu thương nhau nhiều hơn.
Hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Thấy hai anh em chăm chỉ học hành, lại đứng
đắn nên thầy quý như con. Ông đạo
sĩ có một cô con gái xinh đẹp tươi giòn, tuổi đã 16, 17 sinh lòng yêu mến hai chàng trai,
muốn kết duyên với người anh như
không thể phân biệt được người nào là anh, người nào là em. Sau đó, cô mới nghĩ ra một kế:
dọn 2 bát cháo mà chỉ đặt một
đôi đũa rồi mời hai anh em cung ăn. Người em lễ phép nhường đôi đũa cho người anh ăn
trước. Cô gái xinh đẹp xin phép cha
mẹ cho được lấy người anh làm chồng.
Từ ngày lấy vợ, người anh hình như dồn tất cả tình yêu cho vợ nên tình cảm anh em
không còn được thắm thiết như trước
nữa. Người em buồn tủi vô cùng. Một lần đi nương về, trời đã tối, cô gái họ Lưu từ buồng ra
gặp người em tưởng là chồng,
vội ôm chầm lấy. Người em vội kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Còn người anh thì lại nghi ngờ
chị dâu và em chồng có tình ý gì

nên càng hững hờ với em hơn trước.
Một buổi chiều, ở nhà một mình, trống vắng, buồn tủi, cô đơn, người em đã bỏ nhà ra đi,
đi mãi vào tận khu rừng âm u.
Trời tối mịt, người em vẫn đi. Trăng đã lên. Phía trước là một con suối rộng, sâu, nước xanh
biếc, chẳng lội qua được. Chàng
ngồi bên bờ suối mà khóc, khóc mãi. Sương khuya lạnh thấm vào cõi lòng cô đơn. Chàng
chết mà vẫn trơ trơ, biến thành một
tảng đá.
Thấy em bỏ nhà ra đi mãi chưa về, người anh đi tìm em. Lại ngồi trước con suối, người anh
rầu rĩ than khóc, ngất đi rồi chết
cứng, hoá thành một cây không cành mọc thẳng đứng bên tảng đá. Người vợ lại bỏ ra đi tìm
chồng, tìm em. Lạ thay người lại
đi theo con đường vào rừng xanh, cũng đến bờ suối, ngồi cạnh tảng đá, dưới gốc cây. Nàng
vô cùng đau khổ khóc than,
mình gầy xác ve, chết tự lúc nào, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cái cây không cành
mọc bên tảng đá.
Trong vùng, ai cũng thương tâm. Một lần vua Hùng đi qua con suối ấy, nhân dân đem
truyện ba người kia kể lại cho vua
nghe. Vua bảo thử lấy quả ở cây không cành nghiền với lá cây leo thì một mùi thơm toả ra;
nhai thử thấy thơm ngon đậm đà
và nhổ vào tảng đá, lạ chưa bãi nước biến thành sắc đỏ. Nhân dân đặt tên cây không cành ấy
là cây cau, cây dây leo là cây
trầu, lại lấy tảng đá nung lên cho xốp để ăn với trầu, cau cho thơm miệng, đỏ môi.
Tục ăn trầu của dân ta có từ đấy. Trầu cau không thể thiếu trong lễ hội, trong cưới xin
Mỗi lần khách đến chơi nhà
"miếng trầu là đầu câu chuyện" làm cho tình nghĩa thêm đẹp và đằm thắm, đậm đà.
Phân tích
1. Ý nghía
Truyện "Trầu cau" là một trong những truyện cổ tích thần kì sớm nhất ở Việt Nam.
Truyện đã giải thích một cách nên thơ,

cảm động, với bao tình tiết đậm đà chất trữ tình tục ăn trầu- một mĩ tục dân gian, biểu hiện
một nét đẹp truyền thống lâu đời
giàu bản sắc của nền văn hoá Việt Nam. Đồng thời truyện còn ca ngợi tình nghĩa thắm thiết,
thuỷ chung của anh em, vợ chồng
trong gia đình.
Cái chết của ba người-hai anh em họ Cao và cô gái họ Lưu- chỉ là một sự hoá thân kì
diệu:cau - trầu - vôi. Cây cau toả
bóng chở che cho hòn đá, cây trầu quấn chặt lấy thân cau. Cũng như trầu với cau ăn với tí
vôi làm cho miệng thơm môi đỏ.
Trầu cau đã gắn bó với lễ hội cổ truyền, trong thù tiếp của cộng đồng người Việt xa xưa.
2. Lời bình
Dị bản thành văn của truyện "Trầu cau" xuất hiện ở thế kỷ 15 trong "Lĩnh Lam chích
quái" (Truyện Cây Trầu). Nhưng như
thế là rất muộn so với nội dung xã hội được phản ánh trong truyện. Mằc dù các tác giả
"Lĩnh Lam chích quái" có cố gắng tô
điểm lại thêm đôi nét cho thích hợp với quan điểm đạo đức thời phong kiến, dị bản này vẫn
bảo lưu được cái cốt lõi rất cổ
của truyện kể. Đó là một kiểu truyện kể về sự xung đột của hai quan điểm vì hình thái hôn
nhân: một thuộc chế độ quần hôn
(anh em lấy chung một vợ) thời mẫu hệ và một thuộc chế độ hôn nhân và gia đình lứa đôi
thời phụ hệ.
Sự xung đột đó phản ánh một bước tiến xã hội và thể hiện thành tâm trong đau khổ giằng
xé giữa tình anh em và tình yêu
trai gái ở trong từng nhân vật của truyện. Tâm trạng ấy đưa đến cái chết sầu muộn của cả ba
người thật là cảm động. Kiểu
truyện này phổ biến khắp vùng Đông Nam Á.
Nhưng cũng như ở nhiều nơi khác, truyện cổ tích thần kì Việt Nam đã lồng đề tài xã hội
vào đề tài thiên nhiên, đã kết thúc
bằng đồng nhất các quan hệ tình cảm kia với sự hài hoà của thiên nhiên (trầu, cau, vôi) gợi
nên niềm thương cảm gắn bó giữa

những con người chân thành với nhau, cũng là một nội dung văn hoá lành mạnh của tục ăn
trầu ở Việt Nam hàng ngàn năm
qua.
Cao Huy Đỉnh
(Tìm hiểu tiến trình văn hoá dân gian Việt Nam)
Tóm tắt
"Tiễn dặn người yêu" là một truyện thơ dài 1846 câu của người Thái ở Tây Bắc nước ta.
Truyện kể về một mối tình chung
thuỷ của lứa đôi, trải qua nhiều trắc trở đắng cay, cuối cùng cũng đoàn tụ. Cốt truyện như
sau:
Chàng trai nhà nghèo yêu một cô gái. Hai người có bao kỷ niệm đẹp êm đềm và từng gắn
bó thề nguyền:"Sông Đà cạn
bằng chiếc đũa hãy quên". Anh nhờ người mối lái, lo lễ vật đến xin ở rể, nhưng bố mẹ cô
gái chê anh nghèo, không nhận lời.
Cô bị bố mẹ ép gả cho một người con trai giàu có. Cô kêu van chú thím anh chị em trong
nhà, kêu van đến cả chim cu,
nhưng ai cũng không giúp được, "dẫu van xin bố mẹ cũng không buông, không tha".
Người con trai nhà giàu đến ở rể. Người yêu của cô đau khổ, phẫn chí bỏ nhà đi buôn, hy
vọng trở nên giàu có, sẽ trở về
giành lại người yêu.
Trước lúc ra đi, cô trao lại người yêu chiếc đàn môi hẹn ngày tái ngộ. Cô mòn mỏi chờ
trông mà người yêu đi mãi vẫn chưa
về. Năm tháng đã trôi qua, người con trai nhà giàu đã hết hạn "ở rể ngoài" và được làm "rể
trong". Hết hạn ở rể, cô phải về
nhà chồng. Cùng lúc ấy, người yêu trở về, anh tiễn chị đi. Đôi bạn tình bịn rịn, không muốn
rời nhau. Anh tiễn người tình trước
lúc chia tay: " K hông lấy được nhau thời trẻ" thì hãy lấy nhau "khi goá bụa về già".
Mấy năm sau, chị bị nhà chồng đuổi về nhà cha mẹ đẻ vì theo họ, chị không thể nào trở
thành "vợ hiền, dâu thảo". Rồi cha
mẹ chị bán chị cho một nhà quan. Chị đau khổ như điên như dại. Gia đình nhà quan đưa chị

ra chợ bán với giá bán một cuộn
dong. Người mua chị lại chính là người yêu cũ, nay đã trở nên giàu có và đã có vợ. Chị đã
quá thay đổi, anh chẳng nhận ra chị
được nữa. Chị đem đàn môi ra gảy. Anh chợt nhận ra chị qua tiếng đàn môi não nùng. Anh
thu xếp cho người vợ trước trở về
nhà cha mẹ mình rồi cưới chị làm vợ như lời nguyền ngày trước.
Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa
1. Đoạn thơ ghi lại tâm trạng hoảng hốt, đau khổ của cô gái Thái khi bị cha mẹ ép
duyên.
- Đó là một buổi chiều, cô đang kiếm củi trên nương. Cô vừa hái củi vừa nghĩ đến người
yêu: " một bó dành nhen lửa sàn
hoa - Lứa sàn hoa để bạn trai xa hơ áo - Em chỉ đón chờ mồi thuốc anh yêu". Cô mơ ước
"Hỡi vía anh yêu, về nhà theo
nhau". Mặt trời được nhân hoá như đang đối thoại với cô gái, mặt trời "qua sàn người
thương", lúc "sắp lặn", lúc "khuất mây
mờ", mặt trời "không gọi không chờ", - chẳng khác nào chàng trai - người yêu của cô.
Gánh củi về nhà, cô ngạc nhiên nhìn thấy gói cà, gói xôi, gói thuốc lào Lúc đầu cô tưởng
là hàng hoá của người Xá mang tới
đổi bán. Khi biết là sính lễ "ràng cuốn tình con", cô luống cuống hoảng sợ, đau khổ "lập cập
chạy ra sân" "nát ruột gan" nghĩ
về người yêu. Kêu van bác trai, bác gái, chú thím, chị em dâu rể, ai cũng bảo: "K hông giúp
nổi cháu ơi", "không giúp được em
ơi!" N ghe chim cu khuyên giải: "Bố gả chồng cho, đừng chối cô à!".
Như một định mệnh "dầu van xin cha cũng không buông không thả", cô gái tủi thân, tủi
phận, than khóc:
"Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa.
Bằng con chẫu chuộc thôi!"
2. Ý nghĩ, giá trị
- Đoạn thơ phản ánh tục lệ ép duyên, lên án lễ giáo phong kiến về hôn nhân đã chà đạp
lên tình yêu hạnh phúc của người

phụ nữ. (Thái)
- Đoạn thơ có giá trị nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm đối với nỗi đau khổ của người con
gái bị ép duyên.
Tóm tắt
"Vượt biển" là một truyện thơ dân gian Tày, Nùng, dài chừng 1.000 câu thơ. Tiếng Tày,
Nùng gọi là "K hảm hải". Truyện
được lưu truyền rộng rãi ở vùng xung quanh hồ ba bể, tỉnh Bắc Cạn. Các thầy cúng xưa nay
vẫn đọc "Vượt biển" trong
những buổi lễ cầu hôn, cầu mát nghe rất não nùng, ai oán. Có thể tóm tắt truyện thơ "Vượt
biển" như sau:
Có hai anh em nhà kia mồ côi, lúc nhỏ rất yêu thương nhau. Sau khi người anh lấy vợ, rồi
giàu có. Người anh trở nên nhạt
nhẽo và bỏ mặc em sống nghèo đói lam lũ, rách rưới. Chị dâu thương tình vá áo cho đứa em
chồng. Lưng áo rách của em đã
in những ngón tay chàm của chị dâu. người anh đi làm về nhìn thấy vết tay chàm trên lưng
áo em, ghen tức.
"Chém đầu em treo ngọn cọ,
Chặt chân em treo ở ngọn vông".
Em chết đau đớn, oan khuất. Linh hồn không nơi lưng tựa, bơ vơ. Rồi bị các quan slay ở
âm phủ bắt làm sa dạ sa đồng -
phu chèo thuyền trên biển ma. Mỗi lần vượt biển là phải trải qua một hải trình dài 12 rán
nước, đay thuỷ quái, mặt biển réo
sôi. Các sa dạ sa đồng lúc thì cất tiếng than hãi hùng, lúc thì hối hả gọi nhau chèo gấp. Lúc
các slay lên bờ kéo vào chợ
Đường Chu (chợ xứ ma của Diêm Vương), sa dạ ngồi trên bờ biển than khóc, khiếp sợ nghĩ
đến cảnh phải vượt biển trở lại
tiếp theo
Phân tích đoạn thơ "Chèo thuyền vượt biển"
Ở dương gian, người em trải qua nhiều cái khổ: mồ côi, cô đơn, đói rách, bị anh giết chết
một cách dã man và oan uổng.

Xuống địa ngục lại trở thành sa dạ sa đồng, phải trèo thuyền vượt qua biển dữ, biển ma. Hải
trình là 12 rán nước, mỗi rán
nước là một cửa tử, rùng rợn vô cùng. Phép liệt kê tăng cấp cùng với tiếng than khóc, tiếng
biển sôi, biển réo tạo nên cảnh
chết vô cùng hãi hùng! Rán thứ chín "mặt biển nước sôi gầm réo", rán thứ mười "nước trời
băng băng, làm cho con thuyền
"cánh dầm tung bốn góc". Rán thứ mười một "sóng đuổi sóng xô đi", v.v… Thuỷ quái, nhất
là con "ngọ lồm" - quỷ biển ma -
đón đường cắn xé sa dạ sa đồng. Phu chèo thuyền kinh hãi, cất tiếng khóc than:
"Biển ơi, đừng giết tôi
Nước hỡi, đừng lôi lấy thuyền".
Họ gọi nhau "chèo mau lên, chèo cố" giữa biển ma mịt mù và cái chết nơi cõi âm bủa
vây.
Các slay - quan quân lên bờ, có người "ôm hoa", "ôm hương", có người "cầm nón", "cầm
ô", "xách giầy hoa giầy đẹp", gánh
gồng bao của quý "đi lễ người". Còn các sa dạ sa đồng, hồn ma của người em bất hạnh ngồi
trên bờ biển càng cảm thấy cô
đơn, nghĩ đường về nhà kinh hãi:
"Chèo thuyền qua lò than, qua biển
Nhìn đường về, nước cuộn ầm rung".
Hết rán nước này qua rán nước khác, chèo thuyền đi rồi lại chèo thuyền về trên biển ma -
kết cấu chuyển dịch nhằm diễn
tả những kiếp người luân hồi đau khổ. "Vượt biển" qua giọng đọc và khấn cầu của thầy
cúng, ai đã một lần được nghe mới
súc động trước âm điệu thê thiết não nùng, mới cảm thấy cái khủng khiếp của bể trầm luân
và thương sót với những kiếp
người đau khổ, bất hạnh. Truyện thơ "Vượt biển" là tiếng kêu đau thương từ cõi âm vọng về
cõi dương. Đó là nội dung
nhân đạo của nó.
Bài ca người thợ mộc

Anh là thợ mộc Thanh Hoa,
Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay!
Lựa cột anh dựng đòn tay,
Bào trơn đóng bén nó ngay một bề.
Bốn cửa anh chạm bốn dê
Bốn con dê đực chầu về tổ tông,
Bốn cửa anh chạm bồn rồng,
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo.
Bốn cửa anh chạm bốn mèo,
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.
Bốn cửa anh chạm bồn gà,
Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn.
Bốn cửa anh chạm bốn lươn,
Con thì thắt khúc, con trườn bò ra.
Bốn cửa anh chạm bốn hoa,
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen.
Bốn cửa anh chạm bốn đèn,
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ.
Một đèn đọc sách ngâm thơ,
Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.
Lời bình
Tục ngữ có câu: "Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Kinh kì", hoặc: "Thợ mộc xứ Thanh ở
quanh Thuận Quảng". Thợ mộc dù
giỏi đến đâu cũng chỉ được gọi là phó cả. Thợ mộc làm cung điện vua chúa mới được gọi là
thợ cả. Xây dựng cung điện thời
Lê - Thịnh, thời N guyễn sau này, phần lớn là thợ mộc Thanh Hoá. Câu đầu của bài ca dao
này có dị bản ghi là "Anh làm thợ
mộc Thanh Hoa". Theo ý chúng tôi là “Anh là thợ mộc Thanh Hoa”; một chữ là biết mấy tự
hào khi chàng trai xưng danh với
cô gái. Không phải thợ mộc tầm thường mà là thợ mộc Thanh Hoa xây dựng cung điện đấy

nhé! Hai chữ "khéo thay" cũng là
lời tự khen, khoe tài của anh: "Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay"! Có tài thực mà
khoe khoang thì cũng chẳng hay ho
gì! Ở đây, chàng thợ mộc Thanh Hoa khoe tài là để tỏ tình với cô gái mà anh đang yêu, nên
rất dễ thương, được chúng ta
đồng tình.
Câu 3,4 chỉ theo đà mà nói, chứ có tài cán gì ở cái việc "bào trơn, đóng bén" Từ câu thứ
năm trở đi, bằng biện pháp liệt
kê, chàng thợ mộc khoe tài chạm trổ của anh. Năm bức chạm con vật: dê, rồng, mèo, gà,
lươn. Hai bức chạm cảnh: hoa và
đèn. Có bức chạm tứ linh: rồng, nhưng đã được cách điệu dân gian hoá, bình dị hoá.
"Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo"
Con lươn có gì đáng chạm? Với tài nghệ điêu luyện, bức chạm lươn vô cùng sống động,
tuyệt khéo:
"Bốn cửa anh chạm bốn lươn

×