Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

nha sinh vat hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.83 KB, 21 trang )

Di truyền học
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
ADN, cơ sở phân tử của di truyền. Mỗi sợi ADN là một chuỗi các nucleotide, liên kết với
nhau ở chính giữa có dạng như những nấc thang trong một chiếc thang xoắn.
Di truyền học là một bộ môn sinh học, nghiên cứu về tính di truyền và biến dị ở các sinh
vật. Kể từ thời tiền sử, thực tế về việc các sinh vật sống thừa hưởng những đặc tính từ bố
mẹ đã được ứng dụng để tăng sản lượng cây trồng và vật nuôi, thông qua quá trình sinh
sản chọn lọc hay chọn lọc nhân tạo. Tuy nhiên, di truyền học hiện đại, tìm hiểu về quá
trình di truyền, chỉ được ra đời vào giữa thế kỷ 19 với những công trình của Gregor
Mendel
[3]
. Dù không hiểu về nền tảng vật chất của tính di truyền, Mendel vẫn nhận biết
được rằng sinh vật thừa kế những tính trạng theo một cách riêng rẽ - mà trong đó những
đơn vị cơ bản của di truyền được gọi là gen.
Các gen tương ứng với những vùng nằm trong ADN, một cao phân tử được cấu thành từ
bốn loại đơn phân nucleotide; chuỗi những nucleotide này mang thông tin di truyền ở
sinh vật. ADN trong điều kiện tự nhiên có dạng chuỗi xoắn kép, trong đó nucleotide ở
mỗi chuỗi liên kết bổ sung với nhau. Mỗi chuỗi lại có thể hoạt động như một khuôn để
tổng hợp một chuỗi bổ sung mới - đó là cách thức tự nhiên tạo nên những bản sao của
gen mà có thể được di truyền lại.
Chuỗi nucleotide trong gen có thể được phiên mã và dịch mã trong tế bào để tạo nên
chuỗi các axít amin, hình thành protein; trình tự của các axít amin trong protein cũng
tương ứng với trình tự của các nucleotide trong gen. Trình tự này được biết với tên mã di
truyền. Nó xác định cách thức gập xoắn trong cấu trúc ba chiều của phân tử protein; cấu
trúc này tiếp đó quy định nên chức năng của protein. Những protein sẽ thực hiện hầu hết
các chức năng cần thiết cho sự sống của tế bào. Một thay đổi nhỏ của gen trong phân tử
ADN cũng sẽ dẫn đến thay đổi trình tự axít amin, thay đổi cấu trúc và chức năng của
protein, và điều này có thể tác động không nhỏ lên tế bào cũng như toàn bộ cơ thể sống.
Dù di truyền đóng một vai trò to lớn trong sự hình thành và hoạt động của sinh vật, thì sự
kết hợp giữa yếu tố di truyền và những gì sinh vật trải qua mới xác định được kết quả sau
cùng. Một ví dụ, trong khi gen có thể quy định nên chiều cao của một người, thì dinh


dưỡng và sức khỏe của người đó trong thời niên thiếu cũng có ảnh hưởng không nhỏ.
Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử di truyền học
Gregor Mendel, "người cha của di truyền học"
[4][5]
.
Khoa học di truyền được khởi đầu với công trình ứng dụng và lý thuyết của Mendel từ
giữa thế kỷ 19, tuy nhiên trước đó vẫn tồn tại những quan điểm khác nhau về di truyền.
Từ thế kỷ V trước Công nguyên, Hippocrates và Aristotle đã lần lượt đưa ra những lý
thuyết của riêng mình, mà đã có ảnh hưởng không nhỏ đến các học thuyết khác sau đó.
Nếu Hippocrates cho rằng các vật liệu sinh sản ("humor") được thu thập từ tất cả các
phần của cơ thể và truyền cho thế hệ con, thì Aristotle lại phản bác lại ý kiến này, nêu ra
rằng sự sinh sản bắt nguồn từ chất dinh dưỡng, trên con đường đi tới các bộ phận cơ thể
thì bị chệch tới phần sinh sản, và bản chất các chất này vốn đã quy định cho cấu tạo các
phần cơ thể khác nhau
[6][7]
. Ở thời kỳ Mendel sống, một thuyết phổ biến là quan niệm về di
truyền hòa hợp (blending): cho rằng các cá thể thừa kế từ bố mẹ một hỗn hợp pha trộn
các tính trạng, ví dụ như lai cây hoa đỏ với hoa trắng sẽ cho ra hoa hồng
[7]
. Nghiên cứu
của Mendel đã bác bỏ điều này, chỉ ra tính trạng là sự kết hợp các gen độc lập với nhau
hơn là một hỗn hợp liên tục. Một thuyết khác cũng nhận sự ủng hộ thời đó là sự di truyền
các tính trạng tập nhiễm: tin rằng sinh vật thừa kế những tính trạng đã được biến đổi do
quá trình luyện tập và nhiễm ở bố mẹ. Học thuyết này, chủ yếu gắn với Jean-Baptiste
Lamarck, hiện nay không được di truyền học hiện đại thừa nhận
[8]
; khi sự tập nhiễm của
cá thể thực tế không ảnh hưởng đến các gen mà chúng truyền cho con cái
[9]

. Bên cạnh đó,
Charles Darwin đề ra thuyết pangen (thuyết mầm, pangenesis), có sự tương đồng với
quan niệm của Hippocrates, cho rằng có các gemmule (mầm), tập trung từ các tế bào
trong cơ thể về cơ quan sinh dục để thụ tinh, và con cái sinh ra chịu ảnh hưởng từ cả di
truyền lẫn tính trạng tập nhiễm. Thí nghiệm của Francis Galton kiểm chứng thuyết
pangen của Darwon, cho thấy rằng các gemmule ít nhất không xuất hiện trong máu thỏ
[10]
.
Đến tận cuối thế kỷ 19, ngay cả sau khi tác phẩm của Mendel đã công bố, hiểu biết của
giới khoa học về tính di truyền vẫn còn ít ỏi và chưa thực sự đúng đắn
[11]
.
[sửa] Di truyền học Mendel và cổ điển
Quan sát của Morgan về sự di truyền liên kết giới tính của đột biến mắt trắng ở
Drosophila cho phép ông đưa ra giả thuyết rằng gen nằm trên nhiễm sắc thể.
Gregor Johann Mendel, một linh mục người Áo sống tại Brünn (Séc), đã tiến hành thí
nghiệm về tính di truyền ở 7 tính trạng trên cây đậu Hà Lan từ năm 1856 đến 1863. Các
nghiên cứu của ông sau đó được công bố trong bài báo "Versuche über
Pflanzenhybriden" (Các thí nghiệm lai ở thực vật) tại Hội Lịch sử Tự nhiên của Brünn
năm 1865
[12]
. Cách nghiên cứu của ông là cho nhân giống theo từng tính trạng, sử dụng
toán học để đánh giá số lượng và từ đó rút ra quy luật di truyền
[13]
. Dù các quy luật này chỉ
quan sát được cho số ít tính trạng, nhưng Mendel vẫn tin rằng sự di truyền là riêng rẽ,
không phải tập nhiễm, và tính di truyền của nhiều tính trạng có thể được diễn giải thông
qua các quy luật và tỷ lệ đơn giản.
Tầm quan trọng của công trình Mendel không được nhận biết rộng rãi cho tới năm 1900,
tức sau khi ông mất; trong năm đó, cả ba nhà khoa học Hugo de Vries (Hà Lan), Erich

von Tschermak (Áo) và Carl Correns (Đức) đã nghiên cứu độc lập với nhau và cùng tái
phát hiện các quy luật Mendel
[14]
. Năm 1900 đánh dấu một mốc khởi đầu mới cho sự phát
triển của di truyền học. Năm 1905, William Bateson, một người ủng hộ Mendel, đã đặt ra
thuật ngữ genetics (di truyền học).
[15][16]
(Tính từ genetic, xuất phát từ tiếng Hy Lạp,
genesis - γένεσις, "nguồn gốc" và từ genno γεννώ, "sinh ra", có trước danh từ này và được
sử dụng lần đầu trong sinh học từ năm 1860)
[17]
. Bateson đã phổ biến cách dùng của từ
genetics để miêu tả ngành khoa học nghiên cứu về di truyền trong bài phát biểu khai mạc
Hội nghị Quốc tế lần thứ ba về lai giống cây trồng tại London, Anh năm 1906
[18]
. Riêng
thuật ngữ gen, vốn đã được Hugo de Vries định nghĩa với tên gọi pangen từ năm 1889 là:
"phần tử nhỏ nhất [đại diện cho] một đặc điểm di truyền"
[19]
, được Wilhelm Johannsen
giới thiệu lại trong các tác phẩm của ông vào hai thập niên sau đó - trong đó ông cũng
nêu ra thuật ngữ kiểu gen (genotype) và kiểu hình (phenotype)
[20][21]
.
Sau sự tái phát hiện công trình của Mendel, các nhà khoa học đã cố gắng xác định những
phân tử nào trong tế bào đảm nhận tính di truyền. Trước đó, nhiễm sắc thể đã được phát
hiện, và những quan điểm đầu tiên về di truyền nhiễm sắc thể đã được đưa ra
[22]
, phải kể
đến là thuyết di truyền nhiễm sắc thể của August Weismann năm 1892

[23]
và giả thuyết
gắn các nhân tố Mendel với nhiễm sắc thể của Walter Sutton năm 1903
[24]
. Năm 1910,
Thomas Hunt Morgan khẳng định rằng gen nằm trên nhiễm sắc thể, dựa trên sự quan sát
về đột biến mắt trắng ở ruồi giấm
[25]
. Năm 1913, một sinh viên của ông, Alfred Sturtevant
đã sử dụng hiện tượng di truyền liên kết để chỉ ra rằng gen được sắp đặt theo đường thẳng
(tuyến tính) trên nhiễm sắc thể, và xây dựng nên bản đồ liên kết gen đầu tiên
[26]
.
[sửa] Di truyền học phân tử
Dù sự tồn tại của gen trên nhiễm sắc thể - hợp thành từ protein và ADN - đã được xác
nhận, tuy nhiên người ta vẫn chưa biết đến cái gì trong hai chất đó đóng vai trò di truyền.
Năm 1928, Frederick Griffith tìm ra hiện tượng biến nạp: những vi khuẩn đã chết có thể
chuyển vật liệu di truyền của chúng để làm biến đổi những vi khuẩn còn sống khác
[27]
.
Năm 1944, Oswald Theodore Avery, Colin McLeod và Maclyn McCarty trực tiếp xác
định ADN là phân tử đảm nhận biến nạp
[28]
. Tuy nhiên, đến tận năm 1952, thí nghiệm
Hershey-Chase mới cho thấy ADN (chứ không phải protein) là vật liệu di truyền của
virus xâm nhiễm vi khuẩn, cung cấp thêm bằng chứng chứng tỏ ADN là phân tử đảm
nhận chức năng di truyền
[29]
.
James D. Watson, người cùng với Francis Crick đã xác định cấu trúc ADN vào năm

1953.
James D. Watson và Francis Crick cho ra đời mô hình cấu trúc ADN năm 1953, sử dụng
công trình tinh thể học tia X của Rosalind Franklin, chứng tỏ rằng ADN có cấu trúc xoắn
kép
[30][31]
. Mô hình ADN của họ bao gồm hai chuỗi với những nucleotide phía trong, mỗi
một nucleotide liên kết bổ sung với một nucleotide ở chuỗi khác tạo thành hình dạng
giống như thanh ngang trên một chiếc thang xoắn
[32]
. Cấu trúc này chỉ ra rằng thông tin di
truyền tồn tại trên dãy nucleotide ở mỗi chuỗi ADN, và cũng đưa ra gợi ý về một cách
thức nhân đôi đơn giản: nếu chuỗi kép bị tách rời, chuỗi bổ sung mới có thể được tái
dựng lại từ mỗi chuỗi đơn cũ.
Dù cấu trúc ADN cho thấy được cách thức di truyền, người ta vẫn chưa biết rõ ràng về
cách mà ADN ảnh hưởng lên hoạt động của tế bào. Trước đấy, năm 1941, George Wells
Beadle và Edward Lawrie Tatum đã đề ra thuyết "một gen-một enzym", chứng minh vai
trò điều khiển và điều hòa của gen lên các phản ứng sinh hóa ở mốc bánh mỳ
Neurospora
[33][34]
, đồng thời phương pháp của họ - ứng dụng di truyền học vào sinh hóa ở
vi sinh vật - cũng mở ra một phạm vi nghiên cứu mới ngay sau đó
[35]
. Trong những năm
sau đó, các nhà khoa học đã cố gắng tìm ra cách ADN điều khiển quá trình tổng hợp
protein. Họ đã khám phá được rằng tế bào đã sử dụng ADN như một khuôn để tạo nên
phân tử ARN thông tin tương ứng. Dãy nucleotide trên ARN thông tin lại tiếp tục được
sử dụng để tạo nên dãy axít amin ở protein; trình tự của dãy nucleotide được dịch mã để
tạo thành dãy axít amin được gọi là mã di truyền. Nó được dựa trên sự sắp xếp những bộ
ba bazơ nitơ không chồng lấn nhau, gọi là codon, mỗi codon mã hóa cho một axít amin.
Điều này lần đầu tiên được miêu tả trong thí nghiệm của Crick, Brenner và các cộng sự

năm 1961
[36]
. Trong những năm 1961-1966 đã ghi nhận kết quả nỗ lực của các nhà khoa
học để giải mã được toàn bộ 64 codon, chủ yếu là những công trình do nhóm của M.
Nirenberg và nhóm của H. Khorana thực hiện.
Những hiểu biết mới tầm phân tử về tính di truyền đã tạo nên sự bùng nổ trong nghiên
cứu. Một bước phát triển quan trọng là phương pháp xác định trình tự ADN gián đoạn
chuỗi năm 1977 của Frederick Sanger: công nghệ này cho phép các nhà khoa học đọc
được trình tự nucleotide trên một phân tử ADN
[37]
. Năm 1983, Kary Banks Mullis phát
triển phản ứng chuỗi trùng hợp (PCR), cung cấp một phương pháp nhanh chóng để phân
lập và khuyếch đại một đoạn ADN riêng biệt từ một hỗn hợp
[38]
. Những cố gắng chung
trong Dự án Bản đồ gen Người và nỗ lực song song của công ty tư nhân Celera
Genomics, cũng như các công nghệ khác, cuối cùng đã thành công trong việc xác định
trình tự bộ gen người vào năm 2003
[39]
.
[sửa] Đặc trưng của di truyền
[sửa] Di truyền riêng rẽ và quy luật Mendel
Bài chi tiết: Di truyền Mendel
Một bảng Punnett mô tả sự lai hai cây đậu Hà Lan dị hợp tử ở tính trạng hoa màu tía (B)
và màu trắng (b).
Ở cấp độ cơ bản nhất, tính di truyền của các sinh vật xuất hiện ở các tính trạng riêng rẽ,
được gọi là gen
[40]
. Đặc tính này lần đầu được nhận biết bởi Gregor Mendel, khi nghiên
cứu sự phân ly các tính trạng di truyền ở đậu Hà Lan

[13][41]
. Trong thí nghiệm nghiên cứu
về tính trạng màu hoa của mình, Mendel quan sát được rằng hoa của mỗi cây đậu Hà Lan
có màu tía hoặc trắng - và không bao giờ có tính trạng trung gian giữa hai màu. Những
dạng khác nhau, riêng biệt của cùng một gen được gọi là allele.
Ở đậu Hà Lan, mỗi gen của mỗi cá thể có hai allele, và cây đậu sẽ thừa hưởng một allele
từ mỗi cây bố mẹ
[42]
. Nhiều sinh vật khác, bao gồm cả con người, cũng có kiểu di truyền
như vậy. Cá thể mà có hai allele giống nhau ở một gen được gọi là đồng hợp tử ở gen
đấy, còn nếu có hai allele khác nhau thì cá thể gọi là dị hợp tử.
Tập hợp tất cả allele ở một cá thể được gọi là kiểu gen của cá thể đó, còn tập hợp các tính
trạng quan sát được của cá thể được gọi là kiểu hình. Với những cá thể dị hợp tử ở một
gen, thường sẽ có một allele được gọi là trội, bởi đặc tính của nó trội hơn và thể hiện ra
kiểu hình ở sinh vật, và allele còn lại được gọi là lặn, bởi đặc tính của nó bị lấn át và
không được biểu hiện ra. Một số allele không lấn át hẳn, thay vì thế có tính trội không
hoàn toàn tức thể hiện ra kiểu hình trung gian, hoặc đồng trội, tức cả hai allele đều được
biểu hiện cùng lúc
[43]
.
Nhìn chung, khi một cặp cá thể sinh sản hữu tính, con cái của chúng sẽ thừa kế ngẫu
nhiên một allele từ bố và một allele từ mẹ. Những phát hiện về sự di truyền riêng rẽ và sự
phân ly của các allele được phát biểu chung với tên gọi Quy luật thứ nhất của Mendel hay
"Quy luật phân ly".
[sửa] Ký hiệu và biểu đồ
Một sơ đồ phả hệ giúp theo dõi được kiểu di truyền của một tính trạng đã cho.
Các nhà di truyền học sử dụng các biểu đồ và biểu tượng để mô tả sự di truyền. Một gen
được biểu trưng bởi một (hay vài) ký tự — trong đó ký tự viết hoa tượng trưng cho allele
trội và ký tự viết thường tượng trưng cho allele lặn
[44]

. Thông thường biểu tượng "+" được
sử dụng để biểu thị allele thường, không đột biến ở một gen.
Ở các thí nghiệm lai và thụ tinh (đặc biệt về các quy luật Mendel), bố mẹ được xem là thế
hệ "P", con cái của chúng được gọi là thế hệ "F1" ("first filial"). Khi các cá thể F1 giao
phối với nhau, con của F1 lại tiếp tục gọi là "F2". Một trong những biểu đồ thường được
sử dụng để dự đoán kết quả lai là bảng Punnett (do Reginald Punnett sáng tạo).
Khi nghiên cứu về các bệnh di truyền ở người, các nhà di truyền học thường dùng sơ đồ
phả hệ để diễn tả sự di truyền ở các tính trạng
[45]
. Các sơ đồ này sẽ sắp xếp sự di truyền
của một tính trạng trên một cây phả hệ.
[sửa] Tương tác của nhiều gen
Chiều cao con người là một tính trạng di truyền phức hợp. Các dữ liệu của Francis Galton
từ 1889 cho thấy: sự liên hệ tất cả chiều cao của con cái là một hàm trung bình của chiều
cao cha mẹ. Trong khi mức biến đổi tương quan, còn lại trong chiều cao con cái biểu thị
rằng môi trường cũng là một nhân tố quan trọng ở tính trạng này.
Mỗi sinh vật có hàng ngàn gen và ở các sinh vật sinh sản hữu tính, sự phân ly các gen này
nhìn chung độc lập với nhau. Điều này có nghĩa là sự di truyền của một allele tính trạng
hạt đậu vàng hay xanh không có liên quan tới sự di truyền của cặp allele màu hoa trắng
hoặc tía. Hiện tượng này, được biết đến là Quy luật thứ hai của Mendel hay "Quy luật
phân ly độc lập", mang ý nghĩa: các allele của những gen khác nhau sẽ thay đổi ngẫu
nhiên khi phân ly từ bố mẹ và sẽ tạo ra thế hệ con với nhiều tổ hợp gen khác nhau. Dù
thế, một số gen lại không phân ly độc lập với nhau, biểu thị tính liên kết gen.
Thực tế, các gen khác nhau lại có thể tương tác với nhau theo một cách nào đấy và ảnh
hưởng lên một tính trạng chung. Một ví dụ là ở loài hoa Omphalodes verna, tồn tại một
gen với hai allele xác định tính trạng màu hoa: xanh lam hoặc đỏ tía. Một gen khác điều
khiển khả năng có màu của hoa: có màu hoặc không màu (màu trắng). Khi một cây có hai
allele hoa trắng, hoa của cây đấy luôn màu trắng - cho dù gen đầu tiên có allele hoa đỏ
hay xanh. Sự tương tác được gọi là tương tác át chế (epistasis), khi gen thứ hai át chế sự
biểu hiện của gen thứ nhất

[46]
. Bên cạnh tương tác át chế còn có kiểu tương tác bổ trợ,
nghĩa là sự biểu hiện của hai hay nhiều allele ở các gen khác nhau sẽ tạo kiểu hình mới,
khác với kiểu hình riêng được biểu hiện khi có mặt các allele ở từng gen riêng lẻ
[47]
.
Có nhiều tính trạng không riêng rẽ (ví dụ hoa màu trắng/tía) mà thay vì thế lại biểu hiện
liên tục (ví dụ chiều cao và màu da). Các tính trạng phức hợp này được tạo bởi tác động
cộng gộp của nhiều gen
[48]
. Sự chi phối của các gen này là tương đương, có vai trò biến
đổi mức độ biểu hiện, bên cạnh điều kiện môi trường của sinh vật. Tỷ lệ mà các gen của
sinh vật đóng góp cho một tính trạng phức hợp được gọi là mức di truyền (heritability)
[49]
.
Số đo của mức di truyền chỉ là tương đối - khi môi trường càng dễ biến đổi sẽ càng tác
động lớn hơn lên toàn bộ mức thay đổi của tính trạng. Một ví dụ, chiều cao của con người
là một tính trạng phức hợp với mức di truyền là 89% tại Mỹ. Ở Nigeria, nơi người dân có
điều kiện dinh dưỡng và y tế hay thay đổi hơn, chiều cao của họ có mức di truyền chỉ là
62%
[50]
.
[sửa] Cơ sở phân tử của tính di truyền
[sửa] ADN và nhiễm sắc thể
Bài chi tiết: ADN và Nhiễm sắc thể
Cấu trúc phân tử của ADN. Các bazơ ở hai chuỗi ghép cặp với nhau qua liên kết hiđrô.
Cơ sở phân tử của gen là axít deoxyribonucleic (ADN hay DNA). ADN được cấu thành
từ một chuỗi các nucleotide; có bốn loại nucleotide là: adenine (A), cytosine (C), guanine
(G) và thymine (T). Thông tin di truyền tồn tại dưới dạng trình tự sắp xếp các nucleotide,
và gen tồn tại như một đoạn liên tục trên chuỗi ADN

[51]
. Virus là ngoại lệ duy nhất của
quy luật này - có những virus sử dụng phân tử ARN đơn giản thay thế cho ADN làm vật
liệu di truyền
[52]
.
ADN bình thường là một phân tử chuỗi kép, cuộn với nhau tạo thành dạng xoắn kép. Mỗi
nucleotide ở ADN liên kết một cách chọn lọc với nucleotide ở chuỗi đối diện: A liên kết
với T, G liên kết với C. Nguyên tắc liên kết này gọi là nguyên tắc bổ sung. Theo cách
này, dù có dạng chuỗi kép, nhưng mỗi chuỗi đơn thực tế vẫn chứa tất cả các thông tin cần
thiết, không cần đến chuỗi đối diện. Cấu trúc này của ADN chính là cơ sở vật lý của tính
di truyền: quá trình sao chép ADN nhân đôi thông tin di truyền bằng cách chia tách hai
chuỗi của ADN, sử dụng mỗi chuỗi như một khuôn để tổng hợp một chuỗi bổ sung
mới
[53]
.
Các gen được sắp xếp thẳng hàng dọc theo chuỗi dài ADN, được gọi là nhiễm sắc thể. Ở
vi khuẩn, mỗi tế bào có một nhiễm sắc thể đơn, vòng, trong khi các sinh vật nhân chuẩn
lại có bộ nhiều nhiễm sắc thể mạch thẳng. Chuỗi ADN của chúng thường vô cùng dài;
một ví dụ, nhiễm sắc thể lớn nhất của con người có độ dài khoảng 247 triệu cặp bazơ (bp)
[54]
. Trong nhiễm sắc thể, ADN thường kết hợp với những protein cấu trúc, có vai trò tổ
chức, kết chặt và điều khiển thu nhận ADN, tạo thành loại vật chất gọi là chromatin (chất
di truyền). Ở sinh vật nhân chuẩn, chromatin thường cấu tạo từ các nucleosome (thể
nhân), bao gồm những đơn vị ADN nhất định quấn quanh một lõi gồm các protein
histon
[55]
. Tập hợp toàn bộ vật chất di truyền của một sinh vật (bao gồm các chuỗi ADN
phức hợp của tất cả nhiễm sắc thể) gọi chung là bộ gen (genome).
Biểu đồ năm 1882 của Walther Flemming về sự phân chia tế bào nhân chuẩn. Các nhiễm

sắc thể được nhân đôi, co xoắn và tổ chức lại. Sau đó, khi tế bào phân chia, các nhiễm sắc
thể tương đồng cũng phân cách vào các tế bào con.
Nếu các sinh vật đơn bội (mức bội thể bằng 1) chỉ có duy nhất một phiên bản cho mỗi
nhiễm sắc thể, thì đa phần động vật và nhiều thực vật là lưỡng bội (mức bội thể bằng 2),
tức mỗi nhiễm sắc thể sẽ có một nhiễm sắc thể khác giống hệt nó (nhiễm sắc thể tương
đồng), và như thế sẽ có hai bản sao cho mỗi gen
[42]
. Hai allele của một gen nằm trên
những locus giống nhau của nhiễm sắc tử chị em, mỗi allele được thừa hưởng từ bố hoặc
từ mẹ.
Ngoại lệ xuất hiện ở các cặp nhiễm sắc thể giới tính, tức các nhiễm sắc thể chuyên biệt
mà nhiều động vật đã tiến hóa nên, giữ vai trò xác định giới tính của mỗi cá thể
[56]
. Ở
người và những động vật có vú nói chung, nhiễm sắc thể Y có rất ít gen và khởi động sự
phát triển các đặc tính sinh dục đực, trong khi nhiễm sắc thể X lại tương tự các nhiễm sắc
thể khác, chứa nhiều gen không liên quan đến xác định giới tính. Những cá thể cái có hai
nhiễm sắc thể X tương đồng (XX), trong khi cá thể đực có một nhiễm sắc thể X và một
nhiễm sắc thể Y (XY) - sự khác biệt về số nhiễm sắc thể X dẫn tới những rối loạn di
truyền liên kết giới tính khác thường.
[sửa] Sinh sản
Bài chi tiết: Sinh sản vô tính và Sinh sản hữu tính
Khi tế bào phân chia, toàn thể bộ gen đều được sao chép và mỗi tế bào con đều nhận
được một bản sao bộ gen của tế bào mẹ. Quá trình này gọi là nguyên phân, là dạng đơn
giản nhất của sinh sản và là cơ sở của sự sinh sản vô tính. Sinh sản vô tính có thể xuất
hiện ở cả các sinh vật đa bào, tạo ra thế hệ con thừa hưởng bộ gen từ chỉ duy nhất một cá
thể bố (mẹ). Thế hệ con mà nhìn chung giống hệt như bố mẹ được gọi là dòng vô tính
(clone).
Sinh vật nhân chuẩn thường sinh sản hữu tính để tạo ra con cái có vật liệu di truyền lấy từ
hai bộ gen khác nhau của cả hai cá thể bố mẹ. Quá trình sinh sản hữu tính luân phiên

nhau giữa hai dạng đơn bội (1n) và lưỡng bội (2n)
[57]
. Các tế bào đơn bội kết hợp vật chất
di truyền của chúng, tạo ra tế bào lưỡng bội với những nhiễm sắc thể ghép cặp. Các sinh
vật lưỡng bội tạo ra thể đơn bội bằng cách phân chia, tạo ra tế bào con thừa kế ngẫu nhiên
một nhiễm sắc thể trong mỗi cặp nhiễm sắc thể tương đồng. Đa phần động vật và nhiều
thực vật ở thể lưỡng bội trong hầu hết vòng đời, với thể đơn bội biến đổi thành các giao
tử đơn bào. Một quá trình chủ yếu trong sinh sản hữu tính là giảm phân, quá trình phân
bào chuyên biệt diễn ra ở tế bào sinh dục, trong đó bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội được nhân
đôi, trải qua hai lần phân bào để tạo nên các tế bào con đơn bội có số lượng nhiễm sắc thể
giảm đi một nửa so với tế bào mẹ ban đầu
[58]
.
Dù không sử dụng cơ chế sinh sản hữu tính kiểu lưỡng bội/đơn bội như trên, vi khuẩn
vẫn có nhiều cách để thu nhận thông tin di truyền. Một số vi khuẩn có khả năng tiếp hợp,
chuyển một vòng nhỏ ADN tới một vi khuẩn khác
[59]
. Vi khuẩn cũng có thể lấy những
đoạn ADN thô từ môi trường và kết hợp chúng vào trong bộ gen của vi khuẩn, hiện
tượng này được biết đến là sự biến nạp
[60]
. Quá trình này có thể dẫn đến sự chuyển gen
ngang, truyền những đoạn thông tin di truyền giữa những sinh vật không có mối liên hệ
với nhau.
Minh họa năm 1916 của Thomas Hunt Morgan về quá trình trao đổi chéo kép giữa hai
nhiễm sắc thể tương đồng.
[sửa] Tái tổ hợp và liên kết gen
Bài chi tiết: Trao đổi chéo và Liên kết gen
Trạng thái lưỡng bội tự nhiên của bộ nhiễm sắc thể cho phép gen nằm trên các nhiễm sắc
thể khác nhau phân ly độc lập với nhau trong quá trình sinh sản hữu tính, tái tổ hợp tạo tổ

hợp gen mới. Gen trên cùng một nhiễm sắc thể về lý thuyết không bao giờ tái tổ hợp
[61]
,
tuy nhiên, thực tế vẫn diễn ra do xuất hiện quá trình trao đổi chéo nhiễm sắc thể. Khi trao
đổi chéo, hai nhiễm sắc thể trao đổi các đoạn ADN cho nhau, và đổi chỗ các allele giữa
hai nhiễm sắc thể
[62]
. Trao đổi chéo thông thường diễn ra vào kỳ trước I (kỳ đầu của lần
phân chia đầu) của quá trình giảm phân.
Xác suất trao đổi chéo giữa hai điểm đã cho trên nhiễm sắc thể có liên quan đến khoảng
cách giữa chúng. Ở một khoảng cách dài tùy ý, xác suất trao đổi chéo đủ cao để sự di
truyền các gen diễn ra tương đối riêng rẽ. Tuy nhiên, với các gen gần nhau hơn, xác suất
trao đổi chéo thấp chứng tỏ các gen có tính liên kết di truyền - allele của hai gen này có
khuynh hướng di truyền gắn liền với nhau. Các chỉ số về tính liên kết của chuỗi nhiều
gen có thể được kết hợp tạo nên một bản đồ liên kết, giúp xác định gần đúng vị trí sắp
xếp các gen trên nhiễm sắc thể
[63]
.
[sửa] Biểu hiện gen
[sửa] Mã di truyền
Bài chi tiết: Mã di truyền
Mã di truyền: ADN, qua một trung gian ARN thông tin, mã hóa cho protein với các bộ ba
mã hóa.
Gen nhìn chung biểu hiện tác động của chúng thông qua việc tổng hợp protein, những
phân tử phức hợp đảm nhận hầu hết chức năng trong tế bào. Protein là một chuỗi các axít
amin; trình tự ADN của một gen, thông qua trung gian ARN thông tin (mARN), được sử
dụng để tạo nên trình tự phân tử protein riêng biệt. Quá trình này khởi đầu với việc tổng
hợp một phân tử mARN với trình tự tương ứng trình tự ADN của gen giai đoạn này gọi là
phiên mã.
Cấu trúc động của hemoglobin giúp thích ứng với khả năng vận chuyển ôxy trong máu.

Một axít amin thay đổi khiến cho hemoglobin gắn kết với nhau tạo ra các sợi.
Phân tử mARN sau đó lại được sử dụng như một khuôn để tạo thành trình tự axít amin
tương ứng thông qua một quá trình gọi là dịch mã. Mỗi bộ ba nucleotide (codon) ở dãy
này tương ứng với một trong 20 loại axít amin có mặt trong protein - sự tương ứng này
gọi là mã di truyền
[64]
. Dòng thông tin đi theo một hướng duy nhất: thông tin khi được
truyền từ chuỗi nucleotide tới chuỗi axít amin của protein, nó không bao giờ được truyền
ngược lại từ protein tới chuỗi ADN - hiện tượng này được Francis Crick gọi là "luận
thuyết trung tâm của sinh học phân tử"
[65]
.
Trình tự đặc hiệu của axít amin dẫn đến cấu trúc ba chiều độc nhất của protein, và điều
này lại liên quan đến chức năng của protein
[66][67]
. Một số protein là những phân tử có cấu
trúc đơn giản, ví dụ như collagen tạo nên các sợi mô. Protein cũng có thể gắn kết với
nhau và với những phân tử đơn giản khác, nhiều khi hoạt động như những enzym xúc tác
cho phản ứng hóa học của các phân tử gắn kết với nó (các phản ứng không làm thay đổi
cấu trúc của bản thân protein). Cấu trúc của protein có tính động, ví dụ hemoglobin có
thể chuyển đổi thành các dạng khác biệt đôi chút mỗi khi protein này thu nhận, vận
chuyển và giải phóng oxy trong máu động vật có vú.
Chỉ một thay đổi nucleotide trong ADN cũng có thể gây biến đổi trình tự axít amin trong
protein. Bởi cấu trúc protein là kết quả của trình tự axít amin, nên những thay đổi trình tự
có thể làm thay đổi đột ngột các đặc tính của protein, do sự mất ổn định cấu trúc hay biến
đổi bề mặt protein là nguyên nhân dẫn tới thay đổi về tính tương tác của nó với những
protein và phân tử khác. Một ví dụ, bệnh thiếu máu hồng cầu liềm là một bệnh di truyền
ở người, gây ra do khác biệt một bazơ trong vùng mã hóa phần β-globin của hemoglobin,
khiến một axít amin ở protein này cũng biến đổi theo và làm thay đổi đặc tính vật lý của
hemoglobin

[68]
. Những hemoglobin này kết hợp với nhau, làm biến đổi hình dạng tế bào
hồng cầu; các tế bào hồng cầu hình liềm không còn di chuyển dễ dàng trong mạch máu,
chúng có xu hướng tắc nghẽn và thoái hóa, gây nên những vấn đề sức khỏe gắn liền với
bệnh này.
Một vài gen được phiên mã tạo ARN, nhưng ARN lại không tiếp tục dịch mã thành sản
phẩm protein - được gọi chung là ARN không mã hóa (non-coding RNA). Trong một số
trường hợp, ARN không mã hóa lại gập uốn hình thành những cấu trúc, tham gia các
chức năng then chốt của tế bào (ví dụ ARN ribosome và ARN vận chuyển). ARN cũng
có thể có tác động điều hòa thông qua tương tác lai với những phân tử ARN khác (ví dụ
microARN).
[sửa] Kiểu gen, kiểu hình và môi trường
Một con mèo Xiêm mang đột biến mẫn cảm nhiệt độ về tổng hợp sắc tố.
Dù các gen chứa đựng mọi thông tin một sinh vật cần để thực hiện chức năng, môi trường
vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc xác định kiểu hình sau cùng— tính lưỡng phân
trên được nói đến trong cụm từ "bản chất đối chọi môi trường" (nature vs. nurture). Kiểu
hình của các sinh vật phụ thuộc vào sự tương tác giữa kiểu gen và môi trường. Một ví dụ
cho kết luận này là trường hợp đột biến mẫn cảm với nhiệt độ. Thông thường, một axít
amin đơn lẻ thay đổi trong chuỗi protein không làm thay đổi hoạt động và tương tác của
nó với các phân tử khác, tuy nhiên điều này lại làm mất ổn định cấu trúc. Trong môi
trường nhiệt độ cao, các phân tử chuyển động nhanh hơn và va chạm vào nhau, kết quả
protein không còn giữ được cấu trúc và mất đi chức năng. Ở môi trường nhiệt độ thấp,
cấu trúc protein lại ổn định và thực hiện chức năng bình thường. Loại đột biến này có thể
quan sát thấy ở màu lông những con mèo Xiêm, khi một đột biến xảy ra ở enzym phụ
trách sản xuất sắc tố, khiến enzym mất ổn định và mất chức năng ở nhiệt độ cao
[69]
.
Protein này sẽ duy trì chức năng ở những vùng da lạnh hơn - như chân, tai, đuôi và mặt -
làm cho giống mèo này vẫn có phần lông màu đen ở những vùng nói trên.
Một ví dụ khác là ảnh hưởng sâu sắc của môi trường lên bệnh di truyền phenylketon niệu

ở người
[70]
. Đột biến tạo nên chứng bệnh này, phá hoại khả năng phân giải axít amin
phenylalanine, tích tụ các chất trung gian gây độc, tiếp đó gây nên những tác động rất xấu
lên thần kinh. Nếu một người bị mắc đột biến phenylketon niệu đi theo một chế độ ăn
uống nghiêm ngặt tránh xa loại axít amin này, anh ta vẫn duy trì được tình trạng bình
thường và khỏe mạnh.
[sửa] Điều hòa gen
Bài chi tiết: Điều hòa biểu hiện gen
Nhân tố phiên mã gắn kết với ADN, ảnh hưởng lên sự phiên mã của các gen đã liên kết.
Bộ gen của một sinh vật bao gồm hàng nghìn gen, nhưng không phải bất cứ gen nào cũng
cần được hoạt động tại mọi thời điểm. Một gen chỉ có thể được biểu hiện khi nó được
phiên mã thành mARN (và dịch mã thành protein); thực tế tồn tại nhiều cách thức trong
tế bào để điều khiển sự biểu hiện của gen, đảm bảo cho protein nào được sản xuất chỉ khi
tế bào cần. Các nhân tố phiên mã là những protein điều hòa được gắn vào điểm khởi đầu
của gen, có vai trò hoạt hóa hay ức chế sự phiên mã của gen đó
[71]
. Ví dụ, trong bộ gen
của vi khuẩn E. coli có một dãy nhiều gen cần thiết cho việc tổng hợp axít amin
tryptophan. Tuy nhiên, khi tryptophan đã sẵn có trong tế bào, những gen tổng hợp
trytophan sẽ không được duy trì hoạt động. Sự có mặt của trytophan trực tiếp ảnh hưởng
đến hoạt động của những gen này - những phân tử trytophan liên kết với chất ức chế
trytophan (trp repressor - một nhân tố phiên mã), thay đổi cấu trúc của phân tử này giúp
nó gắn được vào gen. Trytophan repressor ngăn chặn quá trình phiên mã và sự biểu hiện
của các gen tổng hợp trytophan, do đó tạo nên sự điều hòa liên hệ ngược âm tính của quá
trình tổng hợp loại axít amin này
[72]
.
Những khác biệt trong biểu hiện gen đặc biệt rõ ràng ở các sinh vật đa bào, khi các tế bào
cùng có chung bộ gen nhưng lại có cấu trúc và hoạt động rất khác nhau, dựa trên sự biểu

hiện của các tập hợp gen khác nhau. Tất cả tế bào trong một cơ thể đa bào đều có nguồn
gốc từ một tế bào duy nhất, được biệt hóa thành các dạng tế bào khác nhau khi phản ứng
lại các tín hiệu ngoại và gian bào, và dần dần kiến lập các phương thức biểu hiện gen
khác nhau để thực hiện các hoạt động khác nhau. Bởi không có một gen riêng lẻ nào chịu
trách nhiệm cho sự phát triển các cấu trúc bên trong sinh vật đa bào, nên những phương
thức biển hiện trên đều phát sinh từ những tương tác phức tạp giữa nhiều tế bào.
Ở sinh vật nhân chuẩn, tồn tại những đặc tính cấu trúc của chromatin có ảnh hưởng đến
sự phiên mã của gen, thường ở dạng thường biến (modification) trên ADN hay chromatin
mà vẫn được di truyền ổn định sang các tế bào con
[73]
. Những đặc tính này được gọi là
"ngoại di truyền" (epigenetic) bởi chúng xuất hiện ở ngoài phạm vi trình tự ADN và vẫn
được duy trì từ tế bào này sang thế hệ kế tiếp. Bởi có những đặc tính ngoại di truyền, các
dạng tế bào khác nhau sinh trưởng trong cùng một môi trường có thể giữ lại những đặc
điểm riêng biệt của chúng. Dù các đặc tính ngoại di truyền nhìn chung mang tính động
trong tiến trình phát triển và không được giữ lại ở thế hệ sau của thế hệ kế tiếp, nhưng
một số, như hiện tượng cận đột biến (paramutation), vẫn được di truyền qua nhiều thế hệ
và tồn tại như những ngoại lệ hiếm hoi nằm ngoài quy luật chung của ADN (được xem
như cơ sở căn bản của tính di truyền)
[74]
.
[sửa] Biến đổi di truyền
[sửa] Đột biến
Bài chi tiết: Đột biến
Sự lặp gen (lặp đoạn nhiễm sắc thể) cho phép đa dạng hóa bằng cách cung cấp thêm
nguyên liệu di truyền: một gen có thể đột biến và mất đi chức năng ban đầu mà không
làm tổn hại đến sinh vật.
Trong quá trình tự nhân đôi ADN, những sai sót đôi lúc diễn ra khi tổng hợp chuỗi thứ
hai. Những lỗi này, gọi là đột biến, có thể có tác động lên kiểu hình của cá thể, đặc biệt
nếu chúng xảy ra tại phần mã hóa protein của một gen. Tỷ lệ sai sót thường rất thấp - 1

lỗi trong 10-100 triệu bazơ - nhờ khả năng "đọc sửa" của ADN polymerase
[75][76]
(Nếu
không được đọc sửa, tỷ lệ lỗi sẽ cao hơn hàng nghìn lần, bởi nhiều virus dựa vào ADN
hay ARN polymerase thiếu khả năng đọc sửa, làm tăng tỷ lệ đột biến lên cao). Quá trình
làm tăng tỷ lệ biến đổi ở ADN được gọi là "gây đột biến" (mutagenic): các hóa chất gây
đột biến đẩy mạnh làm tăng sai sót trong tái bản ADN, gây nhiễu loạn kết cấu của sự
ghép cặp bazơ; trong khi tia UV tạo ra đột biến bằng cách gây tổn hại cấu trúc ADN
[77]
.
Các tổn thương về hóa học ở ADN cũng có thể diễn ra một cách tự nhiên, và tế bào sử
dụng cơ chế sửa chữa ADN để sửa lại các ghép đôi không cân xứng hay đứt gãy ở ADN -
tuy nhiên việc sửa chữa này thỉnh thoảng vẫn thất bại và không thể đưa ADN trở lại
chuỗi ban đầu.
Với những sinh vật sử dụng trao đổi chéo nhiễm sắc thể để trao đổi ADN và tái tổ hợp
gen, những sai sót khi bắt cặp thẳng hàng ở giảm phân cũng có thể tạo ra đột biến
[78]
. Lỗi
trong trao đổi chéo đặc biệt xảy ra khi những phần giống nhau trên các nhiễm sắc thể
khiến chúng bắt cặp nhầm lẫn, làm một số vùng của bộ gen bị đột biến. Những lỗi này
tạo nên sự thay đổi cấu trúc lớn trong nhiễm sắc thể và trình tự ADN - dẫn đến sự lặp
đoạn, đảo đoạn hay mất đoạn của tất cả các vùng trên, hoặc sự hoán đổi ngẫu nhiên các
đoạn giữa các nhiễm sắc thể khác nhau (được gọi là chuyển đoạn).
[sửa] Chọn lọc tự nhiên và tiến hóa
Bài chi tiết: Tiến hóa
Đột biến tạo nên các cá thể với kiểu gen khác nhau, và những khác biệt này dẫn tới
những kiểu hình khác nhau. Nhiều đột biến có tác động không lớn lên kiểu hình, sức
khỏe và sự thích ứng sinh sản của sinh vật. Tác động của đột biến thường là có hại,
nhưng đôi khi lại trở nên có ích. Những nghiên cứu trên ruồi giấm Drosophila
melanogaster cho thấy nếu một đột biến thay đổi một protein mã hóa bởi một gen, điều

này hầu như sẽ gây tác hại: 70% trong những đột biến này là có hại, số còn lại là trung
tính hoặc có lợi nhưng rất thấp
[79]
.
Một cây tiến hóa của sinh vật nhân chuẩn, xây dựng từ sự so sánh trình tự của một vài
gen trực giao (orthologous).
Di truyền học quần thể nghiên cứu về sự phân bố những khác biệt di truyền trong các
quần thể và những thay đổi của sự phân bố đó theo thời gian
[80]
. Thay đổi về tần số một
allele trong quần thể có thể là do ảnh hưởng của chọn lọc tự nhiên, khi tỷ lệ những cá thể
mang một allele nào đấy sống sót và sinh sản được cao hơn khiến allele này xuất hiện
nhiều hơn trong quần thể qua thời gian
[81]
. Sự lạc dòng di truyền (genetic drift) cũng có
thể diễn ra, khi những sự kiện bất chợt làm biến đổi ngẫu nhiên tần số allele
[82]
.
Trải qua nhiều thế hệ, bộ gen của các sinh vật có thể thay đổi, dẫn đến hiện tượng tiến
hóa. Đột biến và chọn lọc các đột biến có lợi giúp các loài tiến hóa và tồn tại tốt hơn
trong môi trường của chúng, quá trình này gọi là thích nghi
[83]
. Những loài mới được tạo
thành thông qua quá trình hình thành loài, quá trình thường có nguyên nhân từ cách biệt
địa lý dẫn đến những quần thể khác nhau trở nên cách ly về di truyền
[84]
. Việc ứng dụng
các nguyên lý di truyền vào nghiên cứu sinh học quần thể và tiến hóa được xem là thuyết
tiến hóa tổng hợp hiện đại.
Khi các trình tự được cách ly và biến đổi trong quá trình tiến hóa, những khác biệt giữa

các trình tự có thể được dùng như một đồng hồ phân tử để tính khoảng cách tiến hóa giữa
chúng
[85]
. Những so sánh di truyền nhìn chung được xem như cách thức đúng đắn nhất để
mô tả mối liên hệ giữa các loài - một tiến bộ so với việc so sánh các đặc tính kiểu hình
vốn dễ nhầm lẫn trước đây. Khoảng cách tiến hóa giữa các loài có thể được kết hợp tạo
thành cây tiến hóa - những cây này miêu tả nguồn gốc chung và sự phân hướng của các
loài qua thời gian, dù chúng không thể hiện được sự chuyển giao vật liệu di truyền giữa
các loài không liên quan với nhau (được biết đến là sự chuyển gen ngang và chủ yếu phổ
biến ở vi khuẩn).
[sửa] Nghiên cứu và công nghệ
[sửa] Sinh vật mẫu
Ruồi giấm thường (Drosophila melanogaster), một sinh vật mẫu phổ biến trong nghiên
cứu di truyền học.
Dù các nhà di truyền học ban đầu nghiên cứu tính di truyền ở đa dạng các loài sinh vật,
nhưng sau đó họ bắt đầu nghiên cứu tập trung tính di truyền ở nhóm những sinh vật đặc
biệt. Thực tế, những nghiên cứu quan trọng ở một sinh vật nhất định sẽ khuyến khích các
nhà nghiên cứu kế tiếp lựa chọn sinh vật đó để phát triển nghiên cứu xa hơn, và như thế
cuối cùng chỉ có một số ít sinh vật mẫu đã trở thành cơ sở cho hầu hết các nghiên cứu về
di truyền
[86]
. Các đề tài nghiên cứu di truyền phổ biến trên các sinh vật mẫu gồm có
nghiên cứu về điều hòa gen, mối liên quan giữa gen với sự phát triển hình thái và ung
thư.
Các sinh vật được lựa chọn, một phần bởi tính thuận tiện: có vòng đời ngắn và dễ dàng
thao tác di truyền. Những sinh vật mẫu được sử dụng rộng rãi bao gồm: vi khuẩn đường
ruột Escherichia coli, cải Arabidopsis thaliana, men bánh mỳ Saccharomyces cerevisiae,
giun tròn Caenorhabditis elegans, ruồi giấm (Drosophila melanogaster) và chuột nhà
(Mus musculus).
[sửa] Di truyền y học

Di truyền y học tìm hiểu xem biến đổi di truyền liên hệ tới sức khỏe và bệnh tật của con
người như thế nào
[87]
. Khi tìm kiếm một gen chưa biết mà có thể liên quan tới một căn
bệnh, các nhà nghiên cứu thường sử dụng liên kết gen và sơ đồ phả hệ di truyền để tìm ra
vị trí của nó trong bộ gen. Ở cấp độ quần thể, các nhà nghiên cứu lợi dụng sự ngẫu nhiên
hóa Mendel (Mendelian randomization) để tìm ra những vị trí trong bộ gen mà liên đới
với căn bệnh, một kỹ thuật đặc biệt hữu ích với những tính trạng đa gen không được xác
định rõ ràng bởi một gen đơn lẻ
[88]
. Khi một gen tương ứng được tìm ra, những nghiên cứu
xa hơn sẽ tiếp tục thực hiện với cùng gen đó (được gọi là các gen trực giao) trên những
sinh vật mẫu. Bên cạnh nghiên cứu các bệnh di truyền, việc tăng tính hữu hiệu của các kỹ
thuật kiểu gen đã đưa đến lĩnh vực di truyền học dược lý—nghiên cứu làm sao kiểu gen
có thể tác động lên các phản ứng thuốc.
[89]
Dù không di truyền được, ung thư vẫn được công nhận là một căn bệnh di truyền
[90]
. Quá
trình phát triển ung thư của một cơ thể là sự kết hợp của nhiều sự kiện. Các đột biến thỉnh
thoảng diễn ra trong các tế bào của cơ thể khi chúng phân chia. Trong khi những đột biến
này sẽ không di truyền được sang thế hệ sau, chúng lại có thể tác động lên hoạt động của
các tế bào, có khi khiến tế bào phát triển và phân chia nhanh hơn. Có những cơ chế sinh
học cố gắng ngăn chặn quá trình này; những tín hiệu được chuyển đi tới những tế bào
phân chia không thích hợp và khởi động quá trình apoptosis (tế bào chết theo chương
trình). Tuy vậy, đôi lúc những đột biến thêm tiếp tục diễn ra làm tế bào không nhận được
các tín hiệu. Một quá trình chọn lọc tự nhiên xảy ra bên trong cơ thể, và rốt cuộc, đột biến
tích lũy trong các tế bào làm đẩy mạnh sự phát triển của chúng, tạo ra khối u ung thư, tiếp
tục phát triển và xâm chiếm các mô khác nhau trong cơ thể sinh vật.
[sửa] Kỹ thuật di truyền

Khuẩn lạc E. coli trên một đĩa thạch agar, một ví dụ của tách dòng tế bào và thường được
dùng trong tách dòng phân tử.
ADN có thể được thao tác trong phòng thí nghiệm. Các enzym cắt giới hạn là loại enzym
thường được sử dụng để cắt ADN thành những chuỗi riêng biệt, tạo ra những đoạn ADN
có thể định trước được
[91]
. Việc sử dụng các enzym gắn cho phép các đoạn này nối lại với
nhau, và nối các đoạn ADN từ các nguồn khác nhau; nhờ thế các nhà nghiên cứu có thể
tạo ra ADN tái tổ hợp. Thường gắn liền với các sinh vật biến đổi gen, ADN tái tổ hợp
thông thường được tạo nên từ các plasmid - những đoạn ADN vòng ngắn chứa đựng một
vài gen. Bằng cách chèn plasmid vào vi khuẩn và nuôi các vi khuẩn này trên đĩa thạch
agar (để phân lập các dòng tế bào vi khuẩn), những nhà nghiên cứu có thể khuếch đại vô
tính các đoạn ADN đã chèn (quá trình được biết đến là tách dòng phân tử).Ngoai ra ki
thuat di truyen co the dung lamdaphage de truyen nhung gen mong muon vao te bao vi
khuan nhan.Sau do phan lap dong te bao mong muon de tao san pham
ADN cũng có thể được khuyếch đại nhờ sử dụng một kỹ thuật gọi là phản ứng chuỗi
trùng hợp (PCR).
[92]
Sử dụng những chuỗi ADN ngắn đặc hiệu, PCR có thể phân lập và
khuyếch đại theo hàm mũ một vùng ADN đã xác định. Bởi khả năng phóng đại kể cả
những đoạn cực nhỏ của ADN, PCR thường xuyên được sử dụng để phát hiện sự có mặt
của những trình tự ADN cụ thể.
[sửa] Xác định trình tự ADN và hệ gen học
Là một trong những kỹ thuật chủ yếu được phát triển để nghiên cứu di truyền học, "xác
định trình tự ADN" (DNA sequencing) cho phép các nhà nghiên cứu xác định trình tự
nucleotide trên một đoạn ADN. Phát triển năm 1977 bởi Frederick Sanger và các cộng
sự, phương pháp xác định trình tự gián đoạn chuỗi hiện nay là phương pháp được sử
dụng thường lệ
[93]
. Với kỹ thuật này, các nhà khoa học có thể nghiên cứu được những

trình tự phân tử liên quan tới nhiều bệnh di truyền ở người.
Khi xác định trình tự đã trở nên đỡ tốn kém hơn, cùng với sự trợ giúp của các công cụ
tính toán, những nhà nghiên cứu đã xác định được bộ gen của nhiều sinh vật bằng cách
liên kết trình tự của nhiều đoạn khác nhau (quá trình này gọi là "lắp ráp bộ gen" - genome
assembly)
[94]
. Những kỹ thuật trên được sử dụng để xác định bộ gen người, đã được hoàn
thiện trong Dự án Bản đồ gen Người vào năm 2003
[39]
. Những kỹ thuật xác định trình tự
cao năng (high-throughput) mới đột ngột làm giảm chi phí xác định trình tự ADN, đem
tới hy vọng mới cho nhiều nhà nghiên cứu rằng có thể thực hiện được việc này với giá
thành chỉ còn 1000 đô la Mỹ
[95]
.
Lượng lớn các trình tự được xác định đã hình thành nên lĩnh vực hệ gen học (genomics) -
khoa học nghiên cứu về bộ (hệ) gen, sử dụng các công cụ tính toán để tìm kiếm và phân
tích các mô hình trong bộ gen đầy đủ của sinh vật. Hệ gen học cũng có thể được coi như
một lĩnh vực con của tin sinh học, bộ môn sử dụng những phương pháp tính toán để phân
tích các tập hợp lớn dữ liệu sinh học.
[sửa] Một vài vấn đề xã hội liên quan
Có nhiều vấn đề về di truyền học liên quan đến xã hội, đang được bàn cãi.
[sửa] Sự di truyền trí thông minh
Trí thông minh loài người có mang tính di truyền hay không là một vấn đề được tranh cãi
và nghiên cứu kể từ khi di truyền học ra đời cho đến nay và có thể còn tiếp tục kéo dài.
Đa số các học giả đồng ý rằng tính di truyền có ảnh hưởng nhất định đến sự thông minh,
tuy nhiên ở mức độ nào thì vẫn còn nhiều tranh luận. Sự phức tạp của vấn đề tăng lên khi
một số độc giả đưa thêm yếu tố chủng tộc vào. Một số học giả đánh giá di truyền trí
thông minh qua chỉ số thông minh (IQ), một số khác cho rằng vấn đề phức tạp hơn nhiều,
không thể chỉ đơn thuần căn cứ vào IQ.

[96]
[sửa] Ưu sinh học
Thuật ngữ ưu sinh học (eugenics) dược nêu ra lần đầu vào năm 1893, với mục tiêu phát
triển lĩnh vực "cải thiện giống người". Tuy vậy, sau khi bị Đức Quốc xã lợi dụng vào
những năm 1920-1930, ưu sinh học đã không được nhắc tới trong thời gian dài. Người ta
phân ra hai hình thức của ưu sinh học:
• Ưu sinh học âm: mục tiêu là giảm tần số các gen xấu. Chẳng hạn như có một số
nước cấm những người mắc bệnh di truyền không được sinh con.
• Ưu sinh học dương: mục tiêu là tăng tần số các gen tốt. Chẳng hạn như ở Mỹ
hằng năm có khoảng 5.000-10.000 trẻ em được sinh ra từ tinh trùng của những
người cha được chọn lọc.
Hiện nay, một số người cho rằng có thể dùng liệu pháp gen để cải tạo loài người, nhưng
chỉ nên tác động ở tế bào soma. Việc cải tạo con người hay tạo ra những con người siêu
việt vấp phải một số vấn đề đạo đức và nhân chủng học.
[97]
[sửa] Đạo đức sinh học
Việc phát triển của ngành sinh học nói chung và di truyền học nói riêng đã tạo ra không ít
vấn đề về đạo đức sinh học. Một số nhà khoa học đã đề nghị tiến hành trưng cầu dân ý để
cấm việc nghiên cứu về di truyền học. Một số khác thì đề nghị cần có những luật lệ rõ
ràng để bảo vệ bộ gen người, phù hợp với các quy chuẩn đạo đức của con người. Nhiều
vấn đề tâm lý xã hội nảy sinh khi biết rõ bộ gen một người nào đó: nếu họ là những người
bình thường nhưng có mang gen bệnh thì vấn đề hôn nhân, sinh đẻ hay xin việc làm của
họ sẽ như thế nào.
Sau khi thí nghiệm về nhân bản người đựoc tiến hành tại Mỹ năm 1993, một số nước
thuộc Cộng đồng châu Âu đã đưa ra các luật lệ cấm các thí nghiệm dạng này. Một số nhà
bảo vệ môi sinh kịch liệt phản đối việc nhân bản người và sinh vật bằng các kỹ thuật di
truyền.
[98]
UNESCO đã lập ra Ủy ban quốc tế về Đạo đức sinh học nhằm thu nhập các ý kiến xây
dựng nên các luật lệ về đạo đức sinh học liên quan đến bộ gen người.

[sửa] Sinh vật biến đổi di truyền
Kỹ thuật di truyền tạo ra các sinh vật biến đổi về mặt di truyền (GMO) đã khiến nhiều
người quan ngại: liệu các sinh vật này có lấn át, ảnh hưởng xấu tới các dạng sinh vật tự
nhiên khác hay tạo ra các dạng bệnh mới do tái tổ hợp với các dạng tự nhiên? Liệu các
gen của các sinh vật biến đổi di truyền có gây nguy hiểm cho cơ thể con người hay
không? Liệu các thực vật kháng chất diệt cỏ chẳng hạn có khả năng chuyển gen cho cỏ
dại hay không.v.v. Trước các lo ngại này, nhiều nước đã xây dựng luật lệ chặt chẽ để
kiểm soát các sinh vật GMO.
[99]
[sửa] Khoa học hình sự
Do mọi mô trong cơ thể đều chứa cấu trúc ADN nguyên vẹn của một cá thể nên khoa học
pháp y có thể dựa vào các mẫu sinh học tìm thấy ở hiện trường để xây dựng được hồ sơ
di truyền học của cơ thể đó, từ đó giúp xác định thủ phạm hay loại bỏ nghi can vô tội
trong một vụ án. Ngoài ra, các phép phân tích di truyền cũng cho phép khẳng định hay
loại trừ một nghi vấn về quan hệ huyết thống nào đó, chẳng hạn như trong trường hợp
xác định cha mẹ của một đứa trẻ bị thất lạc.
[100]
Design: V« danh

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×