Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Tự học điện tử 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.12 MB, 69 trang )

Dẫn nhập.

Led (Light Emitter Diode) là một mối nối bán dẫn PN, khi
bị kích thích bởi dòng điện thì nó phát ra sáng. Như vậy có
thể xem Led là một linh kiện chuyển đổi trực tiếp điện năng
ra quang năng, không như bóng đèn tìm phải chuyển điện
năng ra dạng nhiệt, cho đốt nóng một sợi kim loại trong
môi trường khan khí oxy và chờ khi sợi kim loại nóng lên
mới phát ra sáng. Từ đó, chúng ta thấy Led có các đặc tính
sau:

* Có hiệu suất rất cao, vì nó chuyển thẳng điện năng ra
quang năng.

* Có quán tính nhỏ, nghĩa là tắt là tắt ngay và cho sáng là
sáng ngay, nhấp nháy nhịp rất nhanh.

* Có thể làm việc ở mức volt DC thấp và dòng nhỏ, chỉ vài
Volt và vài mA.

* Kích thước của điểm sáng có thể làm rất nhỏ, lại có nhiều
màu.

* và điều không kém quan trọng nữa là giá tiền rất rẽ, lại
rất bền, nên trở thành rất phổ biến.

Với những đặc tính như vậy, Led ngày càng có nhiều ứng
dụng rất đặc sắc. Có thể dùng Led làm bảng đèn chữ và
hình, có thể dùng Led làm màn hình rộng để hiện hình ảnh,
có thể dùng Led để chiếu sáng, dùng Led chỉ thị, dùng Led
tạo hình 2D, 3D, 4D


Tôi nghĩ không ai làm nghề điện tử mà không hiểu rõ về
Led, nó là một đề tài nhập môn của ngành điện tử học, hôm
nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu các cách dùng Led để
phục vụ cho cuộc sống hiện thực.



Vài hình ảnh cho thấy cấu tạo của Led và các cách dùng Led:


Hình vẽ cho thấy Led được cấu tạo từ một mối nối bán dẫn PN, khi chất bán
dẫn Silicon cho pha Indium (có 3 nối hóa trị, khi gắn nó vào mạng Silicon cần
4 nối, sẽ có một nối thiếu điện tử và cho ra 1 lỗ trống) chúng ta sẽ có chân bán
dẫn loại P và khi cho pha với Phosphor (có 5 nối hóa trị, khi gắn nó vào mạng
Silicon cần 4 nối, sẽ dư ra 1 hạt điện tử), chúng ta có chân bán dẫn loại N.

Chất bản dẫn loại P tạo điều kiện dẫn điện bằng các lỗ trống (Hole), đó chính là
các nối hóa trị thiếu điện tử. Còn chất bán dẫn loại N có điểu kiện dẫn điện là
do các điện tử tự do (điện tử dư ra do phosphor có 5 điện tử hóa trị mà trong kết
nối tinh thể chỉ cần có 4 ).

Khi mối nối PN được cho phân cực thuận với nguồn pin ngoài, một dòng điện
kích thích khi chảy qua mối nối bán dẫn PN sẽ tạo các dao động của các điện tử
(Bạn xem hình) và các dao động này sẽ phát ra sóng điện từ trường đó chính là
các tia sáng. Tóm lại Led có 2 chân, gọi là chân âm cực hay Cathode ( do chân
này cho nối vào cực âm của pin) và chân dương cực hay Anode (do chân này
cho nối vào cực dương của pin), khi chúng ta cho dòng điện chảy qua một Led
nó sẽ phát ra chùm tia sáng, và để có điềm sáng đủ mạch, chúng ta dùng vật
liệu nhựa trong suốt làm kính hội tụ (Bạn xem hình cấu tạo của Led).




Hình chụp trên đây cho Bạn thấy các Led màu có nhiều kích cở, các Led này
thường là các điểm sáng nhỏ thường dùng làm các Led chỉ thị. Như:

* Chỉ thị mức âm lượng mạnh yếu, người ta tạo ra các vạch sáng bằng Led hình
dẹp.
* Chỉ thị 3 tranh thái của máy: Đỏ - Xanh - Vàng, người ta dùng Led đôi ra 3
chân.
* Chỉ thị máy có mở nguồn hay tắt, người ta dùng Led tròn đỏ, trắng

Dĩ nhiên, mỗi Led được xem là một điểm sáng, mà Ban biết hình ảnh chữ sổ
đều có thể tạo ra từ các điểm sáng nhỏ này, do đó Bạn có thể dùng nhiều Led để
ghép theo hình và theo chữ, theo số, như vậy Bạn đã có một bảng đèn hay một
vật thể phát sáng nhiều màu, lung linh nhấp nháy trông rất đẹp mắt.




Ngày nay người ta muốn dùng Led làm nguồn chiếu sáng mạnh để thay thế các
đèn chiếu sáng cổ điển, vì Led có hiệu suất rất cao, an toàn, tuổi thọ dài, ít hao
điện và rất dễ dùng. Hình trên đây cho thấy hình dạng của các Led công suất
lớn, hiện nó đã là nguồn sáng lạnh rất mạnh và trong một tương lai gần thôi nó
sẽ thay thế các đèn chiếu sáng nóng như loại đèn sợi nung, loạiđèn chiếu sáng
ồn, gây nhiều nhiễu, như đèn ống huỳnh quang.







Do Led có quán tính nhỏ, nghĩa là nó có thể nhấp nháy với nhịp nhanh, nói cho
dễ hiểu, là nó tắt nhanh và sáng nhanh, không như loại đèn sợi nung có quán
tính nhiệt quá chậm. Với Led người ta có thể dùng làm loại đèn số theo mã 7
đoạn, dùng loại đèn này để làm các mạch đếm rất tiện (Bạn xem hình, một khối
đèn số 7 đoạn có thể cho hiện ra các số thập lục phân).




Nhiều Bạn trẻ thích "ngông", dùng Led tạo hình rồi dùng transistor điều khiển
cho các hình nhấp nháy, tạo ra các hình đèn động rất ngộ nghĩnh, như hình đứa
trẻ, hình người đạp xe Còn hình gì nữa, tôi nghĩ chắc Bạn sẽ tự nghĩ ra thôi.




Người ta còn dùng Led để tạo ra hình khối 3D và dùng mạch điện tử làm cho
các Led này sáng nhấp nháy rất sinh động.




Dùng Led làm đèn giao thông



Trước mắt cho dùng nhiều Led siêu sáng ghép lại để làm đèn chiếu sáng mạnh,
thay thế các đèn chiếu sáng cổ điển (sắp vào viện bảo tàng).



Một chút tính toán để biết cách dùng Led.

Đặc tính của môn điện tử là "tính tính toán toán". Khi đã nghĩ ra một mạch điện
rồi thì phải biết:

* Biết tính toán dòng, áp, công suất tiêu thụ, tính an toàn, độ bền
* Biết tìm linh kiện, làm bo mạch in.
* và phải biết ráp mạch
* và nếu giỏi nữa thì phải biết dùng kiến thức của mình tạo ra kinh tế cho bản
thân.

Ở đây tôi trình bày các mạch điện kinh điển dùng Led và một số tính toán có
liên quan (để việc tính toán nhanh và dễ làm tôi dùng phần mềm PSpice của
OrCAD).

Do có ý là chỉ dùng các linh kiện dễ tìm, tôi chọn kiểu mạch điều khiển kích
sáng chủ yếu dùng transistor và chỉ dùng thêm một vài loại ic logic thông dụng.

Trước hết là vấn đề kiểm tra các Led mà Bạn có:


Khi dùng Ohm kế để kiểm tra Led Bạn nhớ các điểm sau:

(1) Lấy thang đo Rx1 để có dòng chảy ra trên dây đo lớn, lúc này dòng ngắn
mạch (chập 2 dây đo lại) , dòng chảy trên dây đo sẽ lớn nhật và thường ở thang
Rx1 là 150mA (con số này có ghi trên máy đo).

(2) Do dây đo màu đỏ nối vào cực âm của pin (pin 3V trong máy đo), nên dòng
điện tử chảy ra từ dây đen và do dây màu đỏ nối vào cực dương của pin nên

dòng điện tử sẽ bị hút vào ở dây đỏ.

(3) Khi đo Led (hay nói chung là khi Bạn đo các linh kiện có tính phi tuyến như
diode, transistor, IC) Bạn nên xem kết quả trên vạch chia LV, vạch LV cho Bạn
biết mức volt hiện có trên vật đo và khi đọc kết quả trên vạch chia LI, vạch LI
cho Bạn biết cường độ dòng điện đang chảy qua vật đo.

Vậy với Led, khi dây đen đặt trên chân Cathode và dây đỏ trên chân Anode,
Led sẽ sáng. Đọc kết quả trên vạch chia LV Bạn biết điện áp có trên 2 chân
của Led và đọc trên vạch chia LI, Bạn biết cường độ dòng điện đang chảy qua
Led.

Đảo chiều 2 dây đo Led sẽ không sáng, vì nó bị phân cực ngược, khi mối nối
bán dẫn PN bị phân cực ngược nó sẽ không cho dòng chảy qua.

Tóm tắt cách đo Led bằng hình động sau:


Bạn thấy gì: Khi dây đen đặt trên chân cathode của led và dây đỏ trên anode thì
Led sáng (vì Led được cho phân cực thuận) và khi đảo dây lại thì Led tắt (vì
Led bị phân cực nghịch).

Lúc đo theo phân cực thuận, Bạn hãy nhìn kim dừng trên vạch chia LV sẽ biết
mức ghim áp của Led. Các Led chiếu sáng thông thường thường có mức ghim
áp khoảng 2V, với loại Led siêu sáng có mức ghim áp khoảng 3V.

Ghi nhận: Với các VOM kế có lỗ cắm dùng đo hệ số khuếch đại dòng của các
transistor, Bạn có thể cắm Led vào các lỗi này để kiểm tra Led, làm như vậy sẽ
nhanh hơn.





Tiếp theo chúng ta sẽ dùng trình PSpice của OrCAD để
khảo sát các mạch điện kinh điển dùng Led.



Thực hành 1: Dùng luật Ohm để tính trị của điện trở hạn dòng R
(Xem sơ đồ mạch thực hành 1).

Trong mạch này dùng 3 chủng loại linh kiện, đó là: Led chiếu sáng, điện trở và
nguồn điện năng của pin.



Trong mạch Bạn luôn phải nhớ dùng điện trở hạn dòng hay còn gọi là điện trở
định dòng làm việc cho Led. Các Led chiếu sáng thường có mức ghim áp là 2V
(loại Led siêu sáng có mức ghim áp là 3V) và dòng làm việc lấy 10mA là đủ
sáng. Vậy chúng ta có thể dùng luật Ohm để tính được trị của điện trở R.

Dùng trình PSpice để tính nhanh, từ các trị in ra trong hình, chúng ta thấy với
Led có tính ghim áp là 1.18V và trong mạch dùng điện trở hạn dòng R1 là 1K
thì dòng chảy qua led sẽ là 10.82mA, lúc này công suất tiệu thụ trên Led là
12.76mW, rất nhỏ so với công suất làm nóng điện trở R1 là 117.1mW. Vậy nếu
muốn giảm dòng chảy qua Led Bạn cho tăng trị của điện trở R1.

Điều tối kỵ: Không bao giờ, không bao giờ cho Led nối thẳng vào nguồn pin,
không có điện trở hạn dòng, dòng qua Led quá lớn, Led sẽ bị cháy và hư tức
khắc (nếu không tin, Bạn có thể làm thử để lấy kinh nghiệm).




Thực hành 2: Khảo sát các Led mắc nối tiếp.


Chúng ta tạo ra 4 nhánh với số Led tăng dần, và dùng PSpice để tìm kết quả về
dòng và áp trên mạch, chúng ta nhận thấy:

* Điện áp của các Led được cho cộng vào nhau.
* Do điện trở hạn dòng không thay đổi trị số, nên dòng ở các nhành có nhiều
Led sẽ giảm.
* Dòng cung cấp của nguồn pin bằng tổng các dòng qua các nhánh cộng lại.

Vậy khi mắc nhiều Led nối tiếp chúng ta phải nhớ điều chỉnh lại trị của điện trở
hạn dòng để dòng qua Led đủ lớn để cho Led sáng mạnh (dòng làm việc của
các Led chiếu sáng thường lấy trong khoảng từ 5mA đến 10mA là đủ).


Thực hành 3: Khảo sát các Led vừa mắc nối tiếp vừa mắc song song.

Bạn mô tả mạch điện muốn ráp trong trình PSpice, và kết quả phân tích của
PSpice cho chúng ta số liệu như hình sau:


Qua các số liệu chúng ta thấy: Dòng qua nhánh 2 Led là 4.87mA, và dòng tồng
cộng là 9.74mA. Nhánh 3 Led không có dòng.

* Các nhánh có Led cùng loại, có số Led bằng nhau mắc song song thì có dòng
làm sáng Led.


* Nhánh có số Led nhiều hơn, như nhánh 3 Led, nó cần mức áp cao hơn mức
ghim áp của nó, do đó nhánh này thiếu áp và sẽ không được cấp dòng, nên các
Led không sáng.

Tóm lại, Bạn cần nhớ chỉ dùng cùng loại Led cho mắc nối tiếp và rồi mắc song
song, số Led trên các nhánh phải bằng nhau, lúc đó các nhánh này mới có dòng
và Led sẽ sáng .


Thực hành 4: Hãy làm quen với tụ điện và mạch RC.

Trong mạch điện tụ điện là kho chứa điện, do vậy khi có một tụ điện Bạn phải
biết:

* Điện dung của tụ, đơn vị tính là Faraday, thường dùng ở cấp uF (micro
Farad), hay nF (nano Farad) hay pF (pico Farad).

* Sức chịu áp của tụ, trên tụ thường ghi mức áp làm việc (WV, Working Volt),
đừng cho tụ nạp ở mức áp quá cao, tụ sẽ bị nổ.



Hình vẽ cho thấy hình dạng các loại tụ điện: Thường có 3 nhóm:

(1) Nhóm tụ hóa, loại tụ có dung lượng lớn (chứa được nhiều điện tích), loại tụ
này có cực tính, khi mắc vào mạch dấu dường ghi trên tụ phải cho bên có mức
áp cao.

(2) Nhóm tụ thường, loại tụ này có điện dung nhỏ, nhưng sức chịu áp cao. Loại

tụ thường không có cực tính.

(3) Nhóm tụ xoay, loại tụ này có điện dung thay đổi được, nó thường dùng
trong các mạch cộng hưởng dùng làm bẩy sóng.


Để hiểu nguyên lý làm việc của tụ trong mạch, tôi trình bày bằng hình động,
trong hình cho thấy 2 quá trình: Quá trình nạp điện và quá trình xả điện.




* Khi S1 đóng và S2 hở, lúc này tụ C1 ở quá trình cho nạp điện, dòng điện tích
từ nguồn pin cho bơm vào tụ, dòng chảy qua điện trở R1 và mức volt trên tụ
tăng dần lên cho đến lúc đầy, tụ đầy được hiểu là mức áp trên tụ đã lên rất gần
bằng 12V của nguồn.

* Khi S2 đóng và S1 hở, lúc này tụ C1 ở quá trình xả điện, dòng điện sẽ chảy
qua điện trở R2 và mức áp trên tụ sẽ giảm dần xuống. Khi mức áp trong tụ
bằng 0V, chúng ta nói tụ đã xả hết điện.

Vậy xuất hiện câu hỏi: Khi nào và bao lâu thì tụ C1 mới nạp đầy? Và phải bao
lâu thì tụ C1 mới xả hết điện?

Nhìn vào mạch Bạn cũng thấy, nếu dùng tụ C1 có dung lượng lớn và điện trở
R1 làm ống dẫn có sức cản dòng quá lớn thì thời gian để tụ nạp đầy mức áp của
nguồn sẽ rất lâu. Cũng vậy, tụ lớn, điện trở R2 có trị lớn thời gian để tụ xả hết
điện cũng sẽ rất lâu. Người ta đưa ra một định nghĩa về thời hằng:

Thời hằng của mạch nạp xả của tụ C qua R là thời gian t = RxC. Với thời

gian này tụ sẽ nạp được 63% mức điện của nguồn nuôi hay đã xả được 63%
lượng điện mà tụ có. Và mội người đều cho là sau 5t (tức 5xRxC) thì xem như
tụ đã nạp đầy hay tụ đã xả hết điện.



Thực hành 5: Bây giờ nói đến linh kiện có tính tích cực đây, đó là transistor.

Transistor là một linh kiện rất quan trọng, nó tạo ra cuộc cách mạng lông trời lỡ
đất của ngành điện tử. Transistor được xếp vào loại linh kiện tích cực vì nó có
tính khuếch đại. Ở đây chúng ta chỉ dùng transistor như những khóa điện bán
dẫn đóng mở mạch theo mức áp cao hay thấp. Có 2 loại transistor, loại NPN và
loại PNP.


Mô hình bán dẫn cho thấy người ta sắp xếp các chân bán dẫn loại N, loại P để
tạo ra các mối nối EB cà CB và tạo ra các transistor nhị cực NPN hay PNP.

Trong hình N là chất bán dẫn Silicon pha Phospho (Phospho với 5 điện tử hóa
trị tạo nối), nên khi gắn vào tinh thể Silicon sẽ để dư ra một điện tử tự do, và
chính điện tử dư ra này là phần tử dẫn điện trong chất bán dẫn loại N, khi cho
N pha đậm, người ta sẽ ghi là n+ và pha nhạt hơn thì ghi là n Tương tự chất P
là chất bán dẫn Silicon cho pha Indium ( Indium có 3 điện tử nối hóa trị nên
khi gắn vào tinh thể Silicon sẽ có một nối trống vì thiếu điện tử), chính các lỗ
trống này tạo ra điều kiện dẫn điện trong chất bán dẫn loại P.

Bạn thấy chân E có kích thước thu nhỏ, vì sao?. Vì nó là chân dùng cho phun
ra các hạt tải điện, chân C có kích thước rộng là vì nó là chân được dùng để thu
gốp các hạt điện phun ra từ chân E.





Trên đây là hình vẽ cấu trúc bán dẫn của một transistor NPN. Trong chất bán
dẫn loại N phần tử làm công việc dẫn điện là các hạt điện tử (dư ra do phospho
cho) và trong chất bán dẫn loại P phần tử dẫn điện là các lỗ trống trên các nối
(do Indium tạo ra), các lỗ được cho đồng nghĩa là các hạt tải điện dương (nên
ghi bằng dấu +). Vậy nếu chân E phun ra dòng, dòng này sẽ chảy vượt qua
vùng B và sẽ được thu gốp lại trên chân C.




Nhìn các hình chụp trên Bạn thấy transistor có 3 chân:

* Chân E được pha đậm để có tính dẫn điện tốt, nó là chân phun ra các hạt tải
điện. Với chất bán dẫn loại N thì phun ra các hạt điện tử dư (do chất pha
phospho cung cấp) với chất bán dẫn loại P thì phun ra các lỗ (các nối trống do
Indium tạo ra). E là Emitter, nghĩa là chân phát, chân phun ra các hạt tải điện.

* Chân C được pha vừa, nó có tính dẫn điện khá, nó là chân thu gôm các hạt tải
điện phun ra từ chân E, nghĩa la các hạt tải điện phun ra từ chân E đều được
"hút vào" chân C và chảy ra trên chân C. C là Collector, nghĩa là chân gốp, thu
gốp các hạt điện phun ra từ chân E.

* Chân B được làm rất mỏng, nó là chân nền kẹp giữa chân E và chân C, người
ta thêm chân B ở giữa để "control" dòng điện chảy từ E vào C. Nó điều khiển
dòng điện đi từ E vào C. Người ta làm chân B thật mỏng để tránh sự thất thoát
của điện tử lúc vượt qua chân này. B là Base, nghĩa là chân nền, kẹp giữa E và
C, dùng kiểm soát cường độ dòng điện chảy từ E vào C.


Nhìn vào cấu trúc bán dẫn của transistor, chúng ta thấy chỉ có thể có 2 loại sắp
xếp, đó là NPN hay PNP. Như vậy dù với kiểu sắp xếp nào trong transistor
cũng có 2 mối nối PN, mối nối EB và mối nối CB, do đó người ta gọi loại
transistor này là transistor nhị cực hay transistor BJT (BJT, Bipolar Junction
Transistor).

Trên các sơ đồ mạch điện, chúng ta dùng ký hiệu của transistor để vẽ mạch, với
các ký hiệu của các linh kiện bán dẫn, Bạn nhớ chiều chỉ của mũi tên, mũi tên
chỉ vào chân nào chân đó được hiều là chân có chất bán dẫn loại N.

Transistor là linh kiện thuộc nhóm tích cực (các linh kiện như điện trở, tụ điện,
biến áp thuộc nhóm linh kiện thụ động), có thể dùng transistor để khuếch đại
tín hiệu, nghĩa là biến một tín hiệu có công suất yếu ra một tín hiệu có công
suất mạnh hơn, transistor còn có thể dùng làm một khóa điện để đóng mở mạch
theo mức áp. Tuy nhiên muốn dùng transistor để khuếch đại hay làm khóa điện,
trước hết Bạn phải cho phân cực các mối nối trong transistor. Người ta phân ra
4 vùng tùy theo tính phân cực của 2 mối nối bán dẫn EB và CB.

* Nếu cả 2 mối nối EB và CB đều cho phân cực ngược, người ta nói transistor
ở trong vùng ngưng dẫn (Cut-off), lúc này không có dòng chảy trên các chân
của transistor. Nếu xem nó như một khóa điện, thì transistor ngưng dẫn giống
như một khóa điện làm hở mạch.

* Nếu cả 2 mối nối EB và CB đều cho phân cực thuận, người ta nói transistor ở
trong vùng bão hòa (Saturation), lúc này dòng chảy ra ở chân C đã đặt đến
mức không thể tăng hơn được nữa. Nếu xem nó như một khóa điện, thì
transistor bão hòa xem như một khóa điện đóng lại, cho dòng chảy qua.

* Nếu chân EB cho phân cực thuận và chân CB cho phân cực nghịch, người ta

nói transistor ở trong vùng khuếch đại (Action), lúc này chỉ với một tác động
điện áp nhỏ trên chân B cũng sẽ kiểm soát được dòng chảy mạnh yếu ra trên
chân C, trạng thái này của transistor được dùng nhiều nhất.

* Nếu chân EB cho phân cực nghịch và chân CB cho phân cực thuận, người ta
nói transistor ở trong vùng khuếch đại ngược (Rev-Action), lúc này chỉ với
một tác động điện áp nhỏ trên chân B cũng sẽ kiểm soát được dòng chảy mạnh
yếu ra trên chân E, Bạn thấy người ta đã cho đảo ngược, lấy chân C làm chân
phun hạt tải điện và lấy chân E làm chân gốp. Trạng thái khuếch đại này của
transistor ít được dùng vì nó cho độ lợi nhỏ.


Hãy tìm hiểu các đo các transistor NPN và PNP, loại công suất nhỏ:


Đo transistor nhị cực (BJT transistor):

Transistor nhị cực bên trong có hai mối nối PN, quen gọi là transistor
bipolar (BJT). Nó có 2 loại, transistor NPN và transistor PNP. Bạn có thể
dùng một Ohm kế (kim) để kiểm tra các loại transistor bipolar. Trình tự
thường làm là:

(1) Trước hết hãy tìm ra chân B.




Bạn lấy thang đo Rx1, lần lượt tìm đo trên hai chân của transistor, đo
chiều này kim không lên, đảo dây đo, kim cũng không lên, vậy đó là hai
chân E (Emitter) và C (Collector) của transistor. Như vậy có thể nói

chân còn lại sẽ chính là chân B của transistor.

(2) Hãy kiểm tra 2 diode tạo bởi mối nối B-E và mối nối B-C.

Bạn có thể xem transistor tương tự như 2 diode (2 mối nối PN), nên
việc kiểm tra một transistor tốt/xấu trở thành kiểm tra 2 diode (diode B-E
và diode B-C). Với transistor NPN, nếu dây đen (chân hút dòng, vì bên
trong máy đo nó nối vào cực dương của pin) đặt trên chân B, dây đỏ
(nơi dòng điện tử chảy ra) đặt trên chân C, lúc này kim phải lên do
diode được cho phân cực thuận và dây đỏ dời qua chân E kim cũng
phải lên (vì cũng được phân cực thuận). Ngược lại, đặt dây đỏ trên
chân B, dây đen trên chân C rồi qua chân E, cả 2 lần đo này kim đều
không lên, vì cả 2 diode đều bị phân cực nghịch.

Chú ý: với các transistor loại PNP thì kết quả đo sẽ ngược lại. Nghĩa là
dây đỏ trên chân B, dây đen trên chân E, rồi trên chân C, kim sẽ lên là
do 2 diode phân cực thuận và dây đen trên chân B, dây đỏ trên chân C,
rồi trên chân E, kim không lên vì 2 diode bị phân cực nghịch.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×