Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN TRONG KINH DOANH XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.39 KB, 25 trang )

Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Phần 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU
VIỆT NAM
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, hoạt động phân phối xăng dầu cũng đã trải qua các giai đoạn
tương ứng, từ phương thức cung cấp theo định lượng, áp dụng một mức giá thống nhất do
Nhà nước quy định đến mua bán theo nhu cầu, thông qua hợp đồng kinh tế.
Để tiệm cận với những thay đổi đó, đặc biệt là giai đoạn bắt đầu tiếp cận thị trường, Nhà
nước đã nhiều lần điều chỉnh cơ chế quản lý vĩ mô về kinh doanh xăng dầu với những
chính sách phù hợp với đặc thù của mỗi giai đoạn.
Khái quát thị trường xăng dầu trong 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam đặt viên gạch đầu tiên
xây dựng nền móng của thị trường xăng dầu năm 1989, quá trình chuyển đổi có thể phân
chia thành 3 giai đoạn: trước năm 2000, từ năm 2000 đến cuối năm 2008 và từ cuối năm
2008 trở lại đây.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá và nhìn nhận trên mọi góc cạnh của thị trường, chúng ta cần
khẳng định những bước tiến của quá trình đổi mới cơ chế kinh doanh xăng dầu, đối diện
với những mặt hạn chế và đặt ra các vấn đề cần tiếp tục đổi mới để phát triển thị trường
xăng dầu trong giai đoạn tiếp theo, thích ứng với những biến động ngày càng phức tạp của
nguồn năng lượng dầu mỏ
I/. Giai đoạn trước năm 2000
Giai đoạn này kéo dài trên 10 năm, với sự gia tăng của các đầu mối nhập khẩu từ một đầu
mối duy nhất, tăng dần lên 5 và đến năm 1999, đã có 10 đầu mối tham gia nhập khẩu xăng
dầu cho nhu cầu nội địa.
Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi không còn nguồn xăng dầu cung cấp theo Hiệp
định với Liên xô (cũ), Nhà nước chuyển từ quy định "giá cứng" sang áp dụng giá chuẩn để
phù hợp với việc hình thành nguồn xăng dầu nhập khẩu từ lượng ngoại tệ do doanh nghiệp
đầu mối tự cân đối, mua của các doanh nghiệp xuất khẩu qua ngân hàng hoặc hình thức uỷ
thác bao tiêu xăng dầu cho doanh nghiệp có ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Vào giai đoạn
Trang 1
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
này, nguồn ngoại tệ từ dầu thô do Nhà nước bảo đảm chỉ chiếm dưới 40% tổng nhu cầu


ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu. Doanh nghiệp đầu mối được quyền quyết định giá bán +/-
10% so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt động kinh doanh.
Từ năm 1993, để thống nhất quản lý giá bán, Nhà nước ban hành quy định giá tối đa;
doanh nghiệp tự quyết định giá bán buôn và bán lẻ trong phạm vi giá tối đa. Nhà nước xác
định mức độ chịu đựng của nền kinh tế để xác định giá tối đa; việc điều chỉnh giá tối đa ở
giai đoạn này chỉ diễn ra khi tất cả các công cụ điều tiết đã sử dụng hết.
Công cụ thuế nhập khẩu được sử dụng như một van điều tiết để giữ mặt bằng giá tối đa,
không tạo ra siêu lợi nhuận và doanh nghiệp cũng không phát sinh lỗ sau một chu kỳ kinh
doanh.
Phụ thu là một công cụ bổ sung cho thuế nhập khẩu khi mức thuế nhập khẩu đã được điều
chỉnh tăng hết khung, được đưa vào Quỹ Bình ổn giá do Nhà nước quản lý.
Lệ phí giao thông thu từ năm 1994 cũng được hình thành từ nguyên tắc tận thu cho ngân
sách Nhà nước khi điều kiện cho phép, là khoản thu cố định và sau này đổi tên là phí xăng
dầu.
Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn này là: nhờ quy định của Nhà nước về giá chuẩn, doanh
nghiệp đầu mối được điều chỉnh giá bán xăng dầu nhập khẩu thuộc nguồn ngoại tệ tự huy
động từ các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi cho họ thông qua tỷ giá phù hợp
nên đã huy động được số ngoại tệ nhập khẩu gần 60% nhu cầu xăng dầu cho nền kinh tế
sau khi không còn nguồn xăng dầu theo Hiệp định.
Chính chủ trương không áp dụng cơ chế bù giá cho các đối tượng sử dụng xăng dầu thông
qua doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là điều kiện quyết định để Việt Nam có thể tự cân
đối được ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu ngay cả khi nguồn ngoại tệ tập trung của Nhà nước
từ dầu thô mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% so với tổng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu
xăng dầu lúc đó.
Giai đoạn này cũng là thời kỳ giá xăng dầu thế giới ở mức đáy (dầu thô chỉ ở mức trên 10
usd/thùng), tương đối ổn định nên với cơ chế giá tối đa, Nhà nước đã đạt được mục tiêu đề
ra, cụ thể là (1)/ Cân đối cung - cầu được đảm bảo vững chắc; (2)/ Các hộ sản xuất và
Trang 2
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
người tiêu dùng lẻ được hưởng mức giá tương đối ổn định; biến động giá tuy chỉ theo xu

hướng tăng song mức tăng đều, không gây khó khăn nhiều cho sản xuất và tiêu dùng khi
chủ động hoạch định được ngân sách cho tiêu thụ xăng dầu hàng năm; (3)/ Ngân sách Nhà
nước tăng thu thông qua việc tận thu thuế nhập khẩu, phụ thu, phí xăng dầu; (4)/ Doanh
nghiệp có tích luỹ để đầu tư phát triển, định hình hệ thống cơ sở vật chất, từ cầu cảng, kho
đầu mối, kho trung chuyển, phương tiện vận tải đến mạng lưới bán lẻ.
Mặc dù vậy, cơ chế quản lý - điều hành trong giai đoạn này cũng đã bộc lộ khá rõ những
nhược điểm mà nổi bật là tương quan giá bán giữa các mặt hàng không hợp lý dẫn đến tiêu
dùng lãng phí, nhà đầu tư không có đủ thông tin để tính toán đúng hiệu quả đầu tư nên chỉ
cần thay đổi cơ chế điều hành giá sẽ làm ảnh hưởng rất lớn sử dụng nhiên liệu, nhiều nhà
sản xuất thậm chí đã phải thay đổi công nghệ do thay đổi nhiên liệu đốt (thay thế madut,
dầu hoả bằng than, trấu, gas); gian lận thương mại xuất hiện do định giá thấp đối với mặt
hàng chính sách (dầu hoả); Nhà nước giữ giá ổn định trong một thời gian quá dài thoát ly
giá thế giới tạo sức ỳ và tâm lý phản ứng của người sử dụng về thay đổi giá mà không cần
xét đến nguyên nhân và sự cần thiết phải điều chỉnh tăng giá.
Ở cuối của giai đoạn này giá thế giới- nguồn-thị trường đã có dấu hiệu biến động mạnh, ở
mức cao hơn; các cân đối cung cầu và ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm
phát…đều có nguy cơ bị phá vỡ khi tình trạng đó kéo dài; trong khi chưa tìm được cơ chế
điều hành thích hợp, vì mục tiêu ổn định để phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước đã sử dụng
biện pháp bình ổn giá, khởi đầu cho giai đoạn bù giá cho người tiêu dùng qua doanh nghiệp
nhập khẩu trong gần 10 năm tiếp theo.
II/. Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm dứt bù giá,
vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008)
Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạt động kinh doanh xăng dầu vẫn
chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước đó.
Trong khi đó, từ đầu những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có những thay
đổi căn bản; mặt bằng giá mới hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới
Trang 3
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
trong các năm tiếp theo. Do tiếp tục chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua
doanh nghiệp nhập khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số tiền ngân sách

bù giá ngày càng gia tăng, từ 1000 tỷ (năm 2000) lên đến 22 nghìn tỷ đồng năm 2008; loại
trừ yếu tố trượt giá thì đây cũng là một tốc tộ tăng quá cao; chưa có đánh giá nào đề cập
đến khía cạnh này song xét đơn thuần trên số liệu, nếu đầu tư hàng ngàn tỷ đồng này cho
các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh doanh xăng dầu, đã có thể tạo lập một hệ thống kinh
doanh xăng dầu đủ lớn và hiện đại, có khả năng cạnh tranh khi mở cửa thị trường xăng dầu
trong tương lai gần.
Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2; giá xăng
dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt bằng mới; trước nguy cơ không thể cân đối
ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu.
Cho đến thời điểm này, sự đổi mới cơ chế quản lý, chủ yếu là quản lý giá theo Quyết định
187 vẫn được coi là mạnh mẽ nhất với các tư tưởng cơ bản bao gồm:
- Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng
giá bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu).
- Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp
được phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2%
so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu.
- Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước
không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng - Nhà nước và doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, vì những lý do khách quan, sự đột phá cơ chế điều hành giá trong QĐ 187 chưa
được triển khai trên thực tế; cho đến hiện nay, Nhà nước tiếp tục điều hành và can thiệp
trực tiếp vào giá bán xăng dầu, kể cả chiều tăng và giảm.
Trong giai đoạn này, mặc dù chưa vận hành điều khoản về giá xong sự ra đời của QĐ 187
năm 2003 và NĐ 55 năm 2007 đã tạo ra một hệ thống phân phối rộng khắp với gần 10.000
cửa hàng xăng dầu trên cả nước, góp phần ổn định, lành mạnh hóa thị trường trước đây khá
Trang 4
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
lộn xộn khi thiết lập quan hệ giữa người nhập khẩu và các đại lý, tổng đại lý khi gắn trách
nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp đầu mối với các đại lý, tổng đại lý cũng như giúp cơ

quan quản lý chức năng, người tiêu dùng cùng tham gia vào quá trình giám sát hoạt động
của các đại lý, tổng đại lý trong việc chấp hành quy định kinh doanh xăng dầu.
Đánh giá chung cho giai đoạn này, có thể thấy quyết tâm rất cao để đổi mới cơ chế quản lý
kinh doanh xăng dầu thể hiện qua 2 văn bản pháp quy là QĐ 187 và NĐ 55 song cho đến
hiện nay, văn bản đã không đi vào thực tế kinh doanh (trừ hệ thống phân phối được thiết
lập nhưng việc kiểm soát tính tuân thủ hầu như chưa thực hiện được). Yếu tố ổn định giá
vẫn được đặt lên hàng đầu và chính nó đã làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước lúng lúng
khi phải điều hành đạt các mục tiêu dường như mâu thuẫn nhau ở cùng một thời điểm.
Việc áp dụng một biện pháp duy nhất (biện pháp bù giá), làm cho giá nội địa thoát ly giá
thế giới trong một chu kỳ quá dài với bối cảnh giá xăng dầu thế giới đã nhiều lần hình
thành mặt bằng giá mới cao hơn; ngoài yếu tố cung cầu thì yếu tố địa chính trị cũng ảnh
hưởng lớn đến biến động giá; biên độ dao động giá quá mạnh sau mỗi ngày… đã làm cân
đối ngân sách bị phá vỡ, doanh nghiệp bị kiệt quệ nguồn lực cho phát triển; việc kìm giá và
điều chỉnh sốc tác động tiêu cực đến nền kinh tế, chưa kể hiện tượng đầu cơ chờ tăng giá
làm méo mó nhu cầu, chuyển khá nhiều nguồn lực cho đại lý; phần lớn người tiêu dùng
không được thông tin đầy đủ về cơ chế điều hành và lợi ích mà Nhà nước đem lại cho nhân
dân nên thường xuyên có phản ứng tiêu cực sau mỗi lần điều chỉnh giá (kể cả tăng và
giảm), từ đó chưa tạo được sự đồng thuận trong xã hội; thẩm lậu xăng dầu qua biên giới
ngày càng phức tạp, khó kiểm soát; Nhà nước thất thu ngân sách kể cả lúc giá thấp hơn và
cao hơn nước lân cận do thẩm lậu xăng dầu qua biên giới.
Hệ quả rất xấu của cơ chế bù giá xăng dầu kéo dài (mà người tiêu dùng vẫn hiểu là bù lỗ
cho doanh nghiệp đầu mối) là việc khó chấp nhận điều chỉnh tăng giá, kể cả mức rất thấp
và phản ứng mạnh trước thông tin doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu không có hiệu quả
mà luôn được Nhà nước bù lỗ.
Cũng cần khẳng định rằng, chỉ khi Nhà nước bảo đảm đủ cân đối ngoại tệ cho nhập khẩu
xăng dầu thì mới có thể áp dụng biện pháp bù giá. Đây chính là điểm khác biệt so với giai
đoạn trước, khi mà nguồn ngoại tệ từ dầu thô và các nguồn dự trữ tập trung khác của Nhà
nước đã đủ lớn.
Trang 5
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ

III/. Giai đoạn từ cuối năm 2008 đến nay
Có thể nói, giai đoạn này tuy rất ngắn nhưng đã bộc lộ nhiều nhất những bất cập của cơ chế
điều hành giá và thuế xăng dầu. Việc tiếp tục can thiệp giá và áp dụng một cơ chế điều
hành trong điều kiện giá xăng dầu thế giới biến động rất nhanh chóng theo hai xu hướng
ngược nhau đã dẫn đến một nghịch lý là: trong thời kỳ giá thế giới đã giảm sâu, Nhà nước
vẫn phải bỏ một số tiền bù giá tương đương, thậm chí cao hơn so với giai đoạn giá thế giới
tăng đỉnh điểm; phân khúc số tiền bù giá cho từng giai đoạn trong năm 2008 có thể thấy rõ
nhận định này (khoảng 12 ngàn tỷ /11 ngàn tỷ).
Khái quát lại, từ khi công bố chấm dứt bù giá đến nay, doanh nghiệp vẫn không có thực
quyền về xác định giá bán như các văn bản quy định; Nhà nước không có biện pháp kiểm
soát các doanh nghiệp kết cấu giá bán xăng để hình thành nguồn trả nợ ngân sách, tạo ra sự
mấp mô về giá bán, doanh nghiệp không bình đẳng trong cạnh tranh; các văn bản mới tiếp
tục ra đời song cũng không đi vào thực tế (barem thuế nhập khẩu, quỹ bình ổn giá); cơ chế
đăng ký giá kéo dài mang nặng tính xin cho (phê duyệt), các cơ quan truyền thông khai
thác và đưa ra thông tin về tăng giảm giá rất sớm, không những không có tính định hướng
dư luận mà tạo ra áp lực nặng nề cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý, nguồn lực từ
doanh nghiệp đầu mối chuyển qua đại lý rất khó kiểm soát sự minh bạch và đúng đắn của
các nhu cầu ở trước thời điểm tăng giá. Trầm trọng hơn là xã hội không thừa nhận hoạt
động kinh doanh xăng dầu là phải có lãi (dù rất thấp) như tất cả các hoạt động kinh doanh
khác, trong khi dễ dàng chấp nhận thông tin về hoạt động ngân hàng có thể lãi hàng ngàn tỷ
đồng trong 6 tháng 2009.
Trang 6
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Phần 2.
THỰC TRẠNG
1. Những biến động của cung-cầu xăng dầu thế giới
Với nền kinh tế toàn cầu đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 và năm
nay 2011 nhiều dự báo cho rằng nền kinh tế toàn cầu tiếp tục hồi phục; hai nền kinh tế lớn
nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc vẫn có những tín hiệu tăng trưởng khả quan, vì vậy, nhu
cầu dầu mỏ tiếp tục gia tăng dự kiến khoảng 2%, tương đương 1,5-1,8 triệu thùng/ngày.

Nhu cầu dầu thô tăng chủ yếu ở châu Á, Trung Đông và Mỹ Latinh. Ngoài ra, tình hình
thiên tai, lũ lụt ở các quốc gia lớn trên thế giới, tình hình bất ổn về chính trị ở Trung Đông,
Châu phi sẽ có tác động làm giá cả nói chung, giá dầu nói riêng biến động tăng. Trong
khi tổng nguồn cung dầu mỏ của các nước không thuộc OPEC sẽ giảm khoảng 250.000
thùng/ngày, chủ yếu do sản lượng dầu mỏ ở Biển Bắc, Bắc Mỹ và nguồn cung từ Nga
giảm. Như vậy, sẽ có khả năng mất cân đối ở mức độ nhất định giữa nguồn cung cấp và
nhu cầu sử dụng về dầu mỏ trên toàn cầu trong năm tới. Mặt khác, sự biến động của đồng
đô la Mỹ cũng là một trong những nhân tố chính dẫn tới những thay đổi trên thị trường dầu
mỏ.
Trong bối cảnh giá dầu không ngừng leo thang, nhiều thành viên trong Tổ chức các nước
xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đang tích cực tăng sản lượng khai thác nhằm xua tan nỗi lo của
phương Tây về việc nguồn cung bị gián đoạn, nhất là sau cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra ở
Libya ba tuần trước.
Số liệu của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) cho thấy, sản lượng dầu thô của Libya giảm
khoảng một triệu thùng mỗi ngày, tương đương mức giảm 2/3 so với mức sản lượng 1,58
triệu thùng một ngày trước khi cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra ở nước này ba tuần trước.
Cụ thể, 3 thành viên OPEC là Kuwait, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và
Nigeria đã quyết định tăng sản lượng khai thác trong tháng 4/2011.
Kuwait và UAE sẽ cùng tăng sản lượng khoảng 100.000-150.000 thùng/ngày trong vài tuần
tới. Nigeria dự kiến tăng thêm 150.000-200.000 thùng/ngày trong tháng 4/2011 - khi các
Trang 7
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
mỏ dầu Qua Iboe và Bonga trở lại hoạt động sau thời gian bảo trì. Đây đều là các mỏ dầu
sản xuất loại dầu lửa chất lượng cao.
Động thái khai thác thêm dầu của OPEC đã phản ánh nỗi lo ngại của tổ chức này về tình
hình xấu đi của kinh tế toàn cầu. Giá dầu thô liên tục tăng vọt dưới tác động của cuộc
khủng hoảng tại Libya đang đe dọa kéo lùi tốc độ tăng GDP của thế giới.Trong khi đó, một
số nước như Iran và Algeria lại phản đối việc tăng sản lượng và cho rằng, thị trường không
hề thiếu dầu. Nhìn chung những diễn biến phức tạp này đã gây ra những ảnh hưởng và biến
động trong giá cả xăng dầu nhất định trên toàn thế giới.

2. Tác động của tăng giá xăng dầu ở Việt Nam
Vì giá xăng dầu thị trường thế giới sẽ tiếp tục dao động ở mức cao trong thời gian tới nên ở
Việt Nam giá xăng dầu cũng đã có điều chỉnh giá. Dưới đây, chúng tôi xin đề cập đến của
nguồn cung xăng dầu, cũng như những tác động của việc tăng giá cả xăng dầu ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất và tiêu dùng nền kinh tế
2.1 Nguồn cung:
Để có thị trường xăng dầu, không cách nào khác là phải đẩy mạnh tính cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp. Trước hết, cần thực hiện càng sớm càng tốt thị trường hóa việc cung cấp
xăng dầu.
Hiện nay, đã có hơn 10 doanh nghiệp cung cấp nhưng vẫn thuộc thành phần kinh tế Nhà
nước. Cần cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác có đủ điều kiện
được tham gia vào lĩnh vực phân phối này, bao gồm cả thị trường bán buôn, bán lẻ.

Đối với các doanh nghiệp, Nhà nước phải yêu cầu công khai đấu thầu giá mua, giá bán theo
đúng quy định pháp luật của hoạt động đấu thầu. Đặc biệt, phải kiểm soát giá mua gốc
không bị làm giá, bảo đảm giá trung bình thấp của thế giới, có tính cạnh tranh và không
phương hại đến lợi ích của người dân. Do áp lực của dư luận, các doanh nghiệp đã thực
hiện công bố giá cơ sở trên các trang web nhưng cần kiểm tra về tính chính xác của các
Trang 8
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
thông tin này. Ví dụ, có thời điểm, các doanh nghiệp liên tục kêu lỗ với mức khác nhau
nhưng thông tin này không có ai kiểm chứng.
Hiện nay, Nhà nước vẫn ấn định mức lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp. Khi thị
trường thực sự có cạnh tranh, giá bán lẻ sẽ do doanh nghiệp tự quy định. Đó mới là giá thị
trường thực sự.
Một yếu tố rất quan trọng khác, cơ quan quản lý phải đưa ra tiêu thức về chất lượng đối với
dịch vụ cung cấp xăng dầu theo tiêu chuẩn doanh nghiệp tự công bố. Đó là cung cấp các
loại xăng đúng thành phần, đong đếm đủ số lượng. Những hiện tượng gian lận trong bán lẻ
xăng dầu gần đây khá phổ biến nhưng không có biện pháp giải quyết triệt để, như thế cũng
là một hình thức tăng giá bán bất hợp lý, không bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng.

Nhiều chuyên gia kinh tế đều có chung nhận định: Sai lầm lớn của cơ quan quản lý trong
cơ chế điều hành giá xăng dầu là không cổ phần hóa (CPH) Petrolimex, để doanh nghiệp
này chiếm lĩnh đến 60% thị phần. Mặc dù vấn đề CPH Petrolimex, giảm phần vốn nắm giữ
của Nhà nước tại doanh nghiệp này cũng đã được đặt ra. Tuy nhiên, mục tiêu này chưa
thực hiện vì nhiều nguyên nhân, trong đó có lý do rất quan trọng là bảo đảm an ninh năng
lượng quốc gia.
Kể từ khi đặt viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng thị trường xăng dầu năm 1989 - với
một đầu mối duy nhất thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu xăng dầu cho nhu cầu nội địa - đến
nay đã có thêm hàng chục đầu mối tham gia nhập khẩu xăng dầu, nhưng Tổng Công ty
Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) hiện vẫn chiếm tới gần 60% thị phần xăng dầu cả nước.
Một trong những nguyên nhân chính là bởi cơ chế quản lý, điều hành của nhà nước.
Trên cơ sở cân đối tổng nhu cầu xăng dầu trong nước, Bộ công thương thì định hướng tối
thiểu cho các DN đầu mối - mỗi DN là nhập như thế nào. Nếu chúng ta không quy định tối
thiểu thì dễ dẫn đến trường hợp là khi giá giảm thì DN đổ xô đi nhập và đi kinh doanh và
khi giá cao thì có thể trần trừ có thể không làm - thì toàn bộ cái an ninh năng lượng của đất
nước là sẽ bị đe dọa
Với việc Petrolimex vẫn chiếm khoảng 60% thị phần như hiện nay thì về nguyên tắc thì
Việt Nam chưa thật sự có một thị trường xăng dầu cạnh tranh một cách bình đẳng. Và một
khi Petrolimex là một doanh nghiệp lớn của nhà nước, chiếm giữ tới 60% thị phần xăng
Trang 9
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
dầu cả nước thì đương nhiên cũng chi phối luôn giá cả thị trường này. Còn 10 doanh
nghiệp đầu mối khác, cũng vẫn là các doanh nghiệp nhà nước. Trên nguyên tắc, với thị
phần ít hơn, sức ép đảm bảo nguồn cung cũng ít hơn… thì cho dù quyền lợi có được hưởng
nhiều hơn cũng không thể đưa giá xuống thấp hơn.
Petrolimex đã áp dụng nguyên tắc “một giá” trong suốt một năm qua, kể từ khi xóa bỏ bù
lỗ hoàn toàn mặt hàng xăng, dầu.
Việc vận hành kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường, đồng nghĩa với việc phải có
cạnh tranh cả về giá bán của các đơn vị đầu mối nhập khẩu xăng dầu, để tạo ra một thị
trường có nhiều giá bán. Tuy nhiên, mỗi lần điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu, các doanh

nghiệp lại có chung một mức điều chỉnh và thời gian thì cũng… gần như trùng thời điểm.
Điều này khẳng định thị trường xăng dầu nước ta đang bị độc quyền về giá.
Nhưng còn một nguyên tắc nữa, quan trọng, mang tính quyết định, đó chính là bởi họ
không được quyền định giá, dù giá bán đó thực sự cạnh tranh, thấp hơn so với các doanh
nghiệp đầu mối nhập khẩu khác! Và tất yếu dẫn đến một hệ quả là không thể có sự cạnh
tranh lành mạnh thực chất khi thị trường chỉ có một giá! Cuối cùng, người tiêu dùng phải
chịu thiệt thòi từ hệ quả này.
2.2 Tác động của việc tăng giá xăng dầu đến các hoạt động của nền kinh tế.
Như đã đề cập ở trên thì xăng, dầu là mặt hàng có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế
quốc dân. Giá cả của nó ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Vì thế, trong suốt nhiều
năm qua, nhà nước đã can thiệp trực tiếp vào quá trình hình thành giá mặt hàng này ở thị
trường nội địa. Tuy nhiên, lộ trình thị trường hóa mặt hàng xăng, dầu cũng đã được tính
đến từ năm 2003.
Bằng chứng là việc Chính phủ đã ban hành Quyết định 187 (ngày 15/9/2003) về quy chế
quản lý kinh doanh xăng, dầu, cho phép doanh nghiệp (DN) được điều chỉnh giá bán trong
phạm vi 5% đối với dầu, 10% đối với xăng - trong khung giá định hướng do nhà nước xác
định. Sau đó, Nghị định số 55 của Chính phủ quy định về kinh doanh xăng dầu và điều
kiện kinh doanh xăng dầu tại thị trường Việt Nam được ban hành (ngày 06/4/2007) - thay
thế QĐ 187 - đã quyết định đưa mặt hàng xăng theo giá thị trường và kể từ ngày 16/9/2008
Trang 10
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
là chấm dứt bù lỗ tất cả các mặt hàng dầu - để vận hành kinh doanh xăng, dầu theo cơ chế
giá thị trường theo Quyết định 79 về Cơ chế quản lý điều hành giá xăng dầu.
Theo đó, các doanh nghiệp đầu mối được căn cứ vào giá nhập khẩu, thuế, phí, lợi nhuận để
tính toán mức giá cụ thể đến tay người tiêu dùng. Và, kể từ đây, diễn biến giá xăng dầu
trong nước sẽ tuân theo diễn biến chung của thế giới, chấm dứt bù lỗ. Việc can thiệp của
Nhà nước sẽ hạn chế trong một số trường hợp cụ thể, cấp bách.
Thế nhưng cho đến nay các doanh nghiệp vẫn không có thực quyền về xác định giá bán
như các văn bản đã quy định.
Tăng giá xăng dầu sẽ kéo theo tăng CPI và lạm phát là hoàn toàn logic vì xăng dầu là đầu

vào cho tuyệt đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh cũng như tiêu dùng của các hộ gia
đình. Tuy vậy, việc tính toán định lượng tác động của tăng giá xăng dầu tới CPI và lạm
phát rất phức tạp, chưa cho ra những kết quả thật sự thuyết phục và chính xác trong thực tế.
Đơn cử như trường hợp năm 2008. Khi giá dầu lập kỷ lục và giá xăng cũng điều chỉnh tăng
kỷ lục 4 500 VND/ lít đã tạo ra “cú sốc” cho thị trường và theo suy luận thì CPI sẽ tăng
mạnh do cả lạm phát chi phí đẩy và lạm phát do tâm lý. Nhưng thực tế thì CPI tháng 8 chỉ
tăng 1,56 % - cao hơn mức 1,13% của tháng 7 song lại thấp hơn mức tăng 2,14% của tháng
6/2008 khi giá xăng A92 vẫn đang được giữ ở mức 14 500 VND/lít.
Kể từ tháng 9/2008, khi giá xăng được điều chỉnh xuống 17.000 VND/lít thì CPI chỉ tăng
0,18%, sau đó 3 tháng liên tiếp CPI âm đi đôi với 8 lần liên tiếp giảm giá xăng dầu theo xu
thế giảm chung của thế giới. Như vậy có thể thấy dường như các doanh nghiệp thậm chí
còn giảm giá thành hàng hóa trước khi giá xăng dầu có tín hiệu giảm rõ ràng.
Rõ ràng tác động của việc tăng giảm giá xăng dầu tới tăng giảm CPI và lạm phát còn cần
phải được đánh giá kỹ hơn trên
cơ sở lý thuyết cũng như thực tiễn ở
Việt Nam.
Trang 11
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Dĩ nhiên, chúng ta cũng không thể bỏ qua tác động phối kết hợp của các chính sách kinh tế
vĩ mô khác, đặc biệt là tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa.
Năm 2011, nếu tính tổng hợp cả việc tăng giá điện và xăng dầu thì ảnh hưởng trực tiếp về
giá sản xuất tăng khoảng 1,14%, CPI khoảng 1,2% và ảnh hưởng lan tỏa cho chu kỳ sản
xuất sau là 3,1% và chỉ số CPI là 3,3%.
Tác động trực tiếp của điều chỉnh giá :
Kể từ ngày 24-2-2011 các mặt hàng xăng, dầu diesel, dầu ma-zút đều được điều chỉnh tăng
mạnh nhất từ trước đến nay. Giá bán lẻ các loại xăng tăng 2.900 đồng/lít; diesel tăng 3.550
đồng/lít, dầu hỏa tăng 3.100 đồng/lít; dầu ma-zút tăng 2.110 đồng/lít. Do tỷ trọng sử dụng
xăng trong các ngành khá cao nên ảnh hưởng trực tiếp làm tăng giá sản xuất khoảng 0,88%
và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng khoảng 0,9%.
Khi các ngành sử dụng các sản phẩm đã tăng giá làm chi phí đầu vào thì ảnh hưởng về giá

của chu kỳ sản xuất tiếp theo về giá sản xuất bình quân cho cả nền kinh tế vào khoảng
2,59% và ảnh hưởng đến CPI vào khoảng 2,7%. Ngành kinh tế bị ảnh hưởng nhiều nhất là
vận tải đường bộ (8%), vận tải đường thủy khoảng 7%, vận tải hàng không 6,5%; các
ngành đánh bắt thủy hải sản và các ngành khai thác cũng bị ảnh hưởng lớn, khoảng 6-7%.
Trang 12
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Nếu tính tổng hợp cả việc tăng giá điện 15,28% từ ngày 1-3 thì ảnh hưởng trực tiếp về giá
sản xuất tăng khoảng 1,14%, CPI khoảng 1,2% và ảnh hưởng lan tỏa cho chu kỳ sản xuất
sau là 3,1% và chỉ số giá CPI sẽ vào khoảng 3,3%.
Biên độ tăng giá xăng dầu lần gần đây nhất là quá lớn, lên đến 20% so với mức giá cũ. Giá
xăng A92 tăng từ 16.400 đồng lên 19.300 đồng. Mức tăng giá 20% này sẽ có những tác
động ra sao đến xã hội Việt Nam trong giai đoạn ngắn hạn và dài hạn. Mức tăng giá lớn lần
này khiến các doanh nghiệp và người dân không có thời gian chuẩn bị và điều chỉnh lại
hành vi sử dụng xăng dầu, do vậy sẽ ảnh hưởng bất lợi đến kế hoạch sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và đời sống người dân.
Còn ở góc độ xăng dầu ảnh hưởng đến chi tiêu các hộ gia đình, thì phân tích này cho biết,
xăng dầu chiếm khoảng gần 2.5% chi tiêu của các hộ gia đình. Như vậy, khi xăng dầu tăng
giá 20%, đồng nghĩa, ngân sách chi tiêu thực của người dân nói chung giảm đi khoảng
0.5%. Nói một cách nôm na, với mức tăng xăng dầu lần này, mọi người dân Việt Nam thấy
nghèo đi khoảng 0.5%.
Trang 13
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Trang 14
Xăng dầu
Tiêu dùng cuối cùng
(nhiên liệu cho đi lại,
đun nấu,v.v )
Tiêu dùng trung gian
(nhiên liệu đầu vào
cho quá trình sản xuất,

chế biến,v.v )
Giảm sức ép lên
ngân sách do cắt
giảm trợ giá
Giảm méo mó trong nền kinh
tế, giúp ổn định vĩ mô trong
dài hạn
Sức ép tăng lương
Tăng giá các mặt
hàng khác (ảnh
hưởng gián tiếp,
dây chuyền)
Giảm sức ép thâm
hụt ngân sách, giảm
mức vay nợ hoặc thu
thuế trong tương lai
Tái cấu trúc lại nền kinh tế, dịch
chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các
ngành, ảnh hưởng đến đời sống
các nhóm dân cư, v.v
Tăng mức giá
chung (ảnh
hưởng)
NHẬP KHẨU
Lược tả các chuỗi ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Đã có nhiều tranh luận về ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu lần này tới mức tăng giá
chung, cũng như những ảnh hưởng có thể khác tới nền kinh tế. Việc thực hiện ước lượng
cụ thể ảnh hưởng của động thái chính sách này là một nỗ lực cần thiết.
Nhìn chung, ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu hàm chứa yếu tố tiêu cực dễ thấy trong

ngắn hạn như xáo trộn tâm lý, tăng giá và sức ép tăng giá, suy giảm trên thị trường chứng
khoán, bất lợi trong khu vực kinh doanh. Tuy nhiên, nó cũng hàm chứa nhiều yếu tố tích
cực trong dài hạn, như giảm thất thu ngân sách từ buôn lậu xăng ở biên giới, giảm méo mó
trên thị trường do các hình thức trợ cấp nói chung, giảm sức ép thâm hụt ngân sách và do
đó là sức ép vay nợ hoặc đánh thuế của Chính phủ trong tương lai.
Trang 15
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Phần 3 . ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VÀ
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
I/. Đánh giá
Những mặt đã đạt được:
Một là, đã tạo được một hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước tham gia hoạt động nhập
khẩu, phá vỡ thế độc quyền nhập khẩu thuộc về các đơn vị đã có cơ sở vật chất kỹ thuật
được đầu tư trước và có thời gian tích luỹ khá dài, tạo ra thế đứng mới cho các doanh
nghiệp lần đầu tiên tham gia nhập khẩu và khẳng định ưu thế vượt trội của các đơn vị được
đầu tư theo một cách nhìn mới trong cơ chế thị trường.
Hai là, việc kìm giá trong một khoảng thời gian dài kể cả khi giá xăng dầu thế giới có biến
động bất thường có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định tình hình
chính trị - kinh tế xã hội trong nước.
Ba là, từng bước thiết lập một thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp qua đó hình
thành chi phí xã hội cần thiết cho hoạt động kinh doanh xăng dầu và mức lợi nhuận hợp lý.
Xu hướng này được định hình sẽ đưa xăng dầu từ các cảng đầu mối đến nơi tiêu thụ bằng
con đường ngắn nhất, loại hình phương tiện có giá cước rẻ nhất và ít qua các khâu trung
gian nhất, đem lại lợi ích chung của toàn xã hội.
Bốn là, đã thu hút được lực lượng đông đảo các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
tham gia vào khâu phân phối (hạ nguồn), đưa xăng dầu tới người tiêu dùng thông qua hệ
thống trên 10.000 cửa hàng xăng dầu trên phạm vi cả nước; trong đó có trên 8000 cửa hàng
xăng dầu thuộc của thương nhân thuộc các thành phần kinh tế (ngoài 2000 cửa hàng của
các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu) khác chiếm tỷ trọng trên 60% tổng nhu cầu xã hội

được tham gia thị trường để người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn.
Trang 16
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Những mặt còn hạn chế:
Một là, Về quản lý chỉ tiêu hạn ngạch nhập khẩu: với một chính sách quản lý chỉ tiêu nhập
khẩu thời gian qua (giao cố định, tối thiểu), nhưng chưa có chế tài xử lý đối với các doanh
nghiệp đầu mối tham gia thị trường không đều có nguy cơ dẫn đến cơn sốt xăng dầu do
thiếu nguồn. Ngược lại khi thị trường bão hoà về nguồn, Nhà nước cũng bị thiệt hại do các
doanh nghiệp buộc phải bán dưới hình thức “tháo khoán” để giải phóng vốn làm giảm
nguồn lực tích luỹ chung của từng doanh nghiệp và cũng chính là của Nhà nước và xã hội.
Hai là, Về thuế nhập khẩu (1)/ Cách tính thuế nhập khẩu xăng dầu theo tỷ lệ % trên giá
CIF, do yếu tố “động” của giá dầu thế giới nên gây tác động “kép” tới giá bán xăng dầu
trong nước, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu xăng dầu, khó
kế hoạch hoá nguồn thu; (2)/ Thu chủ yếu ở khâu nhập khẩu (tối đa 40% như hiện nay),
trong bối cảnh xuất hiện nguồn xăng dầu sản xuất trong nước và trong lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế, việc thu thuế như hiện nay còn trở nên bất cập; (3)/ Việc thu thuế nhập
khẩu theo tỷ lệ trên giá CIF làm phức tạp hoá các thủ tục hoàn thuế nhập khẩu khi xăng dầu
được tái xuất.
Ba là, Việc điều hành giá bán các mặt hàng xăng vẫn do Nhà nước quy định; hệ luỵ của
quy định đăng ký, giá bán trong nước thường không bắt kịp giá thị trường; gây bất ổn thị
trường do đầu cơ trước thông tin tăng giá; tạo ra tâm lý trông chờ, ỷ lại của người tiêu dùng
và thường có phản ứng khi có sự tăng giá.
Bốn là, Cơ chế bù giá duy trì quá lâu làm mất đi tính chủ động của doanh nghiệp, giảm
động lực tiết giảm chi phí tăng, doanh nghiệp không có tích luỹ cho đầu tư phát triển, mất
cơ hội đầu tư, giảm sức cạnh tranh; người tiêu dùng không có ý thức tiết kiệm; đánh giá
không đầy đủ hiệu quả đầu tư các công trình mà nhiên liệu chiếm tỷ trọng lớn.
Năm là, Công tác quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng dầu không rõ ràng về
thẩm quyền và trách nhiệm, thiếu sự kiểm soát dẫn đến đầu tư không đồng đều, manh mún
gây lãng phí xã hội; việc bình ổn thị trường ở những vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó
khăn

Trang 17
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Những bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn vận hành khái quát thành chính sách, xem xét sự tác động của chính sách vào
thực tiễn để hiệu chỉnh, hoàn thiện nhằm vận hành tốt hơn các cơ chế, tạo đủ hành lang
pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động, các chính sách sát thực và phù hợp với thực tiễn.
Một là, Quan điểm chia sẻ lợi ích giữa Nhà nước - Doanh nghiệp - Người tiêu dùng phải
được hiểu một cách đúng đắn mới có biện pháp xử lý đúng nhằm tác động tích cực đến
nguồn thu ngân sách, buộc các doanh nghiệp phải tiết giảm chi phí và người sử dụng cũng
phải tiết kiệm trong tiêu dùng.
Hai là, Điều hành giá tăng đột biến hoặc chia bước nhỏ tuỳ thuộc vào mục tiêu của Nhà
nước từng thời kỳ, song không nhất thiết lúc nào cũng phải đặt yếu tố ổn định lên trên hết
bởi tiếp cận thị trường chính là sự thay đổi cho phù hợp.
Ba là, Cơ chế quản lý thiếu rõ ràng, chưa minh bạch cùng với sự phối hợp tốt/chưa tốt của
các cơ quan quản lý Nhà nước có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động của doanh
nghiệp và suy cho cùng là ảnh hưởng đến sự vận hành của nền kinh tế.
Bốn là, Việt Nam là nước xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu xăng dầu. Mọi tác động của thị
trường xăng dầu thế giới đều ảnh hưởng đến thị trường trong nước, do đó khi chế định các
chính sách đều phải xét trên tổng thể mối quan hệ này.
Thực hiện chính sách ưu đãi sản xuất xăng dầu trong nước phải đi đôi với đánh giá hiệu
quả tổng thể khi bản thân đầu vào của sản xuất là dầu thô cũng không thể thoát ly thị
trường. Việc khuyến khích, ưu đãi không làm thiệt hại đến lợi ích chung của Nhà nước
hoặc “núp bóng” sản xuất trong nước để lợi dụng chính sách ưu đãi.
II/ĐINH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU VÀ GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN
Cơ hội và thách thức
Trang 18
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Cơ hội: (1)/ Thị trường được mở rộng, điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng bình
đẳng hơn giữa các doanh nghiệp (2)/ Doanh nghiệp được chủ động điều chỉnh giá bán theo

cơ chế thị trường.
Thách thức: (1)/ do sự hấp dẫn cao của thị trường, đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của các
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là các doanh nghiệp mới sẽ được thành lập của Việt
Nam, các tập đoàn nước ngoài là các hãng kinh doanh xăng dầu nổi tiếng trên thế giới khi
có cơ hội vào kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam. (2)/ Hiện nay Việt Nam đã trở thành
thành viên chính thức của WTO trong khi kinh doanh xăng dầu, chúng ta không cam kết về
việc mở cửa thị trường kinh doanh xăng dầu. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là không
mở cửa cho các hãng xăng dầu nước ngoài vào thị trường kinh doanh ở khâu hạ nguồn, mà
vấn đề chỉ còn là thời gian cụ thể.
Định hướng phát triển thị trường xăng dầu thời gian tới:
Một là, Chuyển kinh doanh xăng dầu sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
hướng tới 3 mục tiêu: (1)/ Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và phát triển kinh tế đất nước; bình
ổn thị trường xăng dầu trong mọi tình huống; (2)/ Giá bán xăng dầu thực sự được vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; (3)/ Hài hoà ba lợi ích Nhà nước ổn
định nguồn thu - Người tiêu dùng được mua với mức giá hợp lý - Doanh nghiệp kinh
doanh có tích luỹ cho đầu tư phát triển;
Hai là, Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư, tham gia thị trường từ khâu thượng
đến hạ nguồn theo đúng quy hoạch nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các
doanh nghiệp, không ngừng nâng cao chất lượng, dịch vụ, văn minh thương mại.
Ba là, bằng cơ chế chính sách tạo ra áp lực, từng bước trở thành ý thức, thói quen của
người tiêu dùng nhỏ lẻ, hộ sản xuất trong việc sử dụng tiết kiệm nguồn năng lượng hóa
thạch ngày càng cạn kiệt.
Các vấn đề cần tập trung giải quyết
Trước hết, cần tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh
nghiệp tham gia thị trường
Trang 19
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Ban hành Nghị định kinh doanh xăng dầu mới thay thế NĐ 55/CP, tạo hành lang pháp lý để
khuyến khích thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư hệ thống phân
phối theo đúng quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Về số lượng doanh nghiệp đầu mối, cần xem xét, đánh giá lại để xác định số doanh nghiệp
đầu mối hợp phù hợp, có đủ tiềm lực, làm nòng cốt và là lực lượng để Nhà nước bình ổn
định thị trường trong mọi tình huống.
Khâu phân phối bán lẻ, cần khuyến khích thương nhân tham gia phát triển hệ thống cửa
hàng theo đúng quy hoạch, phát triển đồng đều trên các vùng miền nhất là vùng sâu xa để
đem lại cho người tiêu dùng có nhiều lựa chọn dịch vụ có chất lượng tốt nhất, giá cả cạnh
tranh.
Hai là, cơ chế điều hành nguồn
Việt Nam đã có nguồn xăng dầu sản xuất trong nước và đáp ứng trên 30% nhu cầu xã hội;
nguồn xăng dầu này trước hết phải được tiêu dùng tại thị trường trong nước thông qua cơ
chế đấu giá cạnh tranh để các doanh nghiệp đầu mối tiêu thụ như xăng dầu nhập khẩu. Với
cơ chế này vừa tạo được nguồn thu tối đa cho ngân sách Nhà nước vừa bám sát giá thị
trường thế giới, không qua nhiều tầng nấc trung gian đẩy giá bán lên cao.
Trong một vài năm tới, nước ta vẫn phải nhập khẩu trên 60% nhu cầu xăng dầu cả nước,
việc phân giao hạn ngạch nhập khẩu cho các đầu mối sau khi được sắp xếp lại không nên
chia đều bình quân các sản phẩm sẽ là lãng phí xã hội nếu như doanh nghiệp nhập khẩu với
một khối lượng quá nhỏ được chia đều cho cả năm kế hoạch.
Ba là, Cơ chế điều hành giá bán xăng dầu
Từ những bài học kinh nghiện rút ra, xuất phát từ yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và
xuất phát từ tính chất nhạy cảm của mặt hàng, việc định giá bán tại thị trường trong nước
cần có sự thay đổi căn bản. Cơ chế quản lý giá bán xăng dầu cần hướng tới các mục tiêu
sau:
Trang 20
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
(1)/ Sự bình ổn giá, ngăn ngừa tác động tự phát của giá xăng dầu trên thị trường thế giới
vào hệ thống giá xăng dầu trong nước, đẩy giá bán trong nước lên quá cao hoặc giảm quá
thấp không hợp lý; khuyến khích cạnh tranh về giá;
(2)/ Nguyên tắc điều hành giá theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, có lên,
có xuống theo tín hiệu của thị trường thế giới; mức giá bán lẻ xăng của Việt Nam tương
đương với mặt bằng giá của các nước có chung đường biên giới để ngăn ngừa và hạn chế

tình trạng buôn lậu xăng dầu qua biên giới. Nhà nước chỉ can thiệp bằng các biện pháp
hành chính trong trường hợp “khẩn cấp/ đặc biệt” và được công bố công khai để người tiêu
dùng cùng chia sẻ và ủng hộ.
(3)/ Thực hiện nguyên tắc chia sẻ lợi ích và trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh nghiệp và
người tiêu dùng; doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu phải có trách nhiệm nộp đủ các khoản
thu của ngân sách Nhà nước theo luật định (theo mức thuế mà Nhà nước công bố).
Cần phải điều chỉnh giá theo nguyên tắc chung là: điều chỉnh có mức độ để xóa bao cấp
một bước về giá điện, giá xăng dầu, dần tiến tới cơ chế giá thị trường vào khoảng năm
2012; tránh đảo lộn kinh tế vĩ mô, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Thực hiện điều
chỉnh giá đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật về giá.
Trước tình hình điều hành giá xăng dầu và sử dụng các công cụ tài chính từ năm 2010 đến
nay như: Giá xăng, dầu thế giới năm 2010 tăng 28,7% so với giá bình quân của năm 2009
và đầu năm 2011 tiếp tục vận động theo xu hướng tăng, nhưng giá xăng dầu trong nước
thời gian đó được điều hành cơ bản là bình ổn thông qua việc Nhà nước 6 lần điều chỉnh
giảm thuế nhập khẩu (từ 20% xuống 0% tính thành tiền đến nay khoảng 10.089 tỷ đồng; 4
lần cho doanh nghiệp sử dụng Quỹ Bình ổn giá (viết tắt là Quỹ BOG) để bù đắp giá vốn cơ
sở tăng cao hơn so với giá bán hiện hành với số tiền đến nay khoảng: 6.396 tỷ đồng và hiện
nay số dư Quỹ BOG đã hết. Do giá xăng dầu được giữ bình ổn nên giá xăng trong nước
đang thấp hơn giá xăng của Lào khoảng 8.000 đồng/lít và của Campuchia khoảng 7.100
đồng/lít, của Trung Quốc khoảng 6.100 đồng/lít. Điều này làm cho tình trạng buôn lậu
xăng dầu qua biên giới diễn biến hết sức phức tạp.
Vì thế, nhằm tránh tình trạng này Các Bộ, Ngành, Chủ tịch các Hiệp hội ngành hàng, Uỷ
ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc TW:
Trang 21
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
+ Quán triệt chỉ đạo của Chính phủ: tăng cường công tác quản lý thị trường, có các biện
pháp cụ thể (hành chính, kinh tế), không để xảy ra hiện tượng lợi dụng việc điều chỉnh giá
điện, giá các loại dầu để tăng giá các sản phẩm một cách không hợp lý, trái pháp luật. Thực
hiện triệt để chủ trương về tiết kiệm chi phí xăng dầu trong tất cả các cơ quan hành chính,
sự nghiệp, các tổ chức đảng, đoàn thể và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh; chỉ đạo cụ

thể các doanh nghiệp có biện pháp quyết liệt cải tiến công nghệ, đổi mới quản lý, tiết kiệm,
chống lãng phí, tăng năng suất, hạ giá thành để khắc phục khó khăn do giá “đầu vào” tăng
và để góp phần kiềm chế việc tăng giá đầu ra.
+ Chủ động tăng cường công tác thông tin và thanh tra, kiểm tra giá trên địa bàn.
+ UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện tiếp nhận kinh phí hỗ trợ giá
điện cho các hộ nghèo, tổ chức hỗ trợ kịp thời cho các hộ nghèo theo đúng chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ.
Bốn là, Cơ chế điều hành thuế khâu nhập khẩu
Trong thời gian qua, nguồn cung cấp xăng dầu cho tiêu thụ trong nước được đáp ứng từ
nguồn nhập khẩu, vì vậy để thu tập trung và để tránh gian lận thương mại, nên các khoản
thu của ngân sách hiện nay chủ yếu thu ở khâu nhập khẩu qua thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt (mặt hàng xăng); các khoản thu còn lại gồm thuế VAT, phí xăng, dầu, thuế thu
nhập doanh nghiệp được thu ở khâu bán ra.
Với cách điều hành thuế nhập khẩu hiện nay đáp ứng được yêu cầu nguồn thu ngân sách
được tập trung, tận thu khi giá xăng dầu trên thị trường thế giới xuống thấp. Tuy nhiên, khi
xăng dầu tiêu thụ trong nước được đáp ứng từ 2 nguồn nhập khẩu và sản xuất trong nước,
nếu để thuế nhập khẩu cao (tối đa 40%) sẽ không khuyến khích nhà máy lọc dầu hạ thấp
chi phí vì được bảo hộ thông qua thuế nhập khẩu cao, dễ dẫn đến nguy cơ thiếu nguồn cung
do nhập khẩu không cạnh tranh được.
Cần thiết phải cải cách thuế nhập khẩu một cách căn bản, theo cam kết giảm thuế, thay thế
bằng khoản thu mới, bù đắp phần hụt thu do giảm thu thuế nhập khẩu; lượng xăng dầu
được sản xuất trong nước cần được thu tương đương với nguồn nhập khẩu để bình đẳng
giữa kinh doanh xăng dầu nhập khẩu với kinh doanh xăng dầu sản xuất trong nước. Giải
Trang 22
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
pháp thực hiện là chuyển phần lớn thuế nhập khẩu và toàn bộ thuế tiêu thụ đặc biệt sang
thu ở khâu bán ra, cụ thể:
(1) Thuế nhập khẩu: nên giữ ở tỷ lệ đủ để khuyến khích sản xuất đề nghị khung thuế nhập
khẩu mới là 0% - 5% thay cho khung hiện nay 0% - 40%, phần còn lại (sau khi trừ 5%) thu
ở khâu nhập khẩu, sẽ chuyển sang thu theo số tuyệt đối ở khâu bán ra và có thể gọi là

“Thuế sử dụng xăng dầu”;
(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt: đang áp dụng đối với mặt hàng xăng là 10% tính trên giá CIF có
thuế nhập khẩu và cũng được thu ở khâu nhập khẩu. Thời gian tới đề nghị chuyển sang thu
khâu bán ra, cũng thu theo số tuyệt đối;
(3) Phí xăng dầu không phân biệt từ nguồn sản xuất trong nước hay từ nguồn nhập khẩu,
thu 100% ở khâu bán ra như hiện nay; đối tượng kê khai và nộp phí xăng dầu là các doanh
nghiệp đầu mối vừa bảo đảm tập trung, dễ kiểm soát, tránh gian lận.
Năm là, Cơ chế Phòng ngừa rủi ro giá dầu
Nhà nước tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu cũng như các hộ
sản xuất sử dụng nhiều xăng dầu (than, điện, xi măng, sắt thép ) có điều kiện áp dụng cơ
chế “PHÒNG NGỪA RỦI RO GIÁ DẦU” thông qua phương thức mua bán xăng dầu phù
hợp với thông lệ quốc tế nhằm ổn định đầu vào của sản xuất, bình ổn thị trường trong nước
trước biến động khó lường của giá dầu thế giới.
Sáu là, Nhóm giải pháp khác
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, kiểm soát chặt
theo thẩm quyền để tránh lãng phí xã hội,giảm chi phí lưu thông, tăng hiệu quả kinh doanh
và sức cạnh tranh.
Tăng cường công tác thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý chức năng có liên quan và ban
hành các chế tài xử lý các vi phạm qui định nhằm sắp xếp, ổn định hệ thống phân phối,
lành mạnh hoá thị trường theo quy định của pháp luật hiện hành về kinh doanh xăng dầu.
Trang 23
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ
Khuyến khích các doanh nghiệp có đủ điều kiện kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
định hình kinh doanh lâu dài, văn minh thương mại, hiện đại hoá cơ sở vật chất, giảm thiểu
các yếu tố làm bất ổn thị trường và nguy cơ cháy nổ, ô nhiễm môi trường chủ động nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và xã hội.
Ngoài những vấn đề nêu trên thì cũng cần quan tâm đến giải
pháp cho thời kỳ xăng dầu tăng giá
Dự án chuyển hóa than thành nhiên liệu lỏng:
Trong thời điểm hiện nay, khi mà giá xăng dầu tăng cao ngất ngưởng và vấn đề an ninh

năng lượng đang là tâm điểm của nhiều quốc gia, thì dự án chuyển hoá than đá thành nhiên
liệu lỏng (xăng, dầu) đang gây được sự chú ý của nhiều Bộ, Ngành ở Việt Nam.

Mới đây, Bộ Công nghiệp đã tổ chức cuộc họp với sự tham gia của Văn phòng Chính phủ,
Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Trường Đại học Mỏ địa chất Hà Nội
và nhận được ý kiến đóng góp của Bộ Khoa học Công nghệ, Tập đoàn Công nghiệp Than -
Khoáng sản Việt Namvề Dự án Nhà máy chuyển hoá than thành nhiên liệu lỏng (Coal to
Liquid Fuel) của Nhóm Liên kết đứng đầu là Công ty Xuất Nhập khẩu Hà Nội
(GELEXIMCO) và do Tư vấn Quốc tế (Thang Long Consultants) trình bày.
Nhóm Liên kết đứng đầu là GELEXIMCO làm đại diện cùng với các thành viên trong và
ngoài nước, như Công ty Tài chính Dầu khí (PVFC) và tập đoàn công nghiệp SASOL
(Nam Phi) đã đề xuất dự án đầu tư xây dựng Nhà máy chuyển hoá thành nhiên liệu lỏng.
Nhà máy dự kiến có công suất quy đổi 80.000 thùng dầu/ngày (khoảng 4 triệu tấn sản
phẩm/năm), sử dụng nguyên liệu là than có chất lượng kém không thể xuất khẩu tại khu
vực Đông Bắc Việt Nam và nguồn than nhập khẩu, tổng mức đầu tư khoảng 4 tỷ USD
được huy động và thu xếp từ các nguồn vốn tổ chức tín dụng trong, ngoài nước và nhà đầu
tư trong liên doanh.
Trang 24
Vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam Nhóm 3_Lớp KTLĐ

Thực tế, công nghệ này không phải là mới mẻ. Một số nước đã đạt được kết quả nhất định
trong việc triển khai các dự án chuyển hoá than thành nhiên liệu lỏng ở quy mô khác nhau.

Ở Nam Phi, công nghệ chuyển hoá than của tập đoàn SASOL là một trong những công
nghệ nổi tiếng trên thế giới, đã được đưa vào sản xuất công nghiệp lần đầu tiên (6.000
thùng/ngày) từ năm 1955 và đã có 2 nhà máy SASOL II (xây dựng năm 1980) và SASOL
III (xây dựng năm 1982) đi vào hoạt động tại mỏ than Secunda có tổng công suất quy đổi
150.000 thùng dầu/ngày (6,5 triệu tấn/năm).
Một nước liền kề với chúng ta là Trung Quốc cũng đang đầu tư rất mạnh cho dự án này.
Hai nhà máy có công suất mỗi nhà máy 80.000 thùng/ngày đang trong giai đoạn nghiên

cứu khả thi tại 2 tỉnh Shenhua và Ninixia, Trung Quốc với tổng mức đầu tư trên 6 tỷ USD.

Theo ông Nguyễn Xuân Nguyên, đại diện của Nhóm liên kết, công nghệ này đã được triển
khai rất lâu tại Nam Phi, tuy nhiên điểm hoà vốn của dự án là khoảng 30 USD/thùng dầu,
nên trước đây không được quan tâm do giá dầu vào thời điểm đó còn khá thấp. Tuy nhiên,
với mức giá dầu cao ngất ngưởng hiện nay (khoảng 70 USD/thùng) thì công nghệ này thực
sự là một giải pháp tốt cho vấn đề an ninh năng lượng tại Việt Nam cũng như một số quốc
gia khác.
Xác định đây là hướng đi mới trên thế giới và có căn cứ, cần được quan tâm nghiên cứu và
xem xét một cách nghiêm túc ở điều kiện Việt Nam, nên ngày 13/7/2005, Thủ tướng Chính
phủ đã đồng ý về nguyên tắc cho phép GELEXIMCO cùng với các đối tác trong và ngoài
nước lập Báo cáo đầu tư xây dựng Nhà máy chuyển hoá than thành nhiên liệu lỏng - khí
hoá lỏng.

Mới đây, đoàn Tư vấn quốc tế (Thang Long Consultants) đại diện cho Nhóm Liên kết đã
sang Cộng hoà Nam Phi làm việc và thống nhất về việc hợp tác với tập đoàn SASOL
Synfuels International có trụ sở tại Johannesburg – trong Dự án Nhà máy chuyển hoá than
thành nhiên liệu lỏng ở Việt Nam.
Trang 25

×