Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.13 KB, 18 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
Nhượng quyền thương mại là loại hình kinh doanh mới du nhập vào Việt Nam từ những
năm 90 của thế kỷ trước và cũng chỉ trong những năm gần đây nhượng quyền thương mại
mới được bàn đến nhiều trên các trang báo và trong các nghiên cứu của giới kinh doanh
cũng như của giới luật gia nước ta. Trong đánh giá chung thì nhượng quyền thương mại
được coi là hình thức đầu tư và kinh doanh của tương lai tại Việt Nam bởi những lợi thế
của nó như tiết kiệm chi phí nhập cuộc cho những bên nhận quyền, dễ dàng nhân rộng và
mở rộng hệ thống phân phối cho bên nhượng quyền…
Nhượng quyền thương mại (Franchising) là một phương thức phân phối hàng hóa và dịch
vụ mà trong đó, người có quyền, với một khoản thù lao, cho phép người nhận quyền độc
lập tiến hành kinh doanh bằng cách sử dụng các dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, cũng như
phương pháp, bí quyết kinh doanh của người có quyền, và dưới sự hướng dẫn, trợ giúp và
kiểm soát chất lượng của người đó. Trong hoạt động nhượng quyền này, người có quyền
có thể trong cùng một thời gian cho phép nhiều chủ thể khác nhau cùng sử dụng "quyền
kinh doanh" của mình. Bằng cách đó, người có quyền có thể xây dựng được một mạng
lưới, hệ thống phân phối hàng hoá, và nhờ đó, tối đa hoá được lợi nhuận.
Điều 284 Luật Thương mại Việt Nam định nghĩa: “Nhượng quyền thương mại là hoạt
động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự
mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: (i)
Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh
doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương
mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của
bên nhượng quyền; (ii) Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
Như vậy, Định nghĩa của Luật Thương mại đã nhấn mạnh tới vai trò của bên nhận quyền
và theo đó bên nhận quyền là bên có nghĩa vụ phải tuân thủ những yêu cầu của bên
nhượng quyền. Nếu xét ở góc độ đó thì trong định nghĩa này đã không đề cập tới nghĩa
vụ trả thù lao cho bên nhượng quyền cũng như nghĩa vụ chi trả các chi phí của hoạt động
nhượng quyền của bên nhận quyền.
MÂU THUẪN GIỮA CÁC BÊN TRONG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
Mâu thuẫn giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền về giới hạn kiểm soát luôn tồn tại


và thường là không thể tránh khỏi bởi do tính đặc thù của loại hình kinh doanh này. Bên
nhận quyền độc lập kinh doanh, tự mình quản lý cơ sở kinh doanh, tuy phải tuân theo
những tiêu chuẩn của bên nhượng quyền song đối với bên nhận quyền cơ sở đó vẫn là tài
sản của anh ta, đối với bên nhượng quyền cơ sở kinh doanh nhượng quyền là một phần
trong hệ thống nhượng quyền thương mại cho dù bên nhận quyền chưa chắc đã là như
vậy, nói cách khác bên nhận quyền và cơ sở kinh doanh nhượng quyền do bên nhận
quyền điều hành không hẳn đồng nhất nhau trong mối quan hệ với bên nhượng quyền.
Chính bởi vậy bên nhượng quyền sẽ tìm cách kiểm soát càng nhiều càng tốt với công việc
kinh doanh của cơ sở kinh doanh nhượng quyền, trong khi đó bên nhận quyền lại mong
muốn hạn chế thậm chí là trốn tránh khỏi sự kiểm soát để có thể có nhiều sự độc lập hơn
trong công việc kinh doanh và tạo ra bản sắc riêng cho mình.
Nếu sự kiểm soát càng chặt chẽ thì nó trở thành gánh nặng cho bên nhận quyền và kết
quả là bên nhận quyền lại càng muốn tránh được càng nhiều càng tốt. Kể cả với một bên
nhận quyền thiếu kinh nghiệm lúc ban đầu thì khi đã vững vàng hơn không ít người cũng
cảm thấy những sự kiểm soát, ban đầu là cần thiết, nay trở thành những rào cản cho việc
phát triển các cơ hội kinh doanh của anh ta. Mâu thuẫn phát sinh có thể dẫn tới những
thiệt hại cho công việc kinh doanh của cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền, đó là
một điều không mong muốn từ các bên song họ lại không nhận thức được.
Để giải quyết mâu thuẫn này, hay nói đúng hơn là ngăn chặn mâu thuẫn xảy ra, pháp luật
về nhượng quyền thương mại ở các nước có phát triển loại hình kinh doanh này thường
quy định bên nhượng quyền phải cung cấp cho bên nhận quyền bản sao hợp đồng nhượng
quyền và bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại của mình cho bên nhận quyền
trong một thời hạn nhất định trước khi hai bên ký kết hợp đồng nhượng quyền.Trong thời
hạn đó bên nhận quyền được khuyên nên đọc kỹ các văn bản được cung cấp, xin ý kiến
các luật sư chuyên về lĩnh vực nhượng quyền thương mại và có những tính toán cần thiết
và đầy đủ về các vấn đề trong hợp đồng, trong đó có vấn đề họ có thể chấp nhận được sự
kiểm soát được áp dụng cho mình hay không. Việc được cung cấp trước và nghiên cứu
trước các điều khoản về hợp đồng nhượng quyền có ý nghĩa quan trọng với bên nhận
quyền tiềm năng trong việc ra quyết định có đầu tư vào việc kinh doanh nhượng quyền
này hay không. Bởi vậy luật pháp cũng quy định buộc bên nhượng quyền phải cung cấp

chính xác và đầy đủ hợp đồng nhượng quyền và các thông tin về bên nhượng quyền, sự
vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin này sẽ dẫn tới trách nhiệm pháp lý cho bên nhượng
quyền làm sai nếu bên nhận quyền khởi kiện và bên nhượng quyền không chứng minh
được việc thực hiện đúng nghĩa vụ công bố thông tin.
Lời khuyên cuối cùng cho nhà đầu tư muốn khởi nghiệp bằng hình thức kinh doanh
nhượng quyền là nên tích luỹ càng nhiều kiến thức càng tốt về lĩnh vực nhượng quyền
thương mại và không nên ký kết hợp đồng nhượng quyền khi chưa có sự nghiên cứu kỹ
các tài liệu được cung cấp và nên tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm.
Còn đối với bên nhượng quyền nên thiết lập cơ chế kiểm soát cần thiết và vừa đủ hoặc
không quá khắc nghiệt nếu không kết quả thu được có thể trái với mong muốn thực sự
của họ.
NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CÁC NHÀ NHƯỢNG QUYỀN DO SỰ THIẾU HOÀN
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
Nếu nhìn qua một mục của Luật Thương mại [Mục 8, Chương VI, 1], một nghị định và
một thông tư về hoạt động nhượng quyền thương mại của Việt Nam thì ta thấy dường
như các nhà xây dựng luật Việt Nam vẫn chưa có quan tâm đúng mức với hoạt động kinh
doanh này.
Pháp luật về nhượng quyền thương mại hiện nay của Việt Nam chủ yếu quy định vấn đề
đăng ký, quản lý nhà nước với hoạt động này mà thiếu những hướng dẫn cần thiết cho
các nhà nhượng quyền cũng như các bên nhận quyền trong hoạt động nhượng quyền
thương mại, chưa quy định những vấn đề như bên nhượng quyền có thể thiết lập sự kiểm
soát đến mức nào, có giới hạn cho vấn đề này hay không, trách nhiệm pháp lý của bên
nhận quyền khi vi phạm vào các tiêu chuẩn và có hành vi xâm hại các quyền sở hữu trí
tuệ của bên nhượng quyền, vấn đề chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng nhượng quyền do lỗi của
một bên. Với những thiếu sót như vậy các nhà nhượng quyền Việt Nam đang phải tự
mình tích luỹ kinh nghiệm từ những thành công cũng như thất bại từ thực tiễn hoạt động
nhượng quyền thương mại để xây dựng hệ thống nhượng quyền của mình và vẫn trông
chờ vào sự thay đổi và hoàn thiện của các quy định pháp luật về vấn đề này.
Mặt khác, chúng ta chưa có nền tảng pháp lý để giải quyết những tranh chấp có thể xảy ra
giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền và với bên thứ ba có liên quan tới hoạt động

kiểm soát đã trình bày ở trên. Ví dụ, khi một bên nhận quyền trốn tránh khỏi nghĩa vụ bị
kiểm soát bởi bên nhượng quyền thì bên nhượng quyền có thể đơn phương huỷ bỏ hợp
đồng với bên nhận vi phạm nếu không may bên nhượng không thiết lập vấn đề này trong
hợp đồng nhượng quyền?; hay khách hàng có thể kiện đòi bồi thường từ một bên nhượng
quyền với các thiệt hại xảy ra do các khiếm khuyết của hàng hóa cung cấp bởi bên nhận
quyền và bên nhượng quyền có thể thoả thuận trong hợp đồng nhượng quyền về việc
tránh khỏi trách nhiệm đó hay không?…
Trong thực tế hoạt động nhượng quyền phần nhiều các nhà làm luật chỉ chú trọng đến
việc bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ dùng trong kinh doanh, dù các quy định trong vấn đề
này cũng chưa hoàn toàn rõ ràng, mà quên đi hoạt động kiểm soát của bên nhượng quyền
và các vấn đề đi kèm với nó, trong khi đó bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động
nhượng quyền luôn gắn liền với hoạt động kiểm soát này. Bởi vậy sẽ là một trở ngại để
giải quyết những tranh chấp phát sinh từ hoạt động nhượng quyền thương mại có liên
quan tới việc thiết lập và thực thi cơ chế kiểm soát của bên nhượng quyền với công việc
kinh doanh của bên nhận quyền.
Trong thời gian gần đây, các nhà nhượng quyền thương mại nước ngoài đang bành
trướng hệ thống và thương hiệu của nình tại thị trường Việt Nam, từ các đại gia trong lĩnh
vực dịch vụ ăn uống như KFC, Lotteria, Gloria Jean Café (Coffee Bean & Tea Leaf,
Bread Talk, Pizza Hut, Luis Vuitton, Gucci)… cho đến các nhà nhượng quyền trong lĩnh
vực bất động sản quốc tế như Sotheby’s International Realty Affiliates, Inc. (hay
Coldwell Banker Real Estate Corporation), nhiều chuyên gia kinh tế cũng đã dự báo một
xu thế nhượng quyền thương mại mạnh mẽ trong tương lai của các nhà nhượng quyền
quốc tế và Việt Nam trong mọi lĩnh vực, kể cả tài chính kế toán. Khó khăn chung cho các
nhà nhượng quyền Việt Nam sẽ là sự thiếu kinh nghiệm hơn so với các nhà nhượng
quyền nước ngoài và như vậy họ cũng sẽ gặp khó khăn khi cạnh tranh với các nhà
nhượng quyền nước ngoài do thua kém về chất lượng hàng hoá dịch vụ và khả năng kiểm
soát với hệ thống nhượng quyền và các bên nhận quyền. Nguyên nhân một phần do pháp
luật về nhượng quyền thương mại của chúng ta còn thiếu quá nhiều những quy định cần
thiết để tạo điều kiện cho các nhà nhượng quyền trong nước nhượng quyền thành công
và bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ dùng trong kinh doanh và giúp họ tiếp cận gần hơn với

hoạt động nhượng quyền quốc tế.
KẾT LUẬN
Với những dự đoán khả quan về sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại
trong tương lai, chúng ta cần có những nhận thức đầy đủ về nó, đặc biệt trong vấn đề
kiểm soát của bên nhượng quyền đối với công việc kinh doanh của bên nhận quyền.
Trong hệ thống nhượng quyền thương mại, hoạt động của bên nhận quyền có ảnh hưởng
lớn tới thương hiệu chung mà hai bên, bên nhận quyền và bên nhượng quyền đang cùng
sử dụng. Chính bởi vậy bất cứ nhà nhượng quyền nào cũng cần có đánh giá đúng mức và
có kế hoạch kiểm soát hợp lý với các bên nhận quyền trong hệ thống nhượng quyền. Một
sự kiểm soát tốt có thể tạo nên cấu trúc bền vững giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền trong mạng lưới nhượng quyền thương mại và giữa mạng lưới nhượng quyền đó
với khách hàng và các bên thứ ba khác.
Để thiết lập một cơ chế kiểm soát hợp lý bên nhượng quyền cần thực hiện nhiều bước và
các bước đó có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong một tổng thể chung của hoạt động
kiểm soát của bên nhượng quyền, từ lúc thu thập thông tin ban đầu cho đến lúc hết hiệu
lực của hợp đồng. Tuỳ thuộc vào hệ thống nhượng quyền và tính chất của thương hiệu
bên nhượng quyền có thể thiết lập những sự kiểm soát khác nhau với hoạt động kinh
doanh của các bên nhận quyền, song sự kiểm soát đó phải dựa trên những ý kiến chuyên
môn, trên những phân tích khoa học và những tính toán khả thi về năng lực của bên nhận
quyền tương lai và của cả bên nhượng quyền. Thiết lập và thực thi được một sự kiểm soát
hiệu quả đem lại nhiều lợi ích cho bên nhượng quyền và bên nhận quyền, hạn chế được
những tranh chấp và thiệt hại không đáng có cho cả hai bên. Để được như vậy thì bên
nhượng quyền cũng cần cẩn trọng trong việc thiết lập các điều khoản về kiểm soát trong
hợp đồng nhượng quyền.
Một môi trường kinh doanh tốt cần có một nền tảng pháp luật vững vàng và minh bạch,
yêu cầu này đúng với cả hoạt động nhượng quyền thương mại. Các nhà làm luật cần hoàn
thiện các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại nói chung và vấn đề kiểm soát
của bên nhượng quyền nói riêng. Những thiếu sót của pháp luật về kiểm soát trong
nhượng quyền cần được bổ sung căn cứ trên những nghiên cứu thực tiễn và khoa học về
nhượng quyền thương mại.

Để hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đúng
hướng cần thực hiện tốt các yêu cầu đã nêu để lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm soát
của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền phù hợp với nhau, pháp luật về hoạt động
kiểm soát có tính khả thi và hỗ trợ được cho hoạt động nhượng quyền.
Luật sư Nguyễn Thị Thu
Hiền
Một số khái niệm nhượng quyền thương mại trên thế giới
Như chúng ta đã biết, nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh đã được nhiều nước trên thế
giới áp dụng. Đã có nhiều khái niệm được nêu ra của nhiều trường phái khác nhau nhằm giải thích, hướng
dẫn các doanh nghiệp thực hiện họat động kinh doanh nhượng quyền đạt hiệu quả. Tuy nhiên, do sự khác
biệt về quan điểm và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia, nên các khái niệm này thường
khác nhau.
Các khái niệm dưới đây được chọn lọc dựa trên sự khác nhau trong việc quản lý điều chỉnh các hoạt động
nhượng quyền thương mại của một số nước tiêu biểu, có thể phân chia các nước trên thế giới thành bốn
nhóm nước như sau:
(i) Nhóm các nước với hệ thống pháp luật bắt buộc (hoặc khuyến khích sự tự nguyện) công khai
chi tiết nội dung của thoả thuận nhượng quyền thương mại.
(ii) Nhóm các nước với hệ thống pháp luật khuyến khích sự tự nguyện, công bố chi tiết nội dung
của thoả thuận nhượng quyền thương mại.
(iii) Nhóm các nước có luật cụ thể, điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại.
(iv) Nhóm các nước điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại theo luật về chuyển giao công
nghệ.
Dựa trên 4 nhóm nước này, ta có một số khái niệm nhượng quyền tiêu biểu sau đây:
* Khái niệm nhượng quyền của Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International Franchise
Association):
* Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh Quốc tế (The International Franchise Association) là hiệp hội lớn nhất
nước Mỹ và thế giới đã nêu ra Khái niệm nhượng quyền thương mại như sau:
"Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên giao và Bên nhận quyền, theo đó Bên
giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như:
bí quyết kinh doanh (know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương

thức, phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến hành
đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình".
* Khái niệm của Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (the US Federal Trade Commission - FTC): Khái
niệm một hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng theo đó Bên giao:
(i) hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phương pháp
điều hành doanh nghiệp của Bên nhận.
(ii) li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của Bên
giao và
(iii) yêu cầu Bên nhận thanh toán cho Bên giao một khoản phí tối thiểu.
* Khái niệm nhượng quyền thương mại của Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên minh Châu Âu EU):
Khái niệm quyền thương mại là một "tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan
tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác
giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng
cuối cùng". Nhượng quyền thương mại có nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được Khái niệm
ở trên.
* Khái niệm nhượng quyền thương mại của Mêhicô:
Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ 6/1991 quy định:
"Nhượng quyền thương mại tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng một thương hiệu nhất định, có sự
chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm,
hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thương
mại, hoặc hành chính đã được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng
(prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó."
* Khái niệm nhượng quyền thương mại của Nga:
Chương 54, Bộ luật dân sự Nga Khái niệm bản chất pháp lý của "sự nhượng quyền thương mại" như sau:
"Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng)
với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động
kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với
dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối
với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn hiệu dịch vụ, "
Tất cả các Khái niệm về nhượng quyền thương mại trên đây đều dựa trên quan điểm cụ thể của các nhà

làm luật tại mỗi nước. Tuy nhiên, có thể thấy rằng các điểm chung trong tất cả những Khái niệm này là việc
một Bên độc lập (Bên nhận) phân phối (marketing) sản phẩm, hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa, các
đối tượng khác của các quyền sở hữu trí tuệ, và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một Bên khác (Bên giao)
phát triển và sở hữu; để được phép làm việc này, Bên nhận phải trả những phí và chấp nhận một số hạn
chế do Bên giao quy định.
Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Như đã trình bày ở trên, các quốc gia trên thế giới đã hình thành và phát triển một cách hợp lý các vấn đề
pháp lý liên quan tới họat động nhượng quyền. Do vậy, những cái tên như: Kentucky, Burger Khan, Five
Star Chicken, Jollibee, Carvel, Baskin Robbins, Texas Chicken, Kentucky Fried Chicken, Hard Rock Café,
Chili's không những chỉ xuất hiện tại các nước sở tại mà còn vươn xa đến rất nhiều nước trên thế giới trở
thành những hệ thống nhượng quyền tòan cầu.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của các hệ thống nhượng quyền quốc tế, đã xuất hiện các hệ thống
nhượng quyền của Việt Nam như: Cà phê Trung nguyên, Phở 24, Qualitea, Hệ thống chuỗi Bakery Kinh
Đô đã làm cho bức tranh thị trường của Việt Nam càng trở nên hấp dẫn.
Đến nay, Luật thương mại có hiệu lực ngày 1.1.2006 tại mục 8, điều 284 đã đề cập đến khái niệm nhượng
quyền thương mại và các điều 284, 286, 287, 288, 289, 290, 291 qui định chi tiết các vấn đề liên quan đến
hoạt động nhượng quyền thương mại. Nội dung điều 284 như sau:
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên
nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên
nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc
kinh doanh.
Ngoài ra, để hướng dẫn chi tiết Luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, chính phủ ban
hành nghị định 35/2006/NĐ-CP và Bộ thương mại ban hành thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn chi tiết
đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Có thể thấy, những cơ sở pháp lý trên đây đã cung cấp một
cách khá đầy đủ khái niệm, các nguyên tắc và hướng dẫn cho việc tiến hành hoạt động nhượng quyền
thương mại tại Việt Nam.
Các loại hợp đồng nhượng quyền

Tuy theo tiêu chí xem xét, người ta có thể chia ra làm nhiều loại hợp đồng nhượng
quyền.
1. Căn cứ vào quy mô và tính phân quyền:
a) Hợp đồng nhượng quyền đơn lẻ (Single franchise contract):
Là hợp đồng nhượng quyền cơ bản mà Bên Nhượng quyền ký với Bên Nhượng
quyền, theo đó, Bên Nhận quyền được thành lập một đơn vị kinh doanh theo
phương thức nhượng quyền, và không được phép nhượng quyền lại.
b) Hợp đồng tái nhượng quyền (master franchise contract):
Là hợp đồng nhượng quyền mà Bên Nhận quyền được phép nhượng quyền lại
thêm lần nữa trong phạm vi cho phép của Bên Nhượng quyền về số lần được tái
nhượng quyền trong một khu vực, lãnh thổ nhất định. Theo hợp đồng này, Bên
Nhận quyền ban đầu sẽ trở thành Bên Nhượng quyền thứ cấp, Bên Nhượng quyền
ban đầu vẫn tiếp tục được hưởng lợi từ việc tái nhượng quyền của Bên Nhượng
quyền thứ cấp.
c) Hợp đồng nhượng quyền khu vực (area franchise contract):
Theo hợp đồng này, Bên Nhận quyền sẽ được thành lập một số đơn vị kinh doanh
trong một khu vực nhất định theo sự cho phép của Bên Nhượng quyền. Bên Nhận
quyền không được phép tái nhượng quyền.
2. Căn cứ tính chất phân phối dịch vụ, hàng hóa:
a) Hợp đồng nhượng quyền kèm phân phối:
Theo đó, Bên Nhận quyền phải kinh doanh dịch vụ, hàng hóa do chính Bên
Nhượng quyền cung cấp.
b) Hợp đồng nhượng quyền không kèm phân phối:
Theo đó, Bên Nhận quyền tự tổ chức sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo bí
quyết, công nghệ do Bên Nhượng quyền chuyển giao. Hoặc, Bên Nhận quyền phải
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được cung cấp bởi bên thứ ba do Bên Nhượng
quyền chỉ định thông qua hợp đồng nhượng quyền.
VietFranchise
1) Nguồn gốc
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của lối kinh doanh nhượng

quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17-18 tại Châu Âu. Tuy nhiên, hoạt động
nhượng quyền kinh doanh (hay nhượng quyền thương mại) được chính thức
thừa nhận khởi nguồn, phát triển là tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19, khi mà Nhà
máy Singer (sản xuất máy khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu
tiên cho đối tác của mình.
Franchise thực sự phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm 1945 (khi Thế
Chiến II kết thúc), với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng, khách sạn và
các hệ thống kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất về cơ sở
hạ tầng, thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ
thống kinh doanh theo phương thức này. Từ những năm 60, franchise trở thành
phương thức kinh doanh thịnh hành, thành công không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn ở
những nước phát triển khác như Anh, Pháp Sự lớn mạnh của những tập đoàn
xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và một số nước Châu Âu trong lĩnh vực kinh doanh
thức ăn nhanh, khách sạn-nhà hàng đã góp phần “truyền bá” và phát triển
franchise trên khắp thế giới. Ngày nay, franchise đã có mặt tại hơn 150 nước
trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng kinh doanh theo
phương thức nhượng quyền.
Nhận thấy lợi ích, hiệu quả của phương thức kinh doanh này, nhiều quốc gia đã
có các chính sách khuyến khích phát triển franchise. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên
luật hoá franchise và có các chính sách ưu đãi cho những cá nhân, doanh
nghiệp kinh doanh theo phương thức franchise. Chính phủ các nước phát triển
khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ý cũng noi gương Hoa Kỳ, ban hành các
chính sách thúc đẩy, phát triển hoạt động franchise, khuyến khích và hỗ trợ cho
doanh nghiệp trong việc bán franchise ra nước ngoài. Nhiều trung tâm học thuật,
nghiên cứu chính sách về franchise của các chính phủ, tư nhân lần lượt ra đời,
các đại học cũng có riêng chuyên ngành về franchise để đào tạo, đáp ứng nhu
cầu mới của nền kinh tế.
Riêng tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy tác động
của franchise đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là quan trọng và là xu thế
tất yếu của toàn cầu hóa, vì vậy nhiều chính sách, giải pháp phát triển kinh tế

liên quan đến franchise đã được nghiên cứu, ứng dụng và khuyến khích phát
triển. Năm 1992, Chính phủ Malaysia đã bắt đầu triển khai chính sách phát triển
hoạt động kinh doanh nhượng quyền (Franchise development program) với mục
tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức
nhượng quyền, thúc đẩy và phát triển việc bán franchise ra bên ngoài quốc gia.
Singapore, quốc gia láng giềng của Malaysia, cũng có các chính sách tương tự
nhằm thúc đẩy, phát triển hoạt động nhượng quyền trong lĩnh vực cung cấp dịch
vụ như đào tạo, y tế, du lịch, khách sạn-nhà hàng Gần đây nhất, kể từ thời
điểm năm 2000, Chính phủ Thái Lan cũng đã có các chính sách khuyến khích,
quảng bá, hỗ trợ việc nhượng quyền của các doanh nghiệp Thái Lan tại thị
trường nội địa và quốc tế.
Trung Quốc đang trở thành thị trường tiềm năng của các thương hiệu nước
ngoài như: Mc Donald's, KFC, Hard Rock Cafe, Chilli's đồng thời đây là cứ địa
đầu tiên để các tập đoàn này bán franchise ra khắp Châu Á. Thông qua đó, hoạt
động franchise của Trung Quốc trở nên ngày càng phát triển, Chính phủ Trung
Quốc đã thay đổi thái độ từ e dè chuyển sang khuyến khích, nhiều thương hiệu
đang được “đánh bóng” trên thị trường quốc tế thông qua các cuộc mua bán,
sáp nhập nhằm chuẩn bị cho kế hoạch đẩy mạnh hoạt động nhượng quyền ra
bên ngoài, được xem là một trong những động thái quan trọng để phát triển nền
kinh tế vốn đang rất nóng của Trung Quốc.
Ngày nay, nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển, hỗ trợ và
quảng bá hoạt động franchise đã được thành lập. Điển hình là Hội đồng
Franchise Thế giới (World Franchise Council), ra đời vào năm 1994, có thành
viên là các hiệp hội franchise của nhiều quốc gia. Ngoài ra, một tổ chức uy tín và
lâu đời nhất là Hiệp hội Franchise Quốc tế (International Franchise Association)
được thành lập năm 1960, có khoảng 30.000 thành viên bao gồm các doanh
nghiệp bán, mua franchise. Thông qua các tổ chức này, nhiều hoạt động có ích
cho doanh nghiệp, cho các nền kinh tế quốc gia đã được thực hiện như:
- Tổ chức các hội chợ franchise quốc tế
- Xây dựng niên giám franchise khu vực, và trên toàn thế giới

- Hợp tác xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành, các website để cung cấp thông
tin cho mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến franchise
- Tư vấn, hỗ trợ, hợp tác và phát triển phương thức kinh doanh franchise.
2) Sự phát triển Franchise tại Việt Nam
Franchise vẫn còn khá mới mẻ tại Việt Nam, được xem là manh nha xuất hiện vào giữa thập niên
90, khi mà đồng loạt xuất hiện hệ thống các quán cà phê Trung Nguyên trên khắp mọi miền đất
nước. Mặc dù, cách làm của Trung Nguyên lúc đó không hoàn toàn là franchise, nhưng cũng
phần nào thể hiện được những đặc trưng cơ bản của phương thức franchise.
Trong thời gian đó, khái niệm franchise gần như xa lạ, chưa được luật hóa. Năm 1998, lần đầu
tiên thông tư 1254/BKHCN/1998 hướng dẫn Nghị định 45/CP/1998 về chuyển giao công nghệ,
tại mục 4.1.1, có nhắc đến cụm từ “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh – tiếng Anh gọi là
franchise ”.
Tháng 02/2005, Chính phủ ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ, trong
đó có nhắc đến việc cấp phép đặc quyền kinh doanh cũng được xem là chuyển giao công nghệ,
do đó chịu sự điều chỉnh của nghị định này. Tiếp đến, tại Điều 755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005
quy định rằng hành vi cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong các đối tượng chuyển giao
công nghệ.
Kể từ năm 2006, franchise chính thức được luật hoá và công nhận. Luật Thương mại 2005 (có
hiệu lực từ 01/01/2006) đã dành nguyên Mục 8 Chương VI để quy định về hoạt động nhượng
quyền thương mại. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày
31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, đến ngày
25/5/2006 thì Bộ Thương mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt
động nhượng quyền thương mại. Đây chính là những căn cứ pháp lý cơ bản nhất, tương đối đầy
đủ để điều chỉnh và tạo điều kiện cho franchise phát triển tại Việt Nam.
Năm 2004, Hội đồng Nhượng quyền thương mại Thế giới (WFC) đã tiến hành một cuộc điều tra
với kết quả khẳng định rằng: đã tồn hơn 65 hệ thống franchise hoạt động tại Việt Nam, đa số là
các thương hiệu nước ngoài. Mặc dù còn khá ít so với các quốc gia láng giềng, nhưng với tình
thế hiện nay, khi franchise đã được luật hóa, Việt Nam chính thức bước qua cửa WTO, đã có
nhiều nhận định rằng hoạt động franchise sẽ phát triển như vũ bão.
Hiện nay, tại Việt Nam, hệ thống nhà hàng Phở 24 đang rất thành công và đảm bảo đầy đủ các

chuẩn mực, tiêu chuẩn của một hệ thống franchise đặc trưng nhất. Đây cũng là một trong những
doanh nghiệp đầu tiên bán franchise ra nước ngoài, góp phần thúc đẩy làn sóng franchise ngày
càng dâng cao tại Việt Nam.
(Hữu Hoành - VietFranchise)

Một số vướng mắc về quản lý hoạt động franchise
Với sự ra đời của Luật Thương mại 2005, Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày
31/3/2006 và Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006, nhìn chung hệ thống
văn bản pháp luật quản lý, hướng dẫn hoạt động nhượng quyền thương mại đã
được hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, khi tổ chức thực hiện, một số vướng mắc đã và sẽ phát sinh do một
số nội dung trong các văn bản pháp luật này chưa thực sự phù hợp với tình hình
phát triển hoạt động NQTM hiện nay tại Việt Nam, cũng như việc kết nối giữa
các đạo luật liên quan vẫn chưa thể liên thông do gặp phải các trở ngại mang
tính kỹ thuật lập pháp.
* Về thủ tục đăng ký hoạt động NQTM
Ở một số nước trên thế giới, quy định này cũng có thể là bắt buộc hoặc khuyến
khích tự nguyện đăng ký với mục đích để Nhà nước có thể thu thập thông tin về
hoạt động nhượng quyền để xây dựng các chính sách, cơ chế pháp lý có nội
dung khuyến khích, phát triển hoạt động nhượng quyền, đồng thời đảm bảo lợi
ích hợp pháp của người mua franchise. Tại Hoa Kỳ, trên 12 tiểu bang có luật quy
định bất kỳ doanh nghiệp nào nếu muốn tham gia vào thị trường chứng khoán
đều phải thực hiện đăng ký NQTM, điều này thể hiện chính sách bắt buộc thúc
đẩy các doanh nghiệp thực hiện hoạt động NQTM. Ở Malaysia, từ năm 1992, với
Chương trình Phát triển nhượng quyền ( Franchise Development Programme),
Chính phủ nước này đã có những chính sách hỗ trợ cụ thể cho doanh nghiệp
trong việc tư vấn pháp lý, xây dựng hệ thống nhượng quyền và quy định khá cởi
mở trong việc đăng ký (hoặc khai báo) việc nhượng quyền ra nước ngoài.
Theo Điều 291 Luật Thương mại 2005, Điều 17 và 18 Nghị định 35, bất kỳ doanh
nghiệp trước khi tiến hành hoạt động NQTM phải thực hiện thủ tục đăng ký hoạt

động NQTM tại Bộ Thương mại hoặc Sở Thương mại. Hồ sơ đăng ký hoạt động
nhượng quyền bao gồm: Đơn đề nghị đăng ký, Bản giới thiệu về NQTM do
doanh nghiệp soạn thảo theo mẫu và các văn bản khác để xác nhận tư cách
pháp lý của bên dự kiến nhượng quyền, quyền sở hữu trí tuệ đối tượng liên
quan hoạt động nhượng quyền do Bộ Thương mại quy định mục II.1 Thông tư
09. Bộ Thương mại hoặc Sở Thương mại là cơ quan có thẩm quyền xem xét,
thẩm định hồ sơ đăng ký hoạt động NQTM, các điều kiện để được nhượng
quyền (Điều 5 của Nghị định 35) để quyết định việc chấp thuận hay không chấp
thuận đăng ký hoạt động NQTM của doanh nghiệp. Do vẫn chưa có chế tài ràng
buộc cụ thể đối với trường hợp bị từ chối đăng ký nhượng quyền, nên trong thực
tế, những doanh nghiệp bị xét không đủ điều kiện nhượng quyền nhưng vẫn có
thể tiếp tục thực hiện nhượng quyền bắt cách lách luật thông qua việc ký kết
hợp đồng đại lý với đối tác, trong đó có thỏa thuận cho phép đối tác được sử
dụng thương hiệu và tổ chức kinh doanh theo phương thức hoạt động của mình.
Ngoài ra, hiện thời Bộ Tài chính vẫn chưa có văn bản cụ thể quy định mức phí
đăng ký hoạt động NQTM, do đó có thể dẫn đến lúng túng đối với cơ quan tiếp
nhận đăng ký.
* Vấn đề xây dựng, cung cấp Bản Giới thiệu về NQTM
Về nguyên tắc, việc yêu cầu doanh nghiệp dự kiến nhượng quyền xây dựng Bản
Giới thiệu về NQTM là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật về nghĩa vụ
cung cấp thông tin của Bên nhượng quyền. Bản Giới thiệu về NQTM của doanh
nghiệp thực chất đó là tài liệu quan trọng, còn gọi là UFOC (Uniform Franchise
Offering Circular), mà Bên nhượng quyền phải cung cấp cho Bên dự kiến nhận
quyền nghiên cứu trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền. Do đó, Bản giới
thiệu NQTM phải thể hiện đầy đủ, trung thực, chính xác mọi thông tin về Bên
nhượng quyền, hệ thống nhượng quyền và các vấn đề cơ bản liên quan đến việc
ký kết hợp đồng nhượng quyền. Ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, việc xây dựng
và cung cấp tài liệu UFOC là bắt buộc theo luật định, tài liệu này luôn đảm bảo
02 chức năng cơ bản: cung cấp chính xác thông tin liên quan đến nội dung
NQTM, quảng bá cho Bên nhượng quyền.

Tại Việt Nam, Bộ Thương mại cũng ban hành mẫu Bản Giới thiệu NQTM kèm
Thông tư 09, có nội dung khá chi tiết gồm 02 phần và 13 mục. Tuy nhiên, Bản
Giới thiệu mẫu được soạn thảo hơi cứng nhắc, các thông tin yêu cầu cung cấp
có vẻ như chủ yếu để phục vụ cho hoạt động thống kê, quản lý nhà nước, mà
không tính đến yếu tố thể hiện sự quảng bá của Bên dự kiến nhuợng quyền.
Ngoài ra, một số nội dung thông tin phân chia theo đề mục không hợp lý, khó
hiểu hoặc một số yêu cầu có thể không cần thiết, cụ thể như sau:
• Trùng lắp tiêu đề tại Mục I Phần A và mục I Phần B. Theo nội dung được
nêu, Mục I Phần A nhắm giới thiệu tổng quát về vị trí pháp lý, chức năng
kinh doanh cùa Bên nhượng quyền, Mục I Phần B cung cấp thông tin cơ
bản về bộ máy, tổ chức kinh doanh nhượng quyền của Bên nhượng
quyền. Vì vậy, nên chăng sửa đổi tiêu đề Mục I Phần A thành “Giới thiệu
tư cách pháp lý của Bên nhượng quyền”, tiêu đề Mục I Phần B thành
“Thông tin về tổ chức-hoạt động của Bên nhượng quyền”.
• Điểm 2 Mục V Phần B nói về khả năng cho phép Bên nhận quyền có
được chỉnh sửa những quy định của hệ thống kinh doanh nhượng quyền.
Thực chất đây chính là quyền của Bên nhận quyền do Bên nhượng quyền
quy định, thế nhưng lại được sắp xếp vào nhóm nghĩa vụ của Bên nhận
quyền.
• Điểm 3, 4, 5, 6, 7, 8 Mục IX Phần B yêu cầu phải công khai chi tiết số
lượng và tình trạng ký kết, thực hiện, gia hạn, chấm dứt hợp đồng
nhượng quyền của Bên nhượng quyền. Có vẻ như những yêu cầu này
can thiệp quá sâu vào bí mật kinh doanh của Bên nhượng quyền, và có
thể gây ra rủi ro cho Bên nhượng quyền nếu Bên dự kiến nhận quyền
không ký kết hợp đồng nhượng quyền. Ở đây, chỉ cần Bên nhượng quyền
cung cấp thông tin về số lượng cơ sở kinh doanh trong hệ thống nhượng
quyền đang hoạt động hoặc đã chấm dứt trong thời gian 03 năm gần
nhất, đối với trường hợp nào đã ký kết hợp đồng mà vẫn chưa triển khai
thực hiện thì phải trình bày lý do cụ thể là đủ.
• Mục X Phần B yêu cầu Bên nhượng quyền phải cung cấp nội dung báo

cáo tài chính đã được kiểm toán trong 01 năm gần nhất. Việc cung cấp
nội dung báo cáo tài chính là hợp lý, tuy nhiên yêu cầu phải có kiểm toán
có thực sự phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam không? Tại Hoa Kỳ,
chỉ có một số tiểu bang mới đòi hỏi báo cáo tài chính của bên nhượng
quyền phải có kiểm toán xác nhận mà thôi. Hiện nay các doanh nghiệp
Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ, phần lớn chưa quen với
việc kiểm toán, do đó thiết nghĩ chỉ nên yêu cầu cung cấp bản sao Báo
cáo tài chính, quyết toán thuế đã được cơ quan thuế kiểm tra, xác nhận là
được.
• Mục XI Phần B có tiêu đề “Phần thưởng, sự công nhận sẽ nhận được
hoặc tổ chức cần phải tham gia” hoàn toàn không phù hợp với nội dung
thông tin thể hiện sự cam kết của Bên nhượng quyền về tính chính xác,
trung thực của Bản Giới thiệu NQTM. Do đó, tiêu đề này đề xuất nên sửa
lại là “Sự cam kết, chế tài và cơ quan tài phán được lựa chọn để đảm bảo
thực hiện”.
* Những quy định đối kháng, “dẫm chân” giữa các văn bản pháp luật liên
quan
Khái niệm nhượng quyền thương mại trong Bộ luật Dân sự 2005 được hiểu là
“cấp phép đặc quyền kinh doanh”, và được xếp vào nhóm đối tượng chuyển giao
công nghệ quy định tại Điều 755 của Bộ luật. Tuy nhiên, theo Điều 7 Luật
Chuyển giao công nghệ 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2007) thì cấp phép đặc
quyền kinh doanh không thuộc phạm vi đối tượng chuyển giao công nghệ.
Đây chính là điểm mâu thuẩn nghiêm trọng giữa Luật Chuyển giao công nghệ
với Bộ Luật Dân sự.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 10 Nghị định 35, nếu việc nhượng quyền có liên
quan việc chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp thì
phần chuyển giao đó có thể được lập thành một phần riêng trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu công
nghiệp. Theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005, thì việc chuyển giao quyền sử dụng
quyền sở hữu công nghiệp phải thực hiện bằng hình thức hợp đồng sử dụng đối

tượng sở hữu công nghiệp (khoản 2 Điều 141 LSHTT). Như vậy quy định nêu
trên của Nghị định 35 chưa phù hợp với luật, đồng thời Luật Thương mại 2005
cũng không có bất kỳ quy định nào để nối kết một cách hợp lý với Luật Sở hữu
trí tuệ 2005, Luật Chuyển giao công nghệ 2006, do đó đã dẫn đến tình trạng
“dẫm chân” lên nhau giữa các văn bản pháp luật có liên quan.
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật về thuế hiện tại vẫn chưa có quy định chính
thức trong việc xác định các khoản chi phí, khoản thu là phí nhượng quyền,
doanh thu từ nhượng quyền để hạch toán, tính thuế cho doanh nghiệp. Ngoài ra,
về vấn đề xử lý vi phạm trong hoạt động NQTM, Điều 24 Nghị định 35 đã liệt kê
các hành vi phạm cụ thể và quy định việc xử lý được thực hiện bằng biện pháp
xử phạt hành chính. Tuy nhiên, hiện nay, Chính phủ vẫn chưa ban hành nghị
định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực NQTM.
* Và những kiến nghị
NQTM vẫn còn khá mới mẽ đối với Việt Nam, do đó rất cần sự hỗ trợ, khuyến
khích của Nhà nước trong việc phát triển loại hình kinh doanh đặc thù này. Để
thực hiện được điều này, Nhà nước cần phải có các chính sách xúc tiến, tư vấn,
hỗ trợ đào tạo trong lĩnh vực NQTM. Đối với doanh nghiệp kinh doanh theo
phương thức nhượng quyền, Nhà nước nên khuyến khích họ thành lập, tham
gia vào các hiệp hội NQTM để có điều kiện tiếp thu, trao đổi kinh nghiệm, tự đào
tạo, đồng thời cũng là một trong những đầu mối tham khảo, phản biện xã hội để
hoàn thiện về chính sách pháp luật về NQTM. Về những quy định pháp luật hiện
thời, Nhà nước cần phải xem xét, làm rõ các khái niệm phạm vi điều chỉnh giữa
các luật, văn bản pháp quy có liên quan, từ đó có sự điều chỉnh, sửa đổi phù
hợp, ban hành các quy định mới để kịp thời đáp ứng công tác quản lý nhà nước,
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực NQTM.
Về phía các doanh nghiệp, cần phải chủ động hơn trong việc tìm kiếm, tiếp cận
các kinh nghiệm, kiến thức và các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực NQTM. Để có
được hiệu quả cao khi thực hiện kinh doanh theo phương thức nhượng quyền,
doanh nghiệp phải có chiến lược xây dựng thương hiệu thật tốt, hệ thống kinh
doanh được tổ chức hợp lý, hiệu quả và mang tính đặc thù.

Cuối cùng, điều quan trọng hơn hết, chính doanh nghiệp, thông qua hoạt động
thực tế của mình, phải tích cực hơn nữa trong việc đề xuất, đóng góp ý kiến cho
Nhà nước để xây dựng các chương trình phát triển NQTM, ban hành các chính
sách, quy định pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam.
(Hồ Hữu Hoành - VietFranchise)
Thời của ẩm thực ngoại nhượng quyền
Phở 24 chưa bao giờ được “bình bầu” là phở ngon nhất Việt Nam nhưng chắc chắn
là thương hiệu phở được nhắc đến nhiều nhất trong mắt bạn bè quốc tế. Phở 24
cũng là đại diện nổi bật cho tham vọng vươn tới chuỗi ẩm thực toàn cầu như mô
hình của đế chế fastfood Mc Donal, KFC
Trong khi Phở 24 hiện nay cũng như cà phê Trung Nguyên trước kia “ra với thế giới”
bằng phương thức nhượng quyền kinh doanh, hàng trăm “nhà bếp” ngoại với những
thương hiệu nổi tiếng đã, đang tìm đường nhảy vào chia sẻ “miếng bánh” tiêu dùng trẻ 86
triệu dân của Việt Nam.
“Quyền lực” của nhượng quyền
Đã xa rồi cái thời phải dằn ví cả tháng để được thưởng thức ăn “cơm tây, cơm tàu”. Ngày
nay với số tiền không quá lớn, tương đương một bữa trưa công sở, thực khách có thể
chọn gu ẩm thực kiểu Ý, kiểu Mỹ thậm chí kiểu Thái theo phong cách “nhanh- tiện- giá
hợp lý”.
Đó là “quyền lực” mà mô hình kinh doanh nhượng quyền trong ẩm thực đem lại.
Các cửa hàng bán thức ăn theo chuỗi này thường tạm chia làm hai loại: fastfood đúng
nghĩa như KFC, BBQ, Lotterie, Pizza Hut, Jollibee, Goloria Jeans Coffees hoặc là
chuỗi “nhà hàng công sở” với các phần ăn phục vụ nhanh chóng giản tiện nhưng không
quá công nghiệp mà Bún ta, Phở 24 của Việt Nam hay ThaiExpress (số 7 Đinh Tiên
Hoàng) là điển hình.
Ngoại trừ Bún Ta và Phở 24, điểm chung của các chuỗi “nhà bếp” ngoại này là đều “đổ
bộ” vào Việt Nam theo phương thức nhượng quyền kinh doanh. Mô hình này không mới
ở Việt Nam với sự có mặt cách đây gần chục năm KFC nhưng năm 2009 được nhiều
chuyên gia dự báo sẽ là thời điểm bùng nổ.
Anh Lê Vũ Minh, Phó Giám đốc, Công ty RedSun ITI, doanh nghiệp vừa mua quyền

kinh doanh của chuỗi nhà hàng ẩm thực Thái –ThaiExpress hồi tháng 3 lý giải, sở dĩ năm
2009 bỗng nhiên hấp dẫn vì thị trường bán lẻ đã mở rộng cửa sau ngày 1/1 với những
điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn cho loại hình này.
Mặt khác, theo anh, người tiêu dùng Việt nhất là giới trẻ ngày nay có xu hướng ưa
chuộng những chuỗi nhà hàng hiện đại, tiện dụng nhưng vẫn phải dễ chịu cả về không
gian lẫn giá cả.
“Họ không chỉ ăn uống mà còn muốn tận hưởng cảm giác thoái mái của không khí quán
xá, cách phục vụ đó là lý do chuỗi ThaiExpress luôn duy trì tông cam tươi mát và decor
nội thất trẻ trung”, anh Minh cho biết.
Ở góc nhìn khác, trong một bài trả lời phỏng vẩn mới đây, ông Lý Quí Trung lại phân
tích chính suy thoái kinh tế toàn cầu đã thúc đẩy nhiều thương hiệu quốc tế, trong đấy có
ẩm thực phải mở đường sang các thị trường mới nổi như Việt Nam.
“Theo tôi, khoảng 2-3 năm nữa, hoạt động này tại VN sẽ sôi động hơn, với sự tham gia
của nhiều thương hiệu bán lẻ nổi tiếng quốc tế như Seven-Eleven, Mc Donald, các chuỗi
siêu thị ”, ông Trung dự đoán.
Thực tế, đến thời điểm hiện nay, tại Việt Nam đã có khoảng 100 thương hiệu quốc tế hoạt
động thông qua phương thức nhượng quyền, phần lớn tập trung vào lĩnh vực ẩm thực. Sự
sôi động của thị trường nhượng quyền được các chuyên gia dự báo, có thể không dưới
30%/năm.
Từ những “đại gia” đã “cắm rễ” thâm niên như KFC, Lotterie hay mới vài năm như
Goloria Jeans Coffees, Lee’s Sandwiches, Jollibee, BBQ, Pizza Hut… đều chọn năm
2009 để đua nhau mở chuỗi. Cụ thế, Lotteria công bố tăng từ 56 lên 80 cửa hàng, KFC
cũng tăng tổng số cửa hàng lên khoảng 80
Đó là chưa tính đến các thương hiệu ẩm thực theo trường phái phương đông của Nhật
Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc đang âm thầm nhưng bén rễ nhanh chóng trên
thị trường. Vừa đến Việt Nam tháng 3 vừa qua nhưng chuỗi nhà hàng Thái_ThaiExpress
cũng đã có kế hoạch mở khoảng 15 cửa hàng nhượng quyền tiếp theo tại Việt Nam.
“Ngoài ThaiExpress do chúng tôi mang về từ Singapore, theo tôi biết, nhiều thương hiệu
nổi tiếng khác cũng đang đàm phán để thị trường Việt Nam như Stabuck chẳng hạn ”,
anh Minh cho biết.

Tại sao chọn nhượng quyền?
Thống kê của Hội Liên hiệp chuyển giao thương hiệu quốc tế (IFA) cho biết có đến 90%
Cty mua nhượng quyền kinh doanh tồn tại tốt sau mười năm hoạt động, trong khi chỉ có
trên 10% công ty tự thành lập theo cách thông thường phải đóng cửa.
Điều đó đủ hiểu vì sao nhượng quyền được nhiều doanh nghiệp lựa chọn.
Anh Lê Vũ Minh thẳng thắn “Nếu tự mình mở 1 nhãn hiệu nào đó thì khả năng thành
công rất thấp, có khi chỉ 10% thôi nhưng nếu chọn nhượng quyền thì khả năng thành
công có thể đảm bảo đến 80%”.
Lý do nhượng quyền có thể đảm bảo tỷ lệ thành công lớn đơn giản vì người mua quyền
kinh doanh có thể tránh được các chi phí rủi ro ban đầu, chi phí đầu tư thương hiệu mà lại
rút ngắn được thời gian khởi nghiệp.
Đặc biệt nhờ là hệ thống nhượng quyền rộng khắp nên chỉ cần cầm được quyền kinh
Kinh doanh ẩm thực đang là mốt của nhượng quyền
Kinh doanh ẩm thực đang là mốt của nhượng quyền
yên tâm đã có sẵn một lượng khách quen của thương hiệu này từ
trước.
“Khi quyết định chọn kinh doanh ẩm thực chúng tôi đã đi tìm hiểu các mô hình nhà hàng
theo chuỗi và nhận thấy có rất nhiều trường phái ẩm thực khác nhau: Trung Quốc, Thái
Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, phương Tây Cuối cùng, chúng tôi chọn ThaiExpress vì đây
là mô hình khá hiệu quả, mới chỉ 5 năm mà đã có 80 chi nhánh ở 9 nước. Món Thái lại dễ
hợp khẩu vị nhiều người, đặc biệt quen thuộc với du khách nước ngoài nên nhà hàng
ThaiExpress tại Hà Nội quá nửa là đón khách quen” , anh Minh cho biết.
Bên bán cũng có lợi rất lớn, không chỉ thu được tiền nhượng quyền mà khi bên mua hoạt
động thành công thương hiệu của bên bán cũng sẽ được quảng bá rộng rãi hơn, “có giá”
hơn cho các thương vụ sau.
Với những doanh nghiệp không có đủ khả năng, tiềm lực tài chính mà muốn mở rộng
chuỗi phân phối trên phạm vi rộng thì đây là một giải pháp hữu hiệu để “chắp cánh
thương hiệu”.
Chính các ngân hàng cũng nhận thấy sự hấp dẫn và an toàn của hình thức kinh doanh
này, do đó gần đây nhiều ngân hàng rất quan tâm đến những dự án kinh doanh ẩm thực

nhượng quyền. Có thể thấy với những cơ hội thuận lợi ít ngành nào có được trong thời
điểm hiện nay, việc ẩm thực ngoại nhượng quyền thành mốt tại đô thị là rất gần.
(Nguồn: Vietnamnet)
Franchising được định nghĩa là sự liên kết hợp đồng giữa phía chuyển giao (nhà sản
xuất hoặc tổ chức dịch vụ) với người nhận chuyển giao (người kinh doanh độc lập).
Người chuyển giao cho mượn thương hiệu và hệ thống kinh doanh bao gồm tất cả
các cách thức quản lý.Còn người nhận chuyển giao chi trả tiền bản quyền thuê
thương hiệu và tiền phí để được kinh doanh với tên và hệ thống của nhà chuyển
giao.
Hoạt động nhượng quyền kinh doanh (franchising) được coi là khởi nguồn tại Mỹ, vào
giữa thế ký 19, lần đầu tiên trên thế giới, nhà sản xuất máy khâu Singer ký cho thực hiện
hợp đồng nhượng quyền kinh doanh. Hiện nay, hoạt động nhượng quyền đã có mặt tại
160 nước trên thế giới với tổng doanh thu lên tới 18,3 tỷ USD năm 2000.
Hoạt động nhượng quyền kinh doanh đang phát triển rất nhanh tại Việt Nam. Khởi đầu từ
những năm 1990, với sự tham gia của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các hoạt
động đó đã có doanh số 1,5 triệu USD vào năm 1996, trên 4 triệu USD vào năm 1998, và
từ đó đến nay liên tục phát triển với tốc độ tăng trưởng dự báo 15-20%/năm.
Các hệ thống nhượng quyền kinh doanh toàn cầu như: Kentucky, Burger Khan, Five Star
Chicken, Jollibee, Carvel, Baskin Robbins, Texas Chicken, Kentucky Fried Chicken,
Hard Rock Cafộ, Chili’s, đã đầu tư vào Việt Nam sau khi thành công tại các thị trường
lân cận như: Nhật Bản, Indonexia, Đài loan, Trung quốc, Thái lan, Philippin. Các hệ
thống khác như Dunkin Donuts and McDonald’s hiện đã kết thúc giai đoạn nghiên cứu
thị trường. Cùng với sự đầu tư vào Việt Nam của các hệ thống toàn cầu, các hệ thống
nhượng quyền kinh doanh của Việt nam cũng đã được hình thành và phát triển như: Cà
phê Trung nguyên, Qualitea,phở 24, công ty bánh kẹo Kinh Đô… Đặc biệt, Cà phê Trung
Nguyên đã xây dựng được một hệ thống kinh doanh trên toàn bộ Việt Nam và đang mở
rộng ra nước ngoài.
Để phát triển một thương hiệu nhượng quyền hay kinh doanh nhượng quyền có thể nói là
khá phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố hơn so với các mô hình kinh doanh
khác. Điều quan trọng của phương thức kinh doanh này nằm ở 5 nhân tố được xem là

chìa khóa của sự thành công:
Bản sắc thương hiệu: là giá trị cốt lõi và đặc trưng của thương hiệu, là dấu ấn tồn tại
trong tâm trí khách hàng một cách sâu đậm nhất và tạo nên khác biệt so với các thương
hiệu khác. Có thể nói, giá trị lớn nhất của hợp đồng thương hiệu nhượng quyền nằm ở
việc chuyển tải bản sắc này đến người được nhượng quyền như là một lợi thế cạnh tranh
ưu việt giúp họ xây dựng công việc kinh doanh một cách nhanh chóng nhất. Nhưng
những thương hiệu nhượng quyền rất khó bảo vệ giá trị này vì nó phụ thuộc vào người
được nhượng quyền có giữ được tính toàn vẹn của hình ảnh thương hiệu ở mức nhất định
hay không. Hệ thống nhượng quyền càng lớn, họ càng dễ mất quyền kiểm soát nếu bản
sắc thương hiệu không được củng cố và bảo vệ.
Vị trí: Có 3 yếu tố cực kì quan trọng trong việc nhượng quyền thương hiệu ở các lĩnh vực
thời trang, ăn uống và giải trí. Yếu tố thứ nhất là địa điểm, thứ hai là địa điểm và thứ ba
cũng là địa điểm. McDonalds là chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh sử dụng hệ thống nhượng
quyền thành công nhất trên thế giới, nhưng nhìều người không biết rằng nguyên tắc kinh
doanh của họ là bên cạnh việc tập trung vào thức ăn nhanh còn tập trung vào bất động
sản. Những vị trí đặt cửa hàng McDonalds phải là những vị trí hai mặt tiền nằm ngay
trung tâm của khu phố, và có mật độ dòng người qua lại cao nhất .
Phở 24 cũng rất kén chọn trong việc đặt vị trí và chỉ nằm ở những con đường có đông
khách nước ngòai. Đối với các cửa hàng kinh doanh nhượng quyền như vậy thì địa điểm
là đòi hỏi khó khăn nhất trong việc lựa chọn người được nhượng quyền. Nếu bạn có địa
điểm tốt nghĩa là bạn đã có 50% cơ hội thành công.
Nỗ lực tiếp thị: Những thương hiệu nhượng quyền phần lớn có ngân sách tiếp thị giành
riêng cho mình. Nhiều mô hình nhượng quyền đòi hỏi những qui luật tiếp thị khá đặc biêt
và có sự kết hợp giữa người nhượng quyền và người được nhượng quyền. Tùy thuộc vào
loại hình kinh doanh được chọn, bạn có thể lựa chọn phương thức tiếp thị và quảng cáo
phù hợp nhất. Starbucks thành công với việc biến mỗi nhân viên của mình bất kể vị trí
nào phải là một chuyên gia tiếp thị cừ khôi để mọi nơi mọi lúc có thể tư vấn, có thể tiếp
thị trực tiếp cho thương hiệu của Starbucks. Chiến lược dài hạn: Thông thường việc
nhượng quyền sẽ giúp bạn rút ngắn được thời gian chuẩn bị những cơ sở ban đầu, nhưng
không có nghĩa là bạn không phải xây dựng một chiến lược dài hạn. Một đại lý nhượng

quyền cũng cần khoảng 2 đến 3 năm trước khi thấy được lợi nhuận, và nếu bạn không có
kế hoạch đầy đủ thì bạn sẽ bị nuốt chửng trước khi có cơ hội thành công.
Quản lý con người: Một lời khuyên chân thành là nếu bạn thiếu kĩ năng làm việc và
tương tác với con người, bạn không nên lựa chọn phương thức nhượng quyền. Nhưng
nếu bạn thật sự xem đây là con đường đưa bạn đến thành công, bạn phải nỗ lực hết mình
và làm việc với tất cả đam mê. Và chỉ có đam mê bạn mới có thể truyền cảm hứng cho
công việc và cho người khác. Hơn nữa, là một người chủ nhượng quyền hay người sử
dụng thương hiệu nhượng quyền, bạn cần phải tương tác với tất cả mọi người ở xung
quanh liên quan đến hoạt động kinh doanh của bạn. Khả năng quản lý con người rất cần
thiết trong công cuộc kinh doanh, và càng quan trọng hơn trong lĩnh vực nhượng quyền
đòi hỏi sự hợp tác và tin cậy lẫn nhau của các thành viên tham gia. Vấn đề quản lý con
người sẽ đem lại nội lực cho thương hiệu của bạn trước khi bạn bắt đầu phát triển nó
thành một hệ thống. Việc kí kết hợp đồng nhượng quyền chỉ mới là bước đầu, không phải
là kết thúc của mối quan hệ.
5 nhân tố trên sẽ là nền tảng giúp bạn và thương hiệu của bạn phát triển một cách vững
chắc, là nền móng giúp bạn mở rộng hệ thống kinh doanh của mình theo mô hình nhượng
quyền cũng như lựa chọn thương hiệu phù hợp nếu bạn muốn tự mình kinh doanh. Việc
phát triển những nhân tố này thành những qui tắc và những cam kết hoạt động sẽ giúp
bạn quản lý một cách toàn diện hệ thống nhượng quyền của mình. Và theo David
McKinnon, CEO của Molly Maid, đã nhận xét: “Chúng ta không chỉ thực hiện hệ thống
của Molly Maid, mà chúng ta còn tạo ra những nhân tố giúp cho việc phát triển hệ thống
đó. Nó không phải được lập ra để trừng phạt, mà nó được lập ra để bảo vệ thương hiệu và
hỗ trợ người sử dụng chúng tuân theo và phát triển hệ thống ”
SOURCE: SAGA.VN

×