Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Công và tội của mèo trong y học ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.76 KB, 6 trang )

Công và tội của mèo trong y học
Không có bộ phận nào của mèo được Tây y hay Đông y
dùng làm thuốc. Tuy không được trực tiếp sử dụng làm
thuốc nhưng có sự góp mặt của mèo trong đội ngũ “súc
vật thí nghiệm” cùng với: chuột nhắt trắng, chuột cống
trắng, chuột lang (cobaye), thỏ, chó đã góp phần không
nhỏ cho những nghiên cứu trong y học.
Trong lĩnh vực nghiên cứu thuốc
Mèo thuộc vào hàng khiêm tốn, chỉ xuất hiện trong một số
thí nghiệm. Đối với mèo, người ta thấy có một số bệnh di
truyền giống người như: bệnh bạch tạng (albinism), bệnh
điếc di truyền, tật nhiều ngón (polydactylia), bệnh tạo
xương bất toàn (osteogenesis imperfecta). Chính do đột
biến gen đưa đến các rối loạn di truyền và do có sự tương
đồng nên thay vì thử thuốc trên người để tìm tác động dược
lý di truyền của thuốc (điều này y đức không cho phép),
người ta thử thuốc trên thú vật, trong đó có mèo để xem
thuốc có gây rối loạn di truyền hay không?
Để biết được tác dụng trị ho của một thuốc mới như thế
nào, người ta sẽ thử trên mô hình gây ho ở mèo. Cho mèo
sử dụng thuốc thử nghiệm, sau đó dùng hơi amoniac kích
thích làm mèo ho. Nếu có tác dụng trị ho, thuốc sẽ ức chế
phản xạ ho của mèo (thuốc mới được so sánh với thuốc trị
ho chuẩn là codein).
Mèo còn được chọn để thử xem một thuốc mới có tác dụng
trên huyết áp hay không? Hơn nữa thử trên mèo, người ta
còn biết được thuốc có tác dụng co mạch hay giãn mạch
thuộc loại nào: liệt giao cảm hay liệt đối giao cảm hay thứ
nào khác.
Như vậy, rõ ràng mèo có công không nhỏ trong lĩnh vực
nghiên cứu thuốc. Tuy nhiên, con vật nuôi gần gũi, thân


thiết này có thể là vật trung gian truyền một số bệnh cho
con người. Có 2 bệnh ta nên lưu ý để phòng tránh.

Vai trò trung gian truyền bệnh
Trước hết, mèo có thể bị nhiễm giun đũa mèo có tên khoa
học toxocara cati. Giun đũa mèo sống ký sinh trong đường
tiêu hóa của mèo đẻ ra trứng, trứng giun đũa theo phân ra
ngoài và dính lên lông mèo, sau đó sẽ dính lên giường
chiếu, ghế hoặc lây nhiễm ra đất, nền nhà. Người bị nhiễm
khi vuốt ve mèo hoặc ngồi trên ghế, giường có dính trứng
giun, trứng sẽ dính lên tay, sau đó dùng tay bốc thức ăn đưa
vào miệng. Trứng giun sẽ đi vào ống tiêu hóa của con
người, nở thành ấu trùng đi xuyên qua thành ruột, theo máu
đến nhiều cơ quan. Ở người, ấu trùng này không thể tiếp
tục phát triển thành giun trưởng thành. Vì vậy, bệnh giun
đũa mèo nhiễm sang người được gọi là bệnh ký sinh trùng
lạc chỗ thể hiện bệnh do ấu trùng. Ấu trùng giun đũa mèo
khi lạc chỗ nhiễm qua người sẽ di chuyển nhiều nơi gây rối
loạn ở các cơ quan nội tạng khác nhau và có những biểu
hiện lâm sàng, đặc biệt ở da thì gây nổi dát đỏ, mề đay,
ngứa. Khi nhiễm ở mắt có thể gây mù mắt (hay gặp ở trẻ
em dưới 15 tuổi). Nhiễm ở não, gây chèn ép não làm hôn
mê và gây tỷ lệ tử vong cao.
Ngoài ra, mèo còn mang ký sinh trùng toxoplasma gondii
là loại đơn bào. Nang trùng của ký sinh trùng này được thải
ra trong phân mèo, nằm trong đất ẩm hoặc cát và sống được
nhiều tháng. Người bị nhiễm toxoplasma gondii do nuốt
nang trùng vào ruột, chúng sẽ bị biệt hóa thành các thoa
trùng theo máu đi đến gan, cơ, não. Đây là ký sinh trùng
thường gây viêm não trên bệnh nhân suy giảm miễn dịch

do HIV/AIDS ở TP. HCM, và có thể gây sảy thai trong ba
tháng đầu thai kỳ ở phụ nữ.
Như vậy, mèo cũng như chó có thể gây bệnh nhiễm ở
người là bệnh ký sinh trùng lạc chỗ. Hiện nay, nhiễm bệnh
ký sinh trùng lạc chỗ là vấn đề lớn với sức khỏe cộng đồng.
Vì vậy, ta nên lưu ý đến việc nuôi súc vật, cả chó lẫn mèo
thật vệ sinh để tránh bị ô nhiễm phân chó, mèo. Nên định
kỳ xổ giun cho chó, mèo tại phòng khám thú y. Với trẻ em,
tốt nhất không nên để trẻ chơi nghịch với chó, mèo.
Bệnh thứ hai mà mèo cũng có thể gây nhiễm cho người gọi
là “bệnh mèo quào”. Đây là bệnh nhiễm trùng xảy ra sau
khi bị mèo quào (90%) hoặc có tiếp xúc gần gũi với mèo
(10%). Trong trường hợp điển hình, người bệnh bị viêm
mủ hạch ở vùng có vết quào, tình trạng này có thể kéo dài
nhiều tuần đến nhiều tháng sau khi bị mèo quào.
Bệnh mèo quào gây ra do bartonella henselae, một trực
khuẩn gram âm. Khoảng 60% trong các trường hợp bệnh
nhân mắc bệnh mèo quào là trẻ con. Mèo bị nhiễm B.
henselae do bọ chét (có tên khoa học là ctenocephalides
felis) truyền vi khuẩn từ mèo bệnh sang mèo lành, và bản
thân bọ chét không lây bệnh cho người. Bệnh từ mèo lây
sang người qua các vết quào. Khoảng 3 - 5 ngày sau khi bị
mèo quào, tại chỗ vết quào xuất hiện một mụn nước nhỏ
sau có mủ, 1 - 2 tuần sau đó, các hạch bạch huyết có liên
quan gần với chỗ mèo quào sẽ sưng to lên, hạch to đau
nhưng mềm. Triệu chứng toàn thân thường là cảm giác mệt
mỏi, biếng ăn, sụt cân. Nếu không được điều trị đặc hiệu,
hạch có thể vẫn to trong nhiều tuần đến nhiều tháng, đôi
khi gây nhầm lẫn với bệnh ung thư hạch (lymphoma).
Các triệu chứng của bệnh sẽ thuyên giảm dần và bệnh mèo

quào thường tự khỏi. Các kháng sinh đã được dùng để điều
trị bệnh mèo quào là erythromycin, gentamycin,
ciprofloxacin và doxycyclin. Phải nghi ngờ bệnh mèo quào
khi bệnh nhân có tiền sử tiếp xúc với mèo, có tổn thương
da và nổi hạch.
PGS.TS. NGUYỄN HỮU ĐỨC

×