Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.2 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là sự hợp thành của trồng trọt và chăn ni,
cịn theo nghĩa rộng gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Từ khi ra đời cho đến nay, nơng nghiệp ln đóng vai trị quan trọng trong
việc phát triển kinh tế nói chung và bảo đảm sự sinh tồn của lồi người nói riêng.
Ăng-ghen đã khẳng định: nơng nghiệp là ngành có ý nghĩa quyết định đối với
toàn bộ thế giới cổ đại. Ý nghĩa quyết định của nông nghiệp không chỉ đúng
trong thế giới cổ đại mà ngay cả hiện nay và thời gian sau này ý nghĩa đó vẫn
cịn ngun giá trị. Lồi người không thể sống nổi nếu thiếu những sản phẩm
nông nghiệp.
Giai đoạn hiện nay, con người đang phải đối mặt với nhiều thách thức
trong vấn đề lương thực - thực phẩm. Vấn đề đặt ra đối với nông nghiệp là cần
đảm bảo lượng lương thực thực phẩm an toàn - đủ cung cấp cho nhu cầu con
người. Để đạt được điều đó bên cạnh việc đưa những tiến bộ khoa học vào sản
xuất nông nghiệp, chúng ta cần nghiên cứu và áp dụng những hình thức tổ chức
lãnh thổ nơng nghiệp sao cho phù hợp với tài nguyên, điều kiện sản xuất (khoa
học, công nghệ, tập quán sản xuất, tiêu dùng,…), đặc điểm phân công lao động
xã hội mỗi quốc gia,… để tạo được hiệu quả cao nhất trong sản xuất nơng
nghiệp.
Nghiên cứu và tìm hiểu tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ
nơng nghiệp nói riêng là nhiệm vụ quan trọng của địa lý kinh tế xã hội. Vấn đề
này đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Trong địa lý học Xô Viết, nhiều
nhà khoa học có tên tuổi như KI.I Ivanơp, V.G.Kriuchkov… đã cơng bố nhiều
cơng trình liên quan đến tổ chức lãnh thổ nơng nghiệp.
Trong khoa học Địa lý Việt Nam, về phương diện lý luận có rất ít tài liệu
nghiên cứu một cách sâu sắc về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Liên quan đến các
vấn đề này chỉ có một vài nghiên cứu lẻ tẻ về phân vùng nơng nghiệp Việt Nam:
đó là cơng trình nghiên cứu của tác giả Minh Chi đã được công bố vào những
năm 60. Cũng trong thời gian này, ở khoa Địa Lý trường Đại học Sư Phạm Hà



Nội, nhà giáo Nguyễn Văn Quang đã đưa vào giảng dạy giáo trình “Phân cùng
nơng nghiệp” trong đó đề cập tới nguyên tắc, phương pháp và nội dung cụ thể.
Ngoài ra, hiện nay cịn nhiều cuốn sách có liên quan nhưng chủ yếu tập trung
trong vào việc hướng dẫn lập quy hoạch nông nghiệp. Lý luận về tổ chức lãnh
thổ nông nghiệp ở Việt Nam là một vấn đề lớn vẫn cịn để trống địi hỏi cơng sức
của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Để có những hiểu biết sâu sắc về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói chung
và tổ chức lãnh thổ nơng nghiệp Việt Nam nói riêng, tập thể nhóm 2 - K17 - Địa
Lý lựa chọn vấn đề “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp” cho đề tài tiểu luận của
mình.


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP
I. TỔ CHỨC LÃNH THỔ

1. Cơ sở của tổ chức lãnh thổ
Phân công lao động xã hội cơ sở nền tảng của tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội nói chung, tổ chức lãnh thổ nơng nghiệp nói riêng. Theo quan điểm của
triết học, thời gian và khơng gian là hai hình thức tồn tại cơ bản của hiện tượng
và của sự vật. Khơng thể có một sự vật, một quá trình hay một sự kiện nào tồn
tại bên ngồi một khơng gian và một thời gian nhất định. Nhìn một cách tổng
quát, các thể vật chất trong hệ thống các hiện tượng, sự vật là đối tượng của tổ
chức lãnh thổ kinh tế - xã hội. Nói như thế có nghĩa là phân cơng lao động xã hội
là cơ sở nền tảng của tổ chức không gian kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm cho thấy
nhờ phân công lao động xã hội mà kĩ năng, sự khéo léo, óc phán đốn và sự cải
tiến nhận thức, năng suất của những người lao động được nâng cao.
1.1. Quan niệm về phân công lao động xã hội
Phân công lao động là một vấn đề lớn và phức tạp, ở đây khơng thể đi sâu
phân tích một cách đầy đủ, tồn diện về nó mà chỉ phân tích những vấn đề quan

trọng nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội.
Có thể hiểu, phân công lao động xã hội là một quá trình liên tục, hình
thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử của nhân loại. Khả năng của con
người và sự khác biệt về điều kiện sản xuất là nguồn gốc sâu xa của mọi sự trao
đổi hàng hóa, phân công lao động xã hội được khởi đầu và kết thúc bởi sự trao
đổi hay bn bán hàng hóa. Nó được biểu hiện cụ thể dưới hai hình thức cơ bản
nhất là phân công lao động theo ngành và phân công lao động theo lãnh thổ.
a) Phân công lao động xã hội theo ngành chính là tổ chức lao động xã hội
theo các ngành để tạo ra những sản phẩm cụ thể đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Phân cơng lao động xã hội theo ngành phản ánh trình độ phát triển của
nền kinh tế của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một tỉnh, một huyện. Phân


công lao động xã hội theo ngành phát triển từ thấp đến cao; từ nơng nghiệp đến
cả cơng nghiệp rịi có cả dịch vụ. Sự kiện tách chăn ni khỏi trồng trọt, tách các
ngành phi nông nghiệp khỏi khu vực nơng nghiệp là ý nghĩa đó. Khoa học - cơng
nghiệp càng phát triển, trình độ nguồn nhân lực càng cao, nhu cầu tiêu dùng của
xã hội càng đa dạng, chất lượng càng cao thì sự phân cơng lao động xã hội theo
ngành càng phát triển.
Q trình phân cơng lao động xã hội theo ngành đã kéo theo q trình
phân cơng lao động xã hội theo lãnh thổ; nói cách khác, đã có phân cơng lao
động xã hội theo ngành thì tất yếu phải có phân cơng lao động xã hội theo lãnh
thổ. Đó là hai hiện tượng kinh tế xã hội liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi trình bày
về phân công lao động xã hội C.Mac cho rằng trong nền kinh tế - xã hội, phân
công lao động xã hội theo ngành phải đựơc thể hiện cụ thể bằng phân công lao
động xã hội theo lãnh thổ. Khi bàn về vấn đề này V.I.Lênin nói đại ý rằng, phân
cơng lao động xã hội theo lãnh thổ, chun mơn hóa sản xuất của các vùng về
một loại sản phẩm, thậm chí về một bộ phận nào đó của sản phẩm có quan hệ
trực tiếp với phân cơng lao động xã hội nói chung.
b) Phân cơng lao động xã hội theo lãnh thổ chính là tổ chức lao động hội

theo ngành gắn với lãnh thổ, làm cho mỗi lãnh thổ có chức năng riêng cơng năng
tương đối khác nhau. Q trình thực hiện cụ thể hóa phân cơng lao động theo
lãnh thổ cũng chính là thực hiện phân cơng lao động xã hội ở các lãnh thổ cấp bé
hơn và đồng thời với việc phát huy tác dụng của các mối liên hệ kinh tế giữa các
lãnh thổ (có cả liên hệ giữa các lãnh thổ với các trung tâm). Quá trình này lơi
cuốn các vùng vào trao đổi hàng hóa cho nhau và qua đó mang lại lợi ích cho các
tầng lớp xã hội và các tập đoàn xã hội nào đó tham gia vào q trình ấy.
Trong q trình phân công lao động xã hội theo lãnh thổ, sự chun mơn hóa
trong việc sản xuất ra những giá trị vật chất và tinh thần sẽ được thực hiện và đem
lại màu sắc riêng cho mỗi lãnh thổ. Phân công lao động theo lãnh thổ tùy thuộc vào
những tình hình cụ thể. Một mặt, nó tạo ra sự cân đối hợp lí giữa các vùng trong
một quốc gia, giữa các địa phương, giữa các thành phố trong một vùng. Mặt khác,
khi lựa chọn những ngành và phân ngành khác nhau, những ngành sản xuất riêng
biệt của các vùng sẽ tạo ra tính khác biệt cho mỗi vùng.


Theo N.N.Baranxki, khi “ gắn ” các ngành vào trong lãnh thổ nào đó, sẽ
tạo ra sự kết hợp giữa các ngành ấy, những kết hợp này sẽ trở thành “bộ khung”
của vùng. Chính các vùng trong q trình phát triển sẽ “chỉnh lý” sự phân bố và
hoạt động của các ngành, tức là tự “ chỉnh lý” bộ khung đó cho phù hợp với bối
cảnh mới. Theo IU.G. Xauskin (1973): “phân công lao động theo lãnh thổ là kết
quả thống nhất giữa các vùng có nền sản xuất khác nhau, nhưng lại bổ xung cho
nhau và lôi cuốn chúng vào việc trao đổi hàng hố”.
Như vậy, phân cơng lao động xã hội theo lãnh thổ là cơ sở khoa học để
xem xét cách kết hợp sản xuất với tự nhiên trên phạm vi một vùng, một nước và
thậm chí trên phạm vi quốc tế.
Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ được thực hiện mang đặc tính
chế độ xã hội. Không chỉ phản ánh những quan hệ xã hội của con người do lịch
sử tạo ra, mà còn phản ánh cả trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất xã
hội. Từ các vấn đề trên ta thấy rằng tổ chức không gian kinh tế xã hội có quan hệ

hữu cơ với phân cơng lao động theo lãnh thổ và có đầy đủ tính đa dạng và linh
hoạt của hiện tượng nêu trên.
Phân công lao động theo lãnh thổ lôi cuốn các đối tượng tự nhiên, kinh tế,
xã hội vào quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ mang lại lợi ích cho các
tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội khác nhau cùng tham gia vào q trình phức
tạp đó. Khi thực hiện phân cơng lao động theo lãnh thổ, phải cụ thể hóa được
định hướng thậm chí cả những diễn biến trong tương lai của phân công lao động
xã hội theo ngành.
Trong quá trình phân cơng lao động theo lãnh thổ có sự phân hoá về chức
năng giữa các vùng. Do vậy tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể phân công lao động
một mặt tạo nên sự cân bằng giữa các lãnh thổ và mặt khác cá thể hoá các lãnh
thổ ấy khi lự chọn một số ngành chun mơn hố.
Về bản chất, phân cơng lao động theo lãnh thổ chính là việc gắn các
ngành (các xí nghiệp) vào những lãnh thổ thích hợp, bảo đảm mối quan hệ giữa
chung với nhau và sự phát triển hài hồ giữa chun mơn hố và liên hợp hoá,
tạo ra sự phát triển giữa ngành với ngành, giữa ngành với lãnh thổ. Phân công
lao đông xã hội theo lãnh thổ không phải là bất biến mà là một phạm trù kinh tế,


xã hội, lịch sử. Nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
con người với tự nhiên trong quá tình sản xuất và đời sống. Các mối quan hệ này
thay đổi theo thời gian và phát triển không ngừng, từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp.
1.2. Các hình thức thể hiện phân cơng lao động theo lãnh thổ
Về phạm vi không gian, phân công lao động theo lãnh thổ có thế chia
thành 6 hình thức với mức độ khác nhau. (IU.G. Xauskin 1973).
a) Phân cơng lao động trên phạm vi tồn thế giới
Hiện nay phân công lao động thuộc dạng này chịu tác động mạnh mẽ của
các khối (liên minh) kinh tế, chính trị. Các tập đồn tư bản lớn ln thâm nhập
và mở rộng thị trường đầu tư và tiêu thụ. Điều đó có ảnh hưởng trực tiếp đến q

trình phân cơng lao động quốc tế. Việc phân công lao động dựa vào lợi thế về
điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, lao động, giao thông vận tải, vốn và
công nghệ của mỗi quốc gia để có thể sản xuất và trao đổi hàng hoá, tạo điều
kiện phát triển nền kinh tế. Ngày nay, việc phân công lao động quốc tế càng
được đẩy mạnh. Thực tiễn cho thấy rằng không phải quốc gia nào cũng có đầy
đủ các yếu tố để tự đảm bảo mọi nhu cầu đời sống kinh tế - xã hội. Vì thế phân
cơng lao động quốc tế vừa là nhu cầu của mỗi quốc gia, vừa mang tính xu thế tất
yếu.
b) Phân công lao động trong phạm vi một quốc gia
Trong điều kiện hiện nay, xu thế toàn cầu hố, khu vực hóa nền kinh tế
đang trở nên phổ biến trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế với thế giới, mỗi
quốc gia với lợi thế của mình có thể tham gia vào một liên minh kinh tế nào đó
Hiệp hội các nước ASEAN là liên minh kinh tế của các quốc gia ĐNA,
được thành lập vào năm 1967 với 5 thành viên (Thái lan, Malaysia, Singapo,
Philippin và Inđônêxia), đến nay đã bao gồm 11 nước trong khu vực
Nhìn chung, phân cơng lao động giữa các nước tham gia vào liên minh
kinh tế thường bền vững hơn so với phân cơng lao động trên phạm vi tồn
thế giới.
c) Phân công lao động giữa các vùng trong một quốc gia


Hình thức phân cơng lao động này thương được điều chỉnh và thực hiện
giữa các vùng trong nước, là cơ sở để phát triển nền kinh tế xã hội của một quốc
gia như một chỉnh thể. Các vùng, rõ ràng không giống nhau về nguồn tài nguyên,
quy mô và tiềm lực kinh tế. Là một bộ phận của nền kinh tế cả nước, vùng kinh
tế trở thành một hệ thống nằm trong hệ thống lớn hơn. Về bản chất nó là một hệ
thống mở, trong đó diễn ra các mối liên hệ nội vùng và thường xuyên có sự trao
đổi vật chất, năng lượng và thông tin với các vùng khác.
Vì vậy khi xem xét tổ chức lãnh thổ nền kinh tế của một vùng không thể
không đề cập tới cả hai mối quan hệ nội vùng và liên vùng. Chúng thường xuyên

bổ sung cho nhau, kết hợp với nhau, làm cơ sở tạo nên thực thể kinh tế – xã hội
cho vùng.
d) Phân công lao động xã hội trong nội vùng
Trong một vùng thường bao gồm một số đơn vị hành chính (các tỉnh).
Giữa các đơn vị hành chính này cũng có sự phân cơng lao động nhằn tạo điều
kiện khai thác có hiệu quả các thế mạnh vốn có của mình. Phân cơng lao động
nội vùng phụ thuộc vào nhiều sự phân chia hành chính chính trị.
e) Phân công lao động trong tỉnh
Thực chất là phân công lao động theo lãnh thổ giữa các bộ phận đã được
chuyên mơn hóa với nhau trong phạm vi một tỉnh, hay giữa tỉnh (hoặc một số
trung tâm chủ yếu với các lãnh thổ cịn lại).
f) Phân cơng lao động địa phương
Phân công lao động địa phương là phân công lao động trong nội bộ của
một tỉnh, giữa thành phố và vùng ngoại vi. Các hình thức phân cơng lao động
theo lãnh thổ nói trên được biểu hiện cụ thể trên một không gin nhất định với
mức độ khác nhau từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao.
2. Khái niệm tổ chức lãnh thổ
Con người luôn luôn gắn với một lãnh thổ nhất định, nơi họ sống và làm
việc. Chính ở đây họ đã tạo ra được một hệ thống mối quan hệ qua lại hợp lý
nhất giữa con người với tự nhiên. Hệ thống này, một mặt, cho phép con người sử
dụng tốt nhất các nhân tố lãnh thổ của sản xất và chi phí xã hội thấp nhất, hiệu


quả kinh tế cao nhất và mặt khác, tạo nên điều kiện thuật lợi cho cuộc sống và
lao động của mình. Đó là bản chất của việc tổ chức xã hội theo lãnh thổ. Tổ chức
xã hội theo lãnh thổ bao gồm hai hình thức chủ yếu: tổ chức nền sản xuất xã hội
và tổ chức môi trường sống của con người, trong đó hình thức thứ nhất giữ vai
trị quyết định.
Nhiều nhà khoa học thuộc hàng loạt các lĩnh vực chuyên môn đã đưa ra
khái niệm tổ chức sản xuất theo lãnh thổ với những quan niệm ít nhiều có sự

khác nhau.
Theo quan điểm của trường phái địa lý Xô Viết, tổ chức lãnh thổ là sự sắp
xếp, bố trí và phối hợp các đối tượng có ảnh hưởng lẫn nhau, có mối quan hệ qua
lại giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống dân cư nhằm sử dụng hợp lý các nguồn
lực để đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường.
Theo quan điểm của các trường phái địa lý Phương Tây, tổ chức lãnh thổ
(cịn gọi là tổ chức khơng gian kinh tế xã hội) được coi là sự lựa chọn về nghệ
thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn nhằm tìm kiếm một tỷ lệ, quan hệ hợp
lý về phát triển kinh tế - xã hội giữa các ngành hoặc giữa các vùng trong cùng
một quốc gia có xét đến mối liên hệ giữa các quốc gia để tạo ra các giá trị mới.
Theo quan điểm này, về mặt địa lý, tổ chức không gian kinh tế xã hội được xem
như là một hoạt động có tính chất định hướng tới sự công bằng về không gian
giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực với không gian ảnh hưởng nhằm giải
quyết việc làm, cân đối giữa nông thôn và thành thị, bảo vệ môi trường sống của
con người.
* Những khái niệm cơ bản về không gian kinh tế - xã hội
- Không gian
Không gian là một phạm trù triết học, phản ánh một trong hai hình thức tồn
tại của vật chất là không gian và thời gian.
Theo từ điển địa lý (Oxford University Press, 1997): Không gian (Space) là
phạm vi của một vùng hay một khu vực thường được thể hiện dưới dạng bề mặt
trái đất. Mối quan hệ không gian giữ vị trí trung tâm trong địa lý học. Ở đây cần
phân biệt hai khái niệm cơ bản không gian tuyệt đối và không gian tương đối.
Không gian tuyệt đối là một không gian thực tế khách quan; không gian tương


đối là không gian được nhận thức bởi con người hay xã hội và có liên quan tới
những mối liên hệ giữa những sự kiện và khuynh hướng của những sự kiện đó.
F. Derroux và trường phái của ơng, gồm các nhà khoa học Anh và châu Âu,
nêu ba khái niệm về khơng gian: khơng gian tốn học, khơng gian địa lý, khơng

gian kinh tế. Khơng gian tốn học là không gian trừu tượng dùng để biểu hiện,
mô tả và phân tích lơgic các mối liên hệ giữa các hiện tượng, hồn tồn khơng
tính đến bất kỳ sự phân bố địa lý cụ thể nào.Khơng gian, trong đó con người
sống và hoạt động là những khơng gian cụ thể, đó là không gian địa lý và không
gian kinh tế.
Trong khoa học địa lý ở nước ta hiện nay, phần lớn các nhà khoa học coi
thuật ngữ “không gian” đồng nghĩa với thuật ngữ “lãnh thổ”.
- Không gian địa lý
Không gian địa lý là hình thức tồn tại của các đối tượng và hiện tượng
trong phạm vi của lớp vỏ địa lý; là tập hợp các mối quan hệ giữa các đối tượng
địa lý được phân bố trên một lãnh thổ nhất định và phát triển theo thời gian.
Quan niệm về khơng gian địa lý được dùng để phân tích và mơ hình hóa các hiện
tượng và các q trình (sự phân phối, sự phân bố, sự phân hóa, sự chuyển dịch,
sự san bằng, sự tập trung hóa và phi tập trung hóa, sự khuyếch tán khơng gian và
sự phân cực, sự hút và sự đẩy…). Khơng gian địa lý có tính cấu trúc. Nó được
cấu thành bởi các khơng gian địa lý bộ phận, mà các nhà khoa học địa lý, dựa
vào các dấu hiệu nội dung địa lý, tách chúng ra phù hợp với mục đích nghiên
cứu. Mỗi đối tượng địa lý riêng biệt lại tạo ra một không gian địa lý độc lập, bao
gồm không gian vật lý của đối tượng và trường địa lý của nó. Trường địa lý là
một phạm vi mà trong giới hạn của nó thể hiện sự tác động của một đối tượng
địa lý lên các đối tượng và hiện tượng địa lý khác. Không gian vật lý của từng
đối tượng địa lý riêng biệt ứng với tính khơng liên tục, cịn trường thì ứng với
tính liên tục của khơng gian địa lý.
Các đối tượng địa lý phức tạp tương ứng với không gian địa lý phức tạp.
Không gian địa lý phức tạp này được hình thành bằng cách giao nhau, xâm nhập
lẫn nhau giữa các trường của các đối tượng riêng biệt.


Có nhiều dạng khơng gian trong địa lý, song đáng chú ý là khái niệm không
gian tuyệt đối và không gian tương đối. Không gian tuyệt đối là một cái khung

trong đó sẽ ghi các đối tượng và sự kiện. Không gian tương đối là khi không
gian trở thành vừa là “vỏ” vừa là “ruột”. Những hiện tượng mà các nhà địa lý
phân tích đã được xem như những bộ phận của khơng gian; thêm nữa, cịn cần
thiết cho việc định chất của khơng gian.
Ngồi ra, cịn có một số định nghĩa khác về không gian địa lý như: Phạm vi
không gian địa lý là bề mặt Trái đất và sinh quyển (O. Dollfus 1970); Không
gian địa lý là không gian con người có thể tới được, sử dụng được (J. Gottmann).
Theo cách hiểu này thì khơng gian địa lý đồng nghĩa với “môi trường địa lý”.
- Không gian kinh tế
Theo quan điểm địa lý, thì “khơng gian kinh tế chỉ là một phần của không
gian địa lý. Không gian kinh tế bao gồm những khu vực ở đó có những điểm
quần cư ổn định hay tạm thời, những khu vực có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhờ đó
có thể thực hiện sự hợp tác, trao đổi và tiếp xúc giữa các khu vực hay điểm quần
cư. Không gian kinh tế gồm cả đất nông nghiệp, rừng đang khai thác, các nguồn
nước, các khu vực nghỉ ngơi, giải trí, du lịch” (S. Lezixki, 1974). Như vậy, khi
xác định không gian kinh tế, theo định nghĩa trên, người ta tập trung nghiên cứu
những phần nào của không gian địa lý có các cơng trình nhân tác và các hoạt
động (kinh tế, văn hóa, khoa học, chính trị, giao tiếp…) của con người diễn ra
trong khơng gian đó.
Theo quan điểm kinh tế, thì các khơng gian kinh tế được xác định bởi
những liên hệ kinh tế, tồn tại giữa các yếu tố kinh tế (F. Perroux, 1964). J.
Boudeville cịn nói cụ thể hơn: “không gian kinh tế vừa là không gian địa lý, vừa
là khơng gian tốn học…, là sự ứng dụng của khơng gian tốn học vào khơng
gian địa lý. Không gian kinh tế là nơi phân bố các liên hệ kinh tế và các quan hệ
ứng xử giữa người sản xuất và người tiên dùng”. Không gian kinh tế là nơi diễn
ra những liên hệ giữa hai tổng thể: các hoạt động kinh tế và các vị trí địa lý.
Như vậy, các nhà kinh tế chú ý phân tích các mối liên hệ kinh tế, mà các
mối liên hệ kinh tế có thể diễn ra bằng ngơn ngữ tốn học: các ma trận, đồ thị,
các phương trình, mạng… Các mối liên hệ kinh tế này lại được thực hiện giữa



các yếu tố kinh tế (các lĩnh vực hoạt động, các ngành kinh tế, các đối tượng kinh
tế…) phân bố trong những không gian cụ thể.
Từ các định nghĩa như trên, cho thấy trong nghiên cứu không gian kinh tế, cần
phải:
-

Nghiên cứu cái “vỏ vật chất” của nó (nhấn mạnh quan điểm địa lý);

-

Nghiên cứu các mối liên hệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống khơng gian
đó, trước hết là các liên hệ kinh tế.

- Không gian địa lý kinh tế
Nhà địa lý Xô viết nổi tiếng E. B. Alaev (1983) trong cơng trình “Địa lý
kinh tế - xã hội: Từ điển khái niệm – thuật ngữ” đã dành hẳn một chương
(chương 20) về không gian địa lý kinh tế. Theo E. B. Alaev, một đối tượng địa lý
bất kỳ (ví dụ, một xí nghiệp sản xuất) đều tác động lên lãnh thổ xung quanh, tức
là lên ba thành phần cấu trúc cơ bản của cảnh quan địa lý: sản xuất, dân cư và
thiên nhiên. Tương ứng, bao quanh đối tượng địa lý đó tồn tại ba trường tương
tác: trường sản xuất, trường xã hội và trường sinh thái. Bên trong mỗi trường
tương tác đó lại có thể tách ra đới có cường độ cao. Tổng hợp lại, thì ba trường
tương tác này tạo nên trường địa lý kinh tế của xí nghiệp. Sự đan cắt của các
trường địa lý kinh tế tương tác với nhau sẽ tạo nên không gian địa lý kinh tế-xã
hội, được đặc trưng bởi tính phức tạp do sự có mặt và sự tương tác của một tập
hợp các đối tượng và có tính thứ bậc ít hơn.
Theo E. B. Alaev, khơng gian kinh tế phản ánh các mối quan hệ về quản lý.
Mỗi đối tượng kinh tế hay tập hợp các đối tượng có quan hệ về mặt quản lý tạo
nên trường kinh tế. Sự đan cắt của các trường địa lý khác nhau tạo nên không

gian kinh tế. Mỗi không gian kinh tế đều có vùng trung tâm và vùng ngoại vi.
Khi cắt nghĩa về mặt địa lý một không gian kinh tế, ta có khái niệm khơng gian
địa lý kinh tế.
Như vậy, trong quan niệm của E. B. Alaev, không gian kinh tế có thể được
xem xét theo hai cách:
-

Theo sự phân bố của đối tượng kinh tế (quan điểm địa lý);

-

Theo mối quan hệ về quản lý (quan điểm kinh tế).


Rất đáng chú ý là quan điểm của các nhà địa lý Pháp trong tác phẩm
“Mondes Nouveaux” (1990) do Roger Brunet chủ biên. Theo quan điểm của các
tác giả Pháp, có thể hiểu rằng ở đây quan niệm về khơng gian kinh tế đồng nghĩa
với quan niệm về không gian địa lý kinh tế. R. Brunet viết: “Không gian địa lý là
sản phẩm của con người, là sản phẩm của xã hội, và trở thành công cụ và môi
trường để xã hội tự tái sản xuất”. Các nhà địa lý nghiên cứu các không gian địa
lý luôn quan tâm đến sự định vị của các đối tượng điểm, đường, các mạng lưới.
Khơng gian địa lý có thể được định nghĩa là tập hợp các vị trí. Xét về góc độ sản
xuất, khơng gian có hai mặt:
-

Khơng gian là tổng thể các địa điểm, các mạng lưới, được ở và sử dụng
=> khơng gian có giá trị sử dụng;

-


Khơng gian là tổng thể các mảnh có chủ sở hữu => khơng gian có giá trị
trao đổi.

Các khơng gian sản xuất là các không gian địa lý cơ bản. Hệ thống sản xuất
theo khơng gian được trình bày trong sơ đồ sau:
Sơ đồ hệ thống sản xuất theo không gian


Lưới hành chính

Nơi làm việc

Chiếm hữu

Sản xuất của cải

Sản xuất bất động sản
và ruộng đất



Quản lý

Mạng lưới thành phố

Nơi cư trú

Khai thác

Luân chuyển

của cải

Trao đổi

Lưới giao thông

Bốn hành động cơ bản được phối hợp trong cơ chế quản lý (về chính trị,
văn hóa, kinh tế, xã hội). Chúng phối hợp với nhau từng đôi một, làm sinh ra
bốn hành động khác (các hình chữ nhật trong sơ đồ). Có bốn cấu trúc không
gian tương ứng là: nơi cư trú, nơi làm việc (sản xuất), hành chính và lưới giao
thơng.
Điều đáng lưu ý là ở sơ đồ trên, các tác giả nhấn mạnh yếu tố quản lý, đặt
yếu tố này ở trung tâm của sơ đồ. Sự quan tâm này của địa lý cũng đã được nhấn
mạnh trong các tài liệu của địa lý Xô viết trước đây. Chẳng hạn, Y. G. Xauskin
(1973) đã viết: “Nhiều nhà địa lý kinh tế Xô viết đã đi tới định nghĩa sau đây về
khoa học của mình: địa lý kinh tế, đó là khoa học về các quá trình hình thành,
phát triển và vận hành của các hệ thống lãnh thổ kinh tế - xã hội và về việc quản
lý các hệ thống này”.
- Không gian kinh tế - xã hội


Nói đến khơng gian kinh tế - xã hội, chúng ta khơng thể nói đến một khơng
gian hay một lãnh thổ trừu tượng, mà phải là không gian hay lãnh thổ của một
quốc gia hay một vùng cụ thể trong một hình thái xã hội nhất định.
Tính lãnh thổ của đối tượng là độ dài khơng gian của nó, nghĩa là có phạm
vi ranh giới, kích thước, là nét tạo hình đặc biệt của đối tượng, là những đặc
điểm khơng gian của bức tranh phân bố các đối tượng trong một phạm vi nhất
định. Trong bất cứ một lãnh thổ nào về một trình độ sản xuất nhất định, một tổng
thể tự nhiên nhất định, một kết cấu tài nguyên nhất định sẽ có một cơ cấu kinh tế
tương ứng. Việc sử dụng các điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử, vị trí địa lý khác

nhau, là cơ sở tác động qua lại các thành phần đó.
Như vậy, với mỗi lãnh thổ có một lịch sử hình thành nhất định, hay nói rõ
hơn khơng gian kinh tế - xã hội có phạm vi của mình, trong đó chứa đựng các
thành phần con người, tự nhiên và sản xuất. Mỗi thành phần đó bao hàm các yếu
tố cấu thành khơng đứng riêng lẻ, cơ lập nhau và chúng có vai trò nhất định tác
động qua lại quan hệ theo các kiểu khác nhau.
Phân hóa khơng gian kinh tế - xã hội của một khu vực có thể coi như hiện
trạng phân bố không gian kinh tế - xã hội của khu vực đó ở một thời điểm nhất
định, chịu sự tác động của phương án tổ chức không gian kinh tế - xã hội ở thời
điểm trước đó (nếu có), hoặc hình thành do sự tương tác khách quan của các yếu
tố tạo nên không gian kinh tế - xã hội.
Sự tương tác của các trường địa lý đan cắt nhau tạo nên một không gian địa
lý kinh tế -xã hội. Các trường địa lý này bao gồm trường sản xuất, trường xã hội
(trường dân cư) và trường sinh thái (trường tài nguyên). Mỗi trường địa lý ở cấp
bậc cao lại được phân chia thành các trường ở cấp bậc thấp hơn. Ví dụ trường
sản xuất có thể chia ra các trường sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp…
Đến lượt mình, mỗi trường sản xuất ở cấp bậc này lại được chia thành các
trường ở cấp bậc thấp hơn nữa, như trong trường sản xuất nông nghiệp chia ra
trường sản xuất ngành trồng trọt, trường sản xuất ngành chăn nuôi…
Mỗi trường địa lý, dù ở cấp bậc nào đi nữa, cũng có những tác động qua lại
với các đối tượng địa lý khác xung quanh nó. Sự tương tác giữa các trường địa lý


tạo nên một không gian địa lý kinh tế - xã hội. Sự tương tác này xảy ra ở mọi cấp
bậc phân chia.
Như vậy, tổ chức lãnh thổ là sự sắp các đối tượng địa lý trên lãnh thổ nhất
định theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội do chủ thể của phát triển vùng tổ chức
(đó chính là cơ quan quản lý nhà nước quy định trong hiến pháp hiện hành). Các
hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội theo các vùng lớn hoặc theo các khu
vực đặc biệt mà các lãnh thổ có đối tượng trọng điểm đầu tư. Tổ chức lãnh thổ

theo các khu vực đặc biệt bao gồm các hình thức chủ yếu: vùng kinh tế trọng
điểm, hành lang kinh tế, khu kinh tế phát triển, khu công nghiệp, đặc khu kinh tế,
tam giác tăng trưởng kinh tế.



×