Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

mot so bai van 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.68 KB, 65 trang )

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Du và "Truyện Kiều"
I.Nguyễn Du
1.Nguyễn Du ( 1765 – 1820 ), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê làng Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trưởng trong một gia đình đại quí tộc có
truyền thống văn học và nhiều đời làm quan.
2.Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội: Xã hội phong
kiến Việt Nam bước vào thời kì khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ
ra liên tục mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn. Phong trào nông dân Tây
Sơn thất bại, chế độ phong kiến triều Nguyễn được thiết lập.
3.Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống nhiều năm phiêu bạt trên đất Bắc( 1786 –
1796 ) rồi về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh ( 1796 – 182). Sau khi Nguyễn ánh lên ngôi,
Nguyễn Du ra làm quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Năm 1813 – 1814, ông được cử làm
chánh sứ sang Trung Quốc, năm 1820 khi chuẩn bị làm chánh sứ sang Trung Quốc lần
thứ hai, nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất tại Huế.
4.Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hoá dân tộc và văn chương
Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho ông một vốn sống
phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là
một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
5.Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn bằng chữ Hán
và chữ Nôm. Về chữ Hán Nguyễn Du có ba tập thơ ( Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp
ngâm, Bắc hành tạp lục ) với tổng số 243 bài. Về chữ Nôm xuất sắc nhất là Đoạn trường
tân thanh, thường gọi là Truyện Kiều, ngoài ra còn có Văn chiêu hồn.
II.Truyện Kiều
1.Nguồn gốc Truyện Kiều: Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa theo cốt truyện Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung Quốc ). Nhưng phần sáng tạo của
Nguyễn Du là hết sức lớn, mang ý nghĩa quyết định đến sự thành công của tác phẩm.
2.Tóm tắt Truyện Kiều
Truyện Kiều bao gồm 3254 câu thơ lục bát và được chia làm 3 phần;
-Gặp gỡ và đính ước
-Gia biến và lưu lạc
-Đoàn tụ


2.Giá trị nội dung và nghệ thuật
a.Nội dung: Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Truyện
Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo, là tiếng nói thương cảm
trước số phận bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng
nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con
người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, công lí, khát vọng tình yêu, hạnh
phúc…
b.Nghệ thuật: Tác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các
phương diện ngôn ngữ và thể loại. Với Truyện Kiều, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ
lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc, từ
nghệ thuật dẫn truyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả
tâm lí con người.
Phân tích bài thơ CON CÒ
CON CÒ
Đã là người Việt nam, ai lớn lên mà chẳng mang theo, dù ít, dù nhiều hơi ấm của những
lời ru, những lời yêu thương êm đềm khi xưa mẹ hát. Đã mang trong mình dòng máu
Việt, ai mà chẳng có một góc tuổi thơ trong sang, hồn nhiên, chập chờn theo đôi cánh cò
trắng ở nơi sâu thẳm hoài niệm, tâm hồn. Chế Lan Viên cũng vậy, ông cũng là người Việt
Nam, dòng máu chảy trong huyết quản ông cũng mang tên Lạc Hồng, có lẽ vì thế, trong
thơ ông, dù là suy ngẫm, dù là triết lí, ta vẫn gặp lời ru ầu ơ của mẹ, ta vẫn thấy kỉ niệm
tuổi thơ nồng cháy, ta vẫn nghe trong gió thong thả nhịp vỗ cánh cò. Và “Con cò” là bài
thơ tiêu biểu cho một hồn thơ như thế, một bài thơ mà chất triết lí, suy tưởng đã hoà làm
một với những lời ca đẹp đẽ nhất ca ngợi tình mẹ, ca ngợi ý nghĩa của những lời hát ru
với cuộc đời mỗi con người.
Trong trang thơ, cánh cò không tự có, không tự hiện hữu bất di bất dịch như muôn vàn
câu chữ của thi ca, nó phải bay ra từ một miền xa xôi lắm. Chế Lan Viên đã đánh thức
cánh cò yên ngủ, gọi cò về với những lời ru ấp ủ trong tâm hồn thi nhân để rồi, qua lời ru
của mẹ trên trang thơ, con cò bắt đầu đến với tuổi thơ diệu kì của đứa trẻ. Dịu dàng, ên ái,
người mẹ bắt đầu thủ thỉ, tâm tình với niềm yêu thương tha thiết: “Con cò bế trên tay
Con chưa biết cánh cò

Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay”
Rất tự nhiên, mẹ thấy con vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn phải bế trên tay mẹ. Con đã biết
cánh cò trắng là gì đâu, con đã biết cuộc đời xung quanh là gì đâu, con chỉ đón nhận cuộc
đời một cách vô thức. Vô thhức thôi nhưng dường như đứa trẻ đã cảm nhận được cánh cò
trắng đang bay đến bên mình, đã nghe thấy âm điệu ngọt ngào trong trẻo của lời ru. Em
chưa hiểu tình mẹ, nhưng mơ hồ, em đã thấy bên em một sự che chở, vỗ về thiêng liêng,
một tình yêu thương êm đềm, trìu mến. Và cánh cò, cánh cò bắt đầu chao lượn trong lời
hát ru con:
Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng
Thi sĩ không trích hết lời ca dao, chỉ gợi thôi mà cả một bầu không khí đã rất xa xăm
bỗng trở về nguyên vẹn. Nơi thanh bình và yên ả. Nơi ấy có cánh cò, có những hình ảnh
rất đẹp đã đi vào tiềm thức không biết bao thế hệ con người. Ở nơi ấy, ta vẫn nghe được
tiếng cuộc đời vất vả, nhọc nhằn của người nông dân và đặc biệt là những người phụ nữ,
những người chị, người mẹ Việt Nam, tiếng những đứa con yêu thương tha thiết, sẵn
sang hi sinh cho con tất cả những cánh cò kia, dù sa cơ, dù chết cũng xin được “xáo nước
trong” để khỏi mang tiếng xấu cho đàn con nhỏ. Dẫu rằng đó là lời hát ru, lời ca dao cách
tân trong thơ hiên đại, cánh cò vẫn mang theo cả nỗi buồn, niềm vui hoà lẫn, khiến người
đọc phải nghĩ, phải suy. Người mẹ ru con trong vất vả, nhọc nhằn càng gieo thêm đắng
cay, cái vị đẵng cay mà Xuân Quỳnh từng không giấu nổi xúc động khi nghe câu hát ấy
trong “gió Lào” và “cát trắng” miền Trung:
“Trong gió nóng những trưa hè ngột ngạt
Mẹ ru tôi hạt cát sạn hàm răng”
Lời ru của mẹ có đứa con bé bỏng, có cánh cò yếu đuối, nó không còn là lời hát ru nữa,
nó là lời tâm tình của trái tim người mẹ nhân từ, bao dung. Khi thì mẹ thương con, khi thì
mẹ thương cánh cò cả cuộc đời yếu đuối. Dù rằng lời ru có mang theo bao điều như thế,
em bé vẫn say ngủ ngon lành. Tình mẹ hoà vào lời ru vẫn vỗ về tâm hồn non nớt, vẫn cho

con niềm yêu thương và che chở tuyệt vời. Bầu không khí của hoài niệm quá khứ dần dần
khép lại, đưa con người trở về với thực tại, với mẹ, với em:
Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ!
Cánh cò mềm mẹ đã sẵn tay nâng
Lời mẹ trứoc kia còn trầm, buồn vang lên trong cái âm điệu dài, xa vắng vậy mà giờ đây
sao trìu mến, sao tha thiết đến lạ lung, vỗ về, nâng giấc tình yêu, thi nhân bước đến
khoảng trời vời vợi chân lí, nơi ấy có một sự thực mà cả đời người kiếm tìm mới chợt
hiểu, nó ở bên ta, nó ở giữa cuộc đời:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.
“Dù”, “vẫn”, sự khẳng định chắc chắn hơn bao giờ hết. Nó hiển nhiên như chính cuộc
đời. Con dù lớn khôn, dù trưởng thành đến đâu, trước long mẹ bao la con vẫn luôn bé
bỏng. Mặt trời con luôn sưởi ấm trái tim mẹ, còn mẹ, mẹ mãi yêu con, yêu con bằng tình
yêu theo bé bước đi mãi mãi. Tình mẹ là thế, bao la, lời ru của mẹ là thế, êm đềm, tha
thiết, suốt đời con được hưởng, suốt đời con tìm thấy, nhưng chắc gì con đã thấu hiểu, cả
cuộc đời mẹ đã gửi vào trong đó tất cả tình cảm, tất cả sự chở che, tất cả tình yêu thương
êm đềm tha thiết:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
( Nguyễn Duy )
Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết những vần thơ như thế vì bằng trải ngiệm ông đã hiểu cái
bao la bất tận của tình mẹ yêu con. Còn Chế Lan Viên, thi sĩ tìm thấy trong cánh cò yêu
thương bay ra từ câu hát, một triết lí thiêng liêng đủ soi rọi mọi tâm hồn tận ngóc ngách
sâu thẳm nhất. Có lẽ phút hiểu ra cái điều cả đời mình tìm kiếm, nhà thơ phải nén lại
niềm xúc động đến rưng rưng trực tuôn trào ra khoé mắt để viết lên cái điều ấp ủ bấy lâu,
rằng tình mẹ là vĩnh hằng, bất diệt, luôn tìm thấy bên cuộc đời chúng ta, rằng long mẹ là
bao la, vô bờ bến, luôn ôm ấp tâm hồn mỗi con người. Với mẹ, con là hơi ấm nồng nàn,
là sự sinh tồn, sự sống, con đem lại cho mẹ hơi sống, niềm hạnh phúc yêu thương lớn
nhất cuộc đời. Ta chỉ có thể nói như vậy về cái quy luật bất biến ấy, vì tự nó đã nói lên tất
cả những điều thấm thía nhất trong cuộc đời. Biểu tượng của long mẹ thì thiêng liêng,

biểu tượng của cuộc đời thì ấm áp:
À ơi
Một con cò thôi
Con cò mẹ há
Còng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi
Đúng như lời nhà phê bình Phạm Thu Yến viết:
“Sau lời à ơi ban đầu, người hát quên mình đang trò chuyện với đứa con, … Người mẹ
dường như đang đối thoại với chính long mình”
lời hát chỉ là lời ru qua cái “à ơi” quen thuộc, còn tất cả, chúng đã thuộc về tâm sự của cả
đời người mẹ, nghĩa là thuộc về cái thế giới nội tâm trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ ru con
từ lúc tóc còn xanh đến khi đầu bạc, nào ai đếm được nỗi buồn vui cuộc đời mẹ đã gửi
vào lời hát. Cánh cò cũng thế, nó mang theo sự phát triển cuối cùng, trở thành cuộc đời,
cũng buồn, cũng vui, còng nông sâu như lßng mẹ, mẹ mang cả vào giấc ngủ của con. Nó
là tiếng long của một người phụ nữ mà cũng là tất cả những người phụ nữ trên dất nước
Việt Nam. Nó là âm thanh của một cuộc đời khắc khổ, một kiếp sống nghèo nhưng chan
chứa niềm hạnh phúc, yêu thương chân thành mộc mạc con người Việt Nam đã ôm ấp từ
muôn thủa ngày xưa, sau luỹ tre làng, bên cây đa, bến nước, mái đình thân thuộc. khi con
cò “vỗ cánh qua nôi’ em bé đâu có biết, cò đã chở theo cả một đời người về bên câu hát,
đời người như mẹ, như chị, như cuộc đời tất cả nhũng người phụ nữ Việt Nam chỉ biết
sống, sống và hi sinh hết thảy, trong lặng lẽ, âm thầm. Cuộc đời ấy, dù đắng, dù cay, dù
khổ đau, dù mất mát vẫn muôn đời là vậy. son sắt, thuỷ chung, cho đến khi nhắm mắt
xuôi tay, cho đến khi ngọn gió cuộc đời ngừng thổi vào cái kiếp người đã thuộc về yêu
thương và nước mắt:
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi
Có bao giờ cánh cò đẹp và thân thiết đến vậy không? Có bao giờ sự liên tưởng của con
người lại trong và tinh kh«i đến vậy ko? để một cánh cò bay ra từ câu hát gợi lên cả niềm
yêu thương và tấm lßng của con người? Cò và em bé như đôi bạn thân thiết, nghĩa là
cũng trong s¸ng cũng hồn nhiên cũng chan chứa biết bao ước mơ và hi vọng như màu
cánh cò trắng, thong thả nhịp bay trên bầu trời xanh thẳm tương lai. Hai người bạn hai

tâm hồn non nớt, Đắp chung đôi cánh ấm áp của cò. Hình ảnh thơ có cái hiện thực của
cuộc đời quanh em bé vừa có cái huyền ảo, lấp lánh của một thế giới cổ tích xa xăm, gợi
lên sự gắn bó thân thiết, cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng bên nhau dù là trong giấc ngủ tuổi
thơ, dù là trên con đường tương lai rộng bước. cánh cò bay ra từ câu hát ru con cũng như
lời ru, cũng như tình mẹ sẽ theo con dù hết cuộc đời. Ôi, với mỗi người, đâu có niềm
hạnh phúc nào bằng niềm hạnh phúc được che chở yêu thương trong tình mẹ bao la, vô
bờ bến, đâu có sự chuẩn bị quý giá nào bằnh tâm hồn trong s¸ng, tinh khôi mẹ ấp ủ cho
con bằng cả trái tim mình. Từ tuổi thơ, mẹ trông thấy trên bước đường con đi , những
buổi cắp sách đến trường đầy niềm vui, hi vọng. Ở n¬i ấy vẫn có cánh cò tuổi thơ, vẫn có
tình mẹ đi theo dìu dắt. Tình mẹ cứ theo con đi suốt năm tháng, trở thành hành trang cho
đứa con bé bỏng bước vào đời. Con sẽ bước đi trong niềm tin mạnh mÏ vì:
Cánh cò trắng bay theo gót đôi chân
Cánh cò tuổi thơ sẽ chắp cánh giấc mơ đẹp đẽ, đưa em đến những phương trời xa. Như
cánh cò trong thơ Trần Đăng Khoa khiêng nắng về đánh thức ngày mới:
“ Cánh cò trắng khiêng nắng qua s«ng…”
Cánh cò cña Chế Lan Viên biết đánh thức cả bầu trời lấp lánh hi vọng những vì sao mơ
ước, cho em thơ tương lai đẹp đẽ, sáng rực lên muôn vạn sắc màu. Và trong muôn vàn
sắc màu rực rỡ ấy, rất nhẹ nhàng đọng lại một thứ màu dìu dịu yêu thương, màu của tình
mẫu tử, để rồi cho con. Đâu rồi cái cánh cò trắc trờ, hiểm nguy trong câu hát thủa xưa,
chỉ còn cánh cò em,, ngủ ngon trong vòng tay mẹ. Em và cò hoá thân vào nhau trong
vòng tay ấm áp yêu thương. Cứ như vậy, em bé ngủ yên trong tình mẹ dạt dào, trong sự
che chở, chăm sóc, nâng niu ẩn chứa yêu thương vô bờ bến. Đứa bé đón nhận tình yêu,
đón nhận lời ru vô thức để rồi mang hơi ấm của lời ru vô thức ấy đi theo suốt cuộc đời.
Lời ru - giọt mật đầu tiên mẹ rót cho em bé trong cuộc đời nó sóng sánh tình mẹ, sóng
sánh không khí của đất tròi thấm vào lời ru. Em ngủ say, ngủ say trong tình mẹ, ngủ say
trong tình yêu thương của đất trời bao la ban cho những thiên thần cho những tâm hồn bé
nhỏ. Và khi ấy, dù:
“ Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mền mẹ hát
Sữa mẹ nhiều con ngủ cgẳng phân vân”

mẹ vẫn gọi con mẹ vẫn nhắc tên con, sự lặp lại những lời yêu thương ấy là lời nhắn nhủ,
lời giãi tỏ tâm tình, tràn đầy tình yêu con. Cánh cò, cánh vạc bay, ngân xa mãi tình yêu
vô tận ấy. Em bé có hiểu tình mẹ ko nhỉ? Nhưng thôi, cứ ngủ đi em ạ, vì còn gì em ả,
thanh bình bằng giấc ngủ của em trong lời ru ầu ơ tha thiết.
Cánh cò đến, trong lời ru tuổi thơ, dịu dàng, êm ái là vậy mà theo ta đi mãi, đi suốt những
chặng đường dài, gắn bó bền bỉ, thân thương cho con người tựa vững chắc nhất
“ Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!”
Lời ru của mẹ vỗ về cho em ngon giấc, nó ngọt lịm, thanh bình như tình mẹ bao thủa vẫn
vậy, vẫn nhẹ nhàng nâng đỡ đời con. Và cánh cò, từ một miền xa xăm nào đó, lại đến
cùng lời mẹ hát ru, chở theo cả niềm yêu thương ấm áp về cùng giấc ngủ trẻ thơ:
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi, rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Lý muôn đời of tình mẹ, of lời hát ru con. Chẳng cần phải rút ra một châm nghiệm to tát,
chẳng cần phải trau chuốt lời văn, ý thơ đâu, nhẹ nhàng thôi, giản đơn thôi, thi sĩ làm xao
xác tận sâu thẳm tâm hồn người đọc;
“ Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuỗng bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con”
Ta tự hỏi lòng chẳng lẽ còn thứ tình cảm tha thiết, mãnh liệt hơn thứ tình cảm kia nữa?
Một tình cảm vượt lên trên tất cả khó khăn, ngăn cách, nối liền những nẻo xa xăm, một
tình cảm có sức lay động, ám ảnh tâm can dù mới chỉ làn đầu nhìn thấy. ôi! Tình mẫu
tử… có lẽ còn thiêng liêng hơn mọi điÒu thiêng liêng nhất. Lặp cấu trúc ngữ pháp ư? đối
ư? Và còn cả điệp từ nữa? đừng hỏi vỉ sao thi sĩ lại viết như thế, vì đâu còn cách nào khác
diễn tả hết sự thiêng liêng cao quý of tình mẹ, of tấm lòng ăm ắp nhân hậu đầy yêu
thương trong trái tim người mẹ dành cho con. Con có thể ngủ yên, có thể vui sướng cắp
sách đến trường, có thể vững bước chắc trên đường đời song gió, tất cả vì đã có tình mẹ
chở che, nâng bước con đi. Dù ở đâu, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, lòng mẹ cũng như

cánh cò kia, vẫn bên con, vẫn lặn lội đi tìm, lặn lội sưởi ấm trái tim con, cho con sức
mạnh, cho con niềm tin vào cuộc sống. Mẹ có thể làm tất cả vì con như cánh cò kia một
đời hi sinh ko mệt mỏi. Lời thơ ẩn chứa một sức mạnh tiềm tàng, một sự khẳng định chắc
chắn: tình mẹ bền chặt sẽ theo con đi suốt cuộc đời, sẽ trở thành một phần tâm hồm ko
thể thiếu, soi rọi mọi nẻo đường con sẽ bước chân qua. Tình mẹ, lònh yêu thương bao la
của mẹ sẽ gửi trọn vào cuộc đời con mãi mãi, vì với mẹ đâu còn thứ gỉ thiêng liêng và
gần gũi hơn con, hơn vầng mặt trời ấm ý nghĩa nhất đời mẹ, hơn lẽ sống mà vì nó mẹ có
thể dâng trọn cuộc đời. Từ gấp lại trang sách, em bé sẽ theo cò bước thẳng vào cuộc đời
mai sau. Kì thực em bé vẫn còn bé bỏng lắm, vẫn còn đang ngủ ngon lành trong cánh nôi
tuổi thơ nhưng ước mơ of mẹ về một tương lai đẹp mai sau cứ theo tình yêu cháy lên mãi.
mẹ độc thoại với chính lònh mình, tự soi long mình trong tình cảm yêu con tha thiết:
“ Lớn lên, lớn lên, lớn lên…
Con làm gì?
Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài kh«ng nghỉ
Trước hiên nh
Và trong hơi mát câu văn…”
Chưa bao giờ ước mơ cháy bỏng, tha thiết đến như thế, mẹ ước mơ và gửi trọn ước mơ ấy
vào đôi chân con mai này sẽ bước trên đường đời, sẽ vươn tới những khát khao mẹ ấp ủ
bằng cả niềm tin. mẹ hỏi lòng và tự trả lời cho câu hỏi: mẹ muốn con làm thi sĩ, mang cái
đẹp đến cho cuộc đời qua những vần thơ về mẹ, về con, về cuộc sống xung quanh đang
từng ngày nuôi con lớn khôn. Mẹ muốn cuộc đời con mãi mãi đẹp. mãi mãi trong sáng
như bài thơ đẹp đẽ nhất. Và bên con, cánh cò vẫn còn đó, vẫn bền bỉ chở ý thơ theo đôi
cánh bay bổng. cò mãi mãi hồn nhiên trong sáng, mãi mãi đem theo ý thơ gắn kết cuộc
đời, cò sẽ còn mãi mãi dịu nhẹ, khẽ lướt trong hơi mát câu văn tô điểm thêm giá trị tinh
thần of cuộc sống, nuôi lớn những tâm hồn đẹp đẽ biết ước mơ. Cánh cò cứ lớn dần, cứ
đẹp dần trong lời ru of mẹ, chở yêu thương đi khắp nẻo thế gian. Cánh cò đã đuợc hình
tượng hoá thành tình mẹ, yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn con. Phải sống trong
cái nôi yêu thương ấy, phải để lêi ru thấm vào từng hơi thở, ta mới chợt hiểu tình mẹ cao
đẹp, bao la quý giá biÕt nhường nào. Mẹ ru con đó là sự yên ổn thanh bình. Từ lâu lời ru

rất đỗi bình dị, từ cánh cò rất đỗi thân quen, thi sĩ đã khái quát thành triết cảm, of tình
mẫu tử thiêng liêng…
_sưu tầm_
"Làng" của Kim Lân thể hiện những chuyển biến mới
trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời
kháng chiến chống thực dân Pháp
Đề bài: Truyện ngắn làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển
biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân
Pháp. Dựa vào đoạn trích trong Ngữ văn 9, tập một, để trình bày ý kiến của em.
DÀN BÀI CHI TIẾT
A- Mở bài:
- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với
những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ
lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần
kháng chiến của người nông dân.
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở
chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một
tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông
dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào
thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê
hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng
xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa
có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh
động và độc đáo ở một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang
rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.
a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai.
- Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.

- Cái làng đó với người nồn dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất
và tinh thần.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.
- Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê
việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái khong khí
“đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí
mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bìh luận, náo nức trước tin thắng
lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay
dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước
sớm”.
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí
ông khi nghe tin làng theo giặc.
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không
tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống
mà đi.
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ
rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại
không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt
ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông
thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Khong khí nặng nề bao
trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay
gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin
đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành
với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi
ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh

với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng
này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa
là ông, bố của nó.
+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho
bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
• Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn
theo giặc).
• Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của
kháng chiến là cụ Hồ được biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền
vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn
sai.
d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng
vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi
sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến
và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí
tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều
sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối
thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính
nhân vật nên rất sinh động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân
thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường.

- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong
nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống
Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành
công đáng quý.
Cảm Nhận Về Ánh Trăng ( Nguyễn Duy) - Ngữ Văn 9
CẢM NHẬN VỀ ÁNH TRĂNG ( NGUYỄN DUY)
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài
thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “
Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê
hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung
và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí
“uống nước nhớ nguồn”. (Nguyễn Vũ Như Ý - học sinh trường PTNK thành phố Hồ Chí
Minh).
Bài do cô giáo Lê Thị Kiều Nga, giáo viên trường THCS Coltete thành phố Hồ Chí Minh,
cung cấp.
========================*****===================== ===
Bài làm:
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài
thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “
Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê
hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung
và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí
“uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca
Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình
muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý
nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó
như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.

Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong
chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng
của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách
khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có
nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ
niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình
ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi
thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của
bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên,
vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên
người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của
bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh
trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi
bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính trong
nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người
lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ
đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm
điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn đầy.
Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của

người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm
hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn
nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn
cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong
tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người không thể
kháng cự lại sự thay đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa
hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi
người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ
ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết. Phép nhân hoá
vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng
trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm
thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn
ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật
khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con
người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con
người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh
thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng
rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất,
người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột”
ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa

lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề
biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở
ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao
giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha
và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết
vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đóan biết trước được.
Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách.
Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những qunh co, uốn khúc . Và
chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái
gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đới.
Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho không bị quở
trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang
cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng
và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn
“tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một
thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông” và có “bể” .Chính
những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt
nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần
nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần
nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều
mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị
mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con
người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà
thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí.
“Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy
suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói
gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như
một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức
tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn
anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy
bọc và che chởù cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi
người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức
tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu
những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay
về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được
vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền
mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâmtình đã gấy ấn tượng mạnh
trong lòng người đọc/./
Đọc truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang
Sáng
ĐỌC TRUYỆN NGẮN “CHIẾC LƯỢC NGÀ” CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG
Câu chuyện viết về tình cha con của những người kháng chiến, những người cách mạng.
Nhưng đó cũng là tình phụ tử muôn đời.
Truyện không dài, tình tiết không li kì, tư tưởng cũng không phức tạp. Nó chân thực và
giản dị, vì thế mà cảm động. Ấy là cốt cách của một truyện hay.
Truyện nói đến ba nhân vật: một người con và hai người cha. Truyện viết về hai cuộc gặp
gỡ ngắn ngủi, éo le: cuộc gặp gỡ đầu tiên mà cũng là cuối cùng của cô con gái với cha
mình và cuộc gặp gỡ cũng của người con ấy với bạn chiến đấu của người cha đã hi sinh.

Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá, chính nó đã nối hai cuộc gặp gỡ với ba
con người: chiếc lược ngà. Nhưng vang vọng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời,
suốt những cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị mà thiêng liêng bậc
nhất của cõi đời này: Ấy là tiếng Ba.
Nhìn từ tình huống truyện, Chiếc lược ngà là một truyện ngắn không chỉ có một tình
huống duy nhất mà có hai tình huống, mỗi tình huống xoay quanh một cuộc gặp gỡ. Mỗi
tình huống ấy là hạt nhân của một truyện nhỏ mà ta có thể gọi thành tên: truyện nhỏ thứ
nhất có thể gọi là Cái thẹo của cha, truyện nhỏ thứ hai là Chiếc lược cho con. Truyện thứ
nhất làm tiền đề cho truyện thứ hai. Hai truyện nhỏ liên hoàn tạo thành một truyện lớn
hoàn chỉnh.
Đó là dạng tình huống giàu kịch tính. Vì thế cũng có thể xem Chiếc lược ngà như một vở
kịch nhỏ gồm hai màn khá rõ rệt. Mỗi màn là một cuộc gặp gỡ éo le mà cảm động.
* *
*
Hãy nói về cuộc gặp gỡ thứ nhất. Khi ấy, nhân vật Thu còn là một cô bé. Người cha được
về thăm nhà sau bao nhiêu năm ở chiến khu. Khao khát đốt lòng ông là được gặp con, là
được nghe con gọi tiếng ba, để được sống trong tình cảm cha con, mà lâu nay ông chưa
từng được sống, bấy lâu ông mong đợi. Nhưng mọi chuyện đã diễn ra không ít trái ngang.
Đứa con gái đã hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha. Ông càng xích lại
gần, nó càng lùi xa. Ông càng chiều thương, nó càng lảng tránh. Ông càng khao khát
được nghe tiếng ba từ lòng con, nó càng cố tình cự nự. Ngọn lửa nồng nàn của lòng cha
cứ bị những đối xử xa lánh, ương ngạnh của con giội xuống những gáo nước lạnh. Có
những tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng được nữa, ấy thế mà nó vẫn
quyết liệt. Đó là lúc cơm sôi, một mình nó bé, không thể tự nhấc nồi để chắt nước. Nó đã
phải cầu cứu đến người lớn. Tình thế khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải thua, không
thể chiến tranh lạnh được nữa - nó buộc phải gọi ba để được giúp đỡ. Nhưng không. Nó
vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong! Chỉ cần nói lên cái tiếng ba ấy thôi, là
nó sẽ thoát khỏi thế bí. Nhưng quyết không! Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh, bất
cần! Tự mình làm lấy một công việc nguy hiểm và quá sức! Nghĩa là nó không chịu
nhượng bộ, không chịu thua cuộc. Điều ấy đã làm cho người cha, người bạn của cha và

cả người đọc đau lòng. Còn gì đau lòng cho bằng người cha giàu lòng thương yêu con,
mà lại bị chính đứa con ấy kiên quyết chối bỏ!
Nhưng, khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng
quý! Chính thái độ quyết liệt ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm
người con dành cho cha. Đơn giản vì bấy giờ, cô bé thấy vết thẹo dài trên má người đang
xưng là ba đây không giống với ảnh cha mình. Cô bé không tin, và thậm chí còn ngờ vực.
Điều đáng nói là cô bé không dễ tin người khác. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha.
Nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình, thì cô bé vẫn chưa
chịu thông. Còn chưa thông thì còn chưa chịu. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của
một con bé đỏng đảnh, nhiễu sách, mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập
trường. Đây chính là cái mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường
của chị giao liên giải phóng. Đến khi được ngoại giảng giải về lai lịch vết thẹo trên má
ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người ba thân yêu trên ảnh, người ba
kính mến mà cô bé ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy, mới nhập vào người đang xưng ba có
vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ, thì lòng yêu ba nhân lên gấp bội. Nhưng muộn quá, đúng lúc
ba từ giã lên đường, nó mới có thể gọi ba. Tiếng ba vỡ ra từ sâu thẳm lòng cô bé. Cái
tiếng mà ba nó đã chờ đợi suốt chín năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày trời về
bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe, thì bất ngờ, nó thét lên. Nó vỡ ra, còn
lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung
sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa: Nhưng thật lạ lùng, đúng lúc ấy,
tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng
kêu thét lên:
- Ba… Ba!
Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót
xa. (…). Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:
- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!
Ba nó bế nó lên. Nó hôn ba nó khắp mọi nơi. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết
thẹo dài trên má của ba nó nữa. Đối với người cha ấy, đó là tiếng gọi ba đầu tiên và cũng
là những tiếng cuối cùng ông nghe được từ con!
Có thể còn kể thêm nhiều nét tính cách khác ở nhân vật Thu, nhưng đây là vẻ đẹp cốt lõi

của hình tượng nhân vật này khi còn là một cô bé.
Còn người cha, ông cũng có nhiều nét đẹp khác như chiến đấu ngoan cường, trung thành
với cách mạng, gắn bó với quê hương, đồng chí, đồng đội… Nhưng vẻ đẹp nổi bật nhất
được tô đậm ở đây chính là tình phụ tử. Những ngày chưa được gặp con, người cha ấy
khổ sở nôn nao bao nhiêu, thì giây phút được nhìn thấy con, ông càng vồ vập, cuống quýt
bấy nhiêu. Và khi con không nhận mình ngay, ông đã đau khổ và kìm nén đau khổ như
thế nào. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy chỉ là thứ yếu. Điều cảm động nhất là việc
tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba, đó
là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối
với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên mà cũng là duy nhất. Cho nên, nó cứ thôi thúc
trong lòng. Kiếm cho con cây lược, trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu
khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông đã làm công việc ấy bằng tất cả sức mạnh và sự cố
gắng của tình phụ tử. Ông đã ngồi bật dậy như bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược
cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua
sắm được cây lược. Làm lược từ ngà voi là cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế,
sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm - chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng
thứ quý giá ấy. Và, anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt vào
đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi mặt anh hớn hở như một đứa trẻ
được quà. Vậy đấy, khi người ta hóa thành con trẻ, lại chính là lúc người ta đang hiện lên
cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi, anh ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận
trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc, anh gò lưng tẩn mẩn khắc từng nét: Yêu nhớ
tặng Thu con của ba. Anh thường xuyên lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho
cây lược thêm bóng, thêm mượt. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ
nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Cho nên cây lược ngà
đã kết tinh trong đó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kì diệu làm
sao!
Thế rồi, anh không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay cho con. Người cha ấy đã hy sinh.
Nhưng hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được. Không còn đủ sức trăng trối
điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc đưa tay vào túi, móc
cái lược đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều

trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc. Bởi đó là sự ủy
thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử!
Bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một
người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.
* *
*
Và cuộc gặp gỡ thứ hai đã diễn ra. Giữa hai cuộc gặp gỡ, cô bé Thu bướng bỉnh ngày nào
đã kịp trở thành cô giao liên giải phóng. Cô đã được tin ba mình hy sinh. Lòng căm thù
giặc giết hại người cha thân yêu đã khiến cô cầm súng. Vậy là, đi đánh giặc, với Thu
trước hết cũng là xuất phát từ tình phụ tử. Có lẽ, Thu cũng đã quên chuyện cây lược thuở
bé rồi! Nhưng cây lược ấy vẫn được gìn giữ cẩn trọng và vẫn thầm lặng tìm cô trên
những ngả chiến trường.
Cuộc gặp gỡ thứ hai vừa tất yếu vừa tình cờ. Tất yếu vì sớm muộn gì rồi cũng sẽ diễn ra.
Còn tình cờ vì cả bác Ba lẫn cô Thu đều không thể ngờ rằng họ gặp gỡ trên đường chiến
đấu và lại cũng trong thời khắc ngắn ngủi thế. Trước kia, Thu không nhận ba vì nhầm vết
thẹo. Còn bây giờ cũng có một thoáng không nhận vì nghĩ rằng bác Ba đã nhầm. Nhưng
thực ra chẳng có ai nhầm! Người cần trao cây lược, bác Ba đã tìm thấy.
Nếu trong những ngày mang chiếc lược, sự cẩn trọng nâng niu đã thực sự khiến bác Ba
trở thành một người cha, thì giờ đây khi nhìn cô bé Thu, tình cha con đang dâng lên trong
Bác: Thấy cháu nhìn ngắm cây lược, tim tôi nhói đau. Tôi biết cháu đang bàng hoàng
trước hạnh phúc bất ngờ. Tôi không muốn làm gì xao động đến hạnh phúc của cháu, tôi
thấy cần phải nói dối :
- Ba cháu vẫn khỏe, ba cháu không về được, nên gửi cho bác (…)
Nhìn cháu tôi bỗng buột miệng :
- Thôi, ba đi nghe con!
Tôi không nghe cháu đáp lại, chỉ thấy đôi môi tái nhợt của cháu mấp máy.
Trong cuộc chia tay thứ nhất, tiếng ba của bé Thu kêu thét lên xé tan sự im lặng, xé cả
gan ruột mọi người, đó là tiếng gọi ba của một đứa trẻ. Còn trong cuộc chia tay thứ hai
này, tôi không nghe cháu gọi tôi là ba. Nhưng những lúc nằm một mình, nhớ lại thì tôi
nghe tiếng gọi ba của cháu và tiếng ba như vang lên từ trong tâm tôi. Ấy là tiếng gọi ba

của một người lớn. Một tiếng ba ngây thơ, bồng bột, và một tiếng ba mặn mà, từng trải
của những người đã chịu đựng mất mát hy sinh. Tiếng ba nào cũng chân tình và tự nhiên
bởi nó buột ra từ trong tâm khảm con người. Tình phụ tử cao đẹp cứ truyền qua lồng
ngực những người cha như một dòng máu bất tận. Và tình cha con cũng dào dạt muôn
đời bất diệt trong lòng những đứa con. Tình người thiêng liêng ấy không kẻ thù nào có
thể tiêu diệt được, trái lại, nó càng sáng đẹp hơn, bền bỉ hơn trong đạn bom tàn phá. Đó
chẳng phải là điều sâu kín nhất mà truyện ngắn Chiếc lược ngà muốn gửi đến mỗi người
đọc chúng ta hay sao?
ảm nhận về nhân vật Nhĩ trong tác phẩm "Bến quê"
Cảm nhận về nhân vật Nhĩ trong tác phẩm "Bến quê" của Nguyễn Minh Châu
Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống
Mỹ ,Nguyễn Minh Châu có nhiều những tìm tòi quan trọng góp phần đổi mới
văn học nưu?c nhà .Truyện ngắn của ông thưuờng chứa đựng những suy
ngẫm trải nghiệm sâu sắc về con ngưuời và cuộc đời . “Bến quê ” là tác phẩm
tiêu biểu cho đề tài đó .
Toàn bộ câu chuyện xoay quanh nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời
.Chuỗi nghịch lý bắt đầu chính trong những ngày ấy .Bị cột chặt trên giuờng
bệnh ,Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông .Cảnh vật nơi
ấy đẹp nhưu thơ nhưu hoạ :Những bông bằng lăng cuối mùa thưua thớt
nhung đậm sắc ,con sông Hồng màu đỏ nhạt ,ánh nắng sớm ,vùng phù sa lâu
đời của bãi bồi bên kia sông …Những cảnh sắc vốn quen thuộc gần gũi
nhưung duường nhuư rất mới mẻ đối với anh .Chính vào lúc nhận ra vẻ đẹp
và sự giàu có của bến quê cũng là lúc Nhĩ hiểu ra một cách đau xót ,bởi một
ngưuời “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất ” lại chưua
từng đặt chân lên “cái bờ bên kia sông Hồng ngay truước cửa sổ nhà mình ”.
Căn bệnh liệt gắn chặt Nhĩ vào giưuờng bệnh .Mọi sinh hoạt của anh trông cả
vào sự chăm sóc của vợ con . Sáng hôm ấy ,bằng trực giác ,anh nhận ra thời
gian của mình chẳng còn bao lâu nữa ,anh mới cảm nhận thấm thía về nguười
vợ của mình .Nhĩ để ý “thấy Liên mặc áo vá ”, “những ngón tay gầy guộc âu
yếm vuốt ve bên vai anh ”,anh nói với vợ những lời xót xa, ân hận : “Suốt đời

anh chỉ làm em khổ tâm ”.Giờ đây Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn vợ
sâu sắc bởi “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng
hy sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ điều đó, mà sau nhiều tháng ngày
bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nưưuơng tựa là gia đình trong
những ngày này ”.Nhĩ -con ngưuời của một thời huy hoàng, cho đến khi không
còn khả năng đi lại mới phát hiện ra vẻ đẹp của bến quê cũng nhưu sự tảo tần
và đức hy sinh của vợ .Trưuớc khi ốm anh chỉ biết đến những chân trời xa
ngát với những công việc cao sang mà thờ ơ ,vô tình với tất cả những gì gần
gụi xung quanh ,kể cả nguười vợ suốt một đời yêu thuương và tận tuỵ .Sự thấu
hiểu muộn màng trong những ngày cuối đời dù sao cũng đem lại cho anh sự
bình yên, tin cậy sau cả một đời bôn tẩu ,kiếm tìm .
Song nghịch lý của câu chuyện không chỉ có thế .Cũng trong buổi sáng hôm
ấy, khi nhận ra vẻ đẹp qua ô cửa sổ ,Nhĩ bừng dậy nỗi khát khao cháy lòng và
vô vọng là một lần đuược đặt chân lên bãi bồi bên kia sông .Khát khao đó
mang ý nghĩa sâu sắc bởi đó chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững
,bình dị mà sâu xa của cuộc sống ,những giá trị dễ bị ta vô tình ,bỏ qua và
quên lãng nhất là lúc còn trẻ khi những khát vọng xa vời vẫy gọi , cuốn nguười
ta đi .Sự nhận thức này chỉ đến đưưuợc với ta khi đã từng trải .Với Nhĩ ,đó là
lúc cuối đời khi phải nằm liệt trên giưuờng bệnh.Vì thế đó là sự thức tỉnh pha
lẫn niềm ân hận xót xa : “Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải ,đã từng in gót
chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết mọi sự giàu có lẫn vẻ đep của
bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng
anh khám phá thấy giống nhuư một niềm say mê pha lẫn nỗi ân hận đau đớn ”
. Với anh, bây giờ đó thực sư? là miền đất xa lắc vì Nhĩ “lực bất tòng tâm ” ” .
Không thể tự làm điều mình khao khát,Nhĩ nhờ con trai thay mình sang
sông ,đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ .Oái oăm thay ,đứa con không hiểu
ưuớc muốn của cha ,đã đi một cách miễn cưưuỡng và bị cuốn vào trò chơi phá
cờ thế trên hè phố .Cậu con trai có thể lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.Từ
đó Nhĩ nghiệm ra một qui luật khá phổ biến của đời ngưuời “Con nguười ta
trên đưuờng đời thật khó tránh đuợc những điều vòng vèo hoặc chùng

chình”.Anh không trách con vì “nó đã thấy gì hẫp dẫn bên kia sông đâu ”.
Ở cuối truyện ,khi Nhĩ tuưởng tuượng chính mình như một nhà thám hiểm
đang chậm rãi đặt từng bưuớc chân lên mặt đất dấp dính phù sa .Nhĩ xúc
động mạnh ,chân dung anh khác thưuờng “mặt mũi đỏ rựng ,hai mắt long
lanh chứa môt nỗi say mê đầy đau khổ ”.Khi con đò sắp chạm vào bờ đất bên
này ,Nhĩ thu hết tàn lực ,đu nguười lên cửa sổ ,giơ cánh tay gầy guộc “khoát
khoát y nhuư đang khẩn thiết ra hiệu cho một ngưuời nào đó ”.Phải chăng
anh đang nôn nóng thúc giục con trai hãy mau hơn kẻo lỡ chuyến đò duy nhất
trong ngày ?Và duờng nhưu nó còn có ý nghĩa khái quát hơn :Muốn thức tỉnh
mọi ngưuời vưuợt lên những cái vòng vèo hoặc chùng chình trên đưuờng đời
để hứơng tới những giá trị đích thực vốn rất gần gũi bình dị mà bền vững !
Bằng cách tạo dựng chuỗi nghịch lý để nhân vật tự nhận thức,suy ngẫm và
cách xây dựng nhiều hình ảnh ,chi tiết mang ý nghĩa biểu tưuợng tác giả đã
tạo nên ý nghĩa sâu xa cho tác phẩm.Ngòi bút miêu tả thiên nhiên đẹp ,tinh
tế ,giọng văn thầm trầm ẩn chứa những chiêm nghiệm ,suy ngẫm của tác giả
đã góp phần không nhỏ tạo nên những ấn t?ương riêng cho tác phẩm .
Những dòng cuối cùng của “Bến quê” khép lại
nhuưng dưu âm từ những trải nghiệm sâu sắc của
nhà văn về cuộc đời và con ngưuười dưuờng nhưu
vẫn còn lan toả đâu đây,thức tỉnh trong ta sự trân
trọng vẻ đẹp về những gì bình dị ,gần gũi của gia
đình ,quê hưuơng ,xứ sở .
Bức tranh tâm trạng qua tám câu cuối đoạn trích
“Kiều ở lầu Ngưng Bích
Nếu toàn cảnh Truyện Kiều có bộ tranh thơ Tứ Bình nổi tiếng, thì ở một góc độ nào đó,
bốn khung tranh tâm trạng độc đáo này cũng là bộ Tứ Bình về cảm xúc. Vừa có nhạc
điệu từ điệp từ liên hoàn buồn trông, vừa khắc họa cảnh sắc từ nhiều góc độ, tám câu cuối
Kiếu ở lầu Ngưng Bích thật đúng là một trong những đoạn thơ đỉnh cao trong hơn ba
nghìn dòng thơ Truyện Kiều.
Chủ đề: Bức tranh tâm trạng qua tám câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

Nền văn học Việt Nam xưa được ví như bức tường cao dày của xúc cảm và tri thức.
Trước những bước đi của thời gian, dường như nó càng thêm vững chãi, uy nghi và lộng
lẫy hơn bao giờ hết. Bằng chứng là, dù có mấy trăm, mấy nghìn năm trôi qua, người ta
vẫn không ngừng lần mò, tìm về với tinh hoa nghệ thuật của nền cổ văn vốn đã ít nhiều
nằm khuất dưới lớp bụi mờ thời gian. Một trong những thi phẩm cho đến tận bây giờ vẫn
không giảm sức hút, vẫn được cho là còn quá nhiều để hiểu, để khám phá, chính là Đoạn
trường tân thanh- kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, biểu tượng lớn cho văn học trung
đại Việt Nam. Xuyên suốt tác phẩm là nét gợi hình, tả cảnh, lối tự sự độc đáo, đầy sáng
tạo. Không ngoại lệ, nghệ thuật tả tâm cũng là yếu tố đẩy Truyện Kiều lên đỉnh cao rực
rỡ. Hai mươi dòng lục bát Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ ánh nhìn sâu của Nguyễn
Du trong từng xúc cảm mỏng manh của Kiều.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện- Gia biến và lưu lạc, như những cụm mây đen
đầu tiên che phủ lên cuộc đời Kiều. Đành đoạn dứt tình với Kim Trọng, nàng nguyện
hiến thân cứu cha. Cái trong trắng của một tiểu thư từ nhỏ được mẹ cha bảo bọc, tình phụ
tử sâu nặng và lòng hiếu thảo của đứa con ngoan đã đẩy nàng Kiều vào vòng lừa lọc từ
những kẻ buôn người. Nỗi uất ức của nàng được Tú Bà xoa dịu bằng ngày tháng giam
cầm ở lầu cao với cớ rằng để nàng tịnh tâm, bình phục. Ngọn lầu ấy tên là Ngưng Bích,
một cái tên quá đẹp so với những cô đơn, tẻ nhạt mà nàng Kiều phải trải qua tại đây. Tọa
lạc ở một vùng nổi tiếng với kỹ nghệ ngọc trai thu hút nhiều thương gia, lầu Ngưng Bích
như hạt ngọc bích quý giá ngưng đọng, cốt để khóa chặt cái thời xuân sắc tươi đẹp nhất
của người con gái họ Vương. Trái hẳn với không khí buôn bán sầm uất bên ngoài, bao
trùm lấy không gian trong lầu chỉ là tiếng sóng vỗ ào, ngọn gió biển nặng nề lướt qua, và
những suy tư khó nhọc của một phận hồng nhan. Lầu Ngưng Bích nói cho cùng cũng chỉ
mới là điểm khởi đầu cho đắng cay về sau của Kiều, nhưng âm điệu buồn da diết của cả
đoạn trích đã cho thấy bao đau thương dồn nén trong hồn người, thấm đẫm cả một vùng
trời đất rồi lại sắt se vào lòng. Một khoảng mênh mang trĩu nặng trao qua nhận lại giữa
người với cảnh đã làm nên khúc thiên sầu Kiều ở lầu Ngưng Bích, đặc biệt là tám dòng
tuyệt bút cuối cùng.
Chưa bước vội vào tấm tranh ảm đạm của tâm trạng nàng Kiều, Nguyễn Du khéo léo gợi
mở trước không gian nơi lầu son cao đẹp về hình thức nhưng mang đến cho con người ta

cái bi thảm về tinh thần. Nếu nói sáu dòng thơ mở đầu là bức họa bằng ngôn từ thì đó thật
sự là một bức họa đẹp. Có núi chập chình ngoài xa, có vầng trăng treo trên đỉnh đầu,
không gian khoáng đãng mênh mông. Nhưng trong cái cao rộng mỹ mãn của thiên nhiên
lại thiếu nét đẹp con người. Khung cảnh mờ ảo chìm trong cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm
kia vắng vẻ đến quạnh hiu, nàng Kiều dường như chỉ là cái bóng nhỏ lạc lõng giữa cảnh
vật xung quanh. Một ngày từ sớm cho đến khuya, Kiều chỉ biết quanh quẩn với mây với
đèn. Nàng đối cảnh nhiều tới nỗi một phần đất trời quạnh quẽ như hóa tâm trạng, làm
dâng đầy cái niềm xót xa đau đáu trong lòng bấy lâu. Càng hướng ra thiên nhiên, Kiều
càng thấy rõ sự cô đơn vây kín từng ngày, càng day dứt khôn nguôi, nhớ cha, nhớ mẹ và
nhớ chàng Kim ngày nào cùng hẹn ước. Với Kim Trọng, nàng vẫn chưa thể dẹp yên suy
nghĩ phụ bạc, chính nàng đã tự tay cắt đứt sợi tơ hồng, đã đẩy chàng vào mỏi mòn trông
ngóng. Niềm tin sắt đá vào lời thề dưới trăng đêm ấy sẽ là lưỡi dao nhọn đâm vào tim
chàng, khi mà giờ đây, thân phận nàng đã “hạc nội mây ngàn”, không biết rồi lưu lạc về
đâu. Kiều bây giờ có lẽ đã thấm thía cái trơ trọi, bơ vơ nơi đất khách, nhưng mối tình đầu
đẹp như mộng ngày ấy vẫn gieo cho Kiều khát vọng son sắt, thủy chung. Với cha mẹ,
nàng thương xót hình dung cảnh đấng phụ thân, phụ mẫu thấp thỏm chờ trông. Qua cơn
biến cố, rồi mẹ cha sẽ như thế nào? Nàng đi rồi, ai lo phụng dưỡng bậc sinh thành? Đành
là dứt tình vì cha, nhưng trong tận thâm tâm một đứa con hiếu thảo, bấy nhiêu vẫn chưa
thật tròn đạo làm con. Hết cái day dứt phụ tình Kim, nàng lại nghĩ đến cái tội phụ công
sinh dưỡng, không thể chăm sóc cha mẹ khi về già là một trong những nỗi niềm cứ canh
cánh trong Kiều lúc bấy giờ. Từ những nỗi niềm buồn thương đó, cụ Nguyễn Du đã khéo
léo tô thêm màu xám trên ánh nhìn xa xăm của Kiều, đẩy sầu não lên thành đỉnh điểm,
qua tám câu khép lại đoạn trích:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Tâm trạng buồn nhớ của Kiều giờ đi cả vào ánh mắt. Người buồn thì cảnh cũng buồn.
Vẫn là cảnh đó, không gian đó, nhưng đã chất chứa phần nào nỗi lòng Kiều. Khung tranh
buồn thứ nhất mở ra ngay thời điểm chiều hôm- là thời điểm quen thuộc của nghệ thuật,
của những lưu luyến khó tả. Cửa bể chiều hôm gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng
leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung

quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như
niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Cửa biển trong ánh
chiều tà yếu ớt bao trùm luôn cả những con thuyền căng buồm lộng gió ngoài xa- những
con thuyền chở hy vọng của nàng Kiều được một lần tự do ngoài bầu trời rộng mở, vượt
khỏi cái tù túng tẻ nhạt nơi lầu son gác tía. Những cánh buồm đều ở rất xa, thoắt ẩn thoắt
hiện trong ánh hoàng hôn trĩu buồn, như niềm hy vọng của nàng chỉ là những chấm nhỏ
ngoài khơi xa mịt mờ, những từ thấp thoáng, xa xa càng khiến hy vọng nhạt nhòa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Qua khung tranh thứ hai, vẫn là ánh nhìn vào nước, nhưng đã gần hơn. Có lẽ nào nàng
Kiều đã bắt đầu nhượng bộ trước những xa xăm của cuộc đời, nhìn gần để có thêm ít hy
vọng, dù nhỏ. Ngờ đâu, cái mà nàng trông thấy còn dữ tợn hơn bội phần. Cánh hoa mỏng
manh dập dìu trước ngọn nước từ trên cao đổ xuống. Thử hỏi, cánh hoa mỏng manh ấy
làm sao chịu nổi sức nước tràn? Thân phận Kiều cũng vậy, quá bé nhỏ trước dòng đời.
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho thấy sự nhạy cảm của Kiều. Cái man mác trôi của hoa thể
hiện cái băn khoăn, lo lắng cho thân phận lạc loài, vô định của nàng. Kiều bây giờ cũng
như bông hoa kia, không còn người thân bên cạnh, tự nàng phải bước lên những chông
gai của cuộc đời.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Rồi Kiều bắt đầu đảo mắt đến cái sắc xanh nối tiếp của trời và đất. Tuy nhiên, bãi cỏ
không mang màu xanh tươi như tiết thanh minh tháng ba, từ láy rầu rầu gợi cho ta sự tàn
úa đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất nhưng xanh nào cũng là màu xanh tàn
úa, héo hắt. Màu xanh tàn héo ấy khiến xanh xanh cả đất trời. Kiều nhìn vào màu xanh
mong tìm kiếm chút hy vọng nhỏ nhoi lần nữa, nhưng cũng như những lần trước, Kiều
quay đi với nỗi thất vọng ngập tràn. Cảnh buồn hay vì người buồn nên cảnh mới buồn thì
không biết, chỉ biết lần này, nàng Kiều đã thật sự tuyệt vọng, chẳng còn đối cảnh nào
khiến nàng thấy ý muốn níu kéo của mình là đúng. Mọi thứ đều đưa nàng vào suy nghĩ
dằn vặt và đau xót hơn.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

žm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Trong lúc tuyệt vọng nhất, Kiều thấy mình dường như chao đảo. Từng ngọn gió mạnh
thổi sóng vỗ ầm ầm. Quang cảnh đã thôi yên lặng, mặt biển dậy sóng, lòng Kiều cũng
dậy sóng. Những đợt sóng dữ dội như dự báo trước điều bất an, như cảnh báo một tương
lai bão táp đang chờ Kiều trước mắt. Người con gái tài sắc trong hoàn cảnh đó đã hoảng
loạn vô cùng.
Tám dòng thơ cuối này tạo nên bốn khung tranh tâm trạng của nàng Kiều. Mỗi khung
tranh là một trạng thái tâm lý khác nhau. Điệp từ buồn trông diễn tả cái tăng tiến đến
choáng ngợp của từng cung bậc xúc cảm trong Kiều. Nỗi buồn tủi ban đầu đã dồn nghẹn
trong lòng thành niềm lo sợ về thân phận lạc loài, cái héo hắt, tuyệt vọng trước thực tại,
trào ra thành nỗi hoảng sợ tột độ, hoàn toàn mất phương hướng. Yếu tố không nhỏ giúp
cho sự tăng tiến về cảm xúc trở nên dữ dội mà lại sít sao, tự nhiên vô cùng chính là hệ
thống từ láy tầng tầng lớp lớp, khiến mấy dòng thơ từ tha thiết trở thành mạnh mẽ, từ
mạnh mẽ lại trở về tha thiết. Có thể nói, đại thi hào Nguyễn Du là một nhà bác học của
ngôn từ và cảm xúc. Những từ ngữ ông sử dụng luôn uyên thâm nhưng vững nghĩa và dễ
hiểu. Nghệ thuật dụng từ trong tám câu cuối của đoạn trích này đã góp phần đưa nó thành
thiên sầu khúc. Ngoài ra, cái tài của cụ Nguyễn là vừa để cho Kiều nhìn cảnh bằng con
mắt chủ quan của tâm trạng, lại vừa ngầm thể hiện sự xót thương thân phận người trong
cảnh từ địa vị của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, làm cho dòng thơ có sức gợi cảm mãnh
liệt, chinh phục bao tầng lớp độc giả.
Nếu toàn cảnh Truyện Kiều có bộ tranh thơ Tứ Bình nổi tiếng, thì ở một góc độ nào đó,
bốn khung tranh tâm trạng độc đáo này cũng là bộ Tứ Bình về cảm xúc. Vừa có nhạc
điệu từ điệp từ liên hoàn buồn trông, vừa khắc họa cảnh sắc từ nhiều góc độ, tám câu cuối
Kiếu ở lầu Ngưng Bích thật đúng là một trong những đoạn thơ đỉnh cao trong hơn ba
nghìn dòng thơ Truyện Kiều.
(sưu tầm)
(ST) Cảm nhận về tình cha con trong truyện "Chiếc
lược ngà"
Cảm nhận về tình cha con trong truyện "Chiếc lược ngà"
Truyện “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng)

được viết trong cuộc kháng chiến chống Mĩ nhưng
chủ yếu tập trung nói về tình người trong cảnh ngộ
éo le của chiến tranh. Đoạn trích “Chiếc lược ngà”
(Sgk Văn 9, tập I) thể hiện tình cha con thắm thiết,
sâu nặng của ông Sáu và bé Thu.
Ông Sáu về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu với
cái tình của người cha nôn nao, cháy bỏng khát
khao được gặp con. Nhưng ngay từ giây phút đầu,
điều mà ông bấy lâu mong đợi được nghe con gái
gọi tiếng “Ba !” không được đền đáp. Đứa trẻ hoàn
toàn ngơ ngác, lạnh lùng, đối xử với ông như người
xa lạ. Với lòng mong nhớ con, ông càng đón chờ
tình cảm của con, nó càng cố tình cự nự. Điều đó,
khiến ông đau đớn “hai tay buông xuống như bị
gãy”. Có những tình huống, tưởng chừng thế nào nó
cũng chịu thua, không ương ngạnh được nữa, phải
gọi tiếng “Ba”. Nhưng nó vẫn không chịu cất tiếng
“Ba” mà ông Sáu chờ đợi.
Hành động trẻ con, nói năng cộc lốc, ngang ngạnh
của Thu dành cho Ba khiến ông Sáu, bạn ông Sáu
và cả người đọc đau lòng và suy nghĩ. Khi có gia
đình, hạnh phúc được làm cha, tiếng gọi “Ba” của
đứa con gái yêu chưa dành cho ông khiến ông “khổ
tâm đến nỗi không khác được, chỉ biết nhìn con vừa
khẽ lắc đầu vừa cười”.
Phản ứng tâm lí của Thu là hoàn toàn tự nhiên. Thu
còn quá bé để có thể hiểu tình thế éo le xảy ra trong
chiến tranh. Bản thân người lớn cũng chưa ai chuẩn
bị cho Thu ứng phó với bất thường. Điều đó, người
đọc cảm được tình cảm chân thật, sâu sắc, mãnh liệt

Thu dành cho ba - người mà Thu biết trên ảnh,
người cha được cô bé ghi sâu trong lòng từ tấm ảnh,
không phải người đàn ông xưng là "ba".
Đến khi được bà ngoại tháo gỡ thắc mắc trong lòng,
về lai lịch vết thẹo, Thu vỡ lẽ đó thực là ba mình.
Trăn trở dằn vặt, cùng tình yêu, khát khao bấy lâu
mong gặp mặt cha dồn nén, bùng nổ dữ dội, quyết
liệt vào giờ phút trước khi người cha lên đường.
Tiếng “Ba a a ba !” vỡ ra từ sâu thẳm lòng cô
bé. Tiếng kêu mà ba nó chờ đợi bao năm ròng.
Tiếng kêu làm nhói tim mọi người. Ông Sáu sung
sướng, hạnh phúc nghẹn lời, không cầm được nước
mắt. Thu vồ vập, cuống quít, níu giữ cha, níu giữ
yêu thương bấy lâu nó mong đợi. “Nó hôn ba nó
cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết
thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “hai tay nó xiết
chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được
ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và
đôi vai nhỏ bé của nó run run”.
Đối với người cha, đó là tiếng “ba” đầu tiên và cũng
là tiếng yêu thương cuối cùng ông được nghe từ
con ! Ở chiến khu, ông cố gắng hết sức, thận trọng,
tỉ mỉ làm cho con chiếc lược ngà. Ông đặt vào đấy
tất cả tình cảm cha con. Chiếc lược trở thành vật
thiêng, an ủi ông “gỡ rối phần nào tâm trạng”, nuôi
dưỡng tình cha con. Ông thường xuyên “lấy cây
lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược
thêm bóng, thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến
người chiến sĩ thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ
sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Trước

khi nhắm mắt xuôi tay, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược,
nhờ bạn chuyển lại cho con - cử chỉ chuyển giao đó
là một ước nguyện giữ gìn muôn đời tình cảm cha
con, ruột thịt.
Truyện “Chiếc lược ngà” đã diễn tả một cách cảm
động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con
ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.
Hình ảnh cây lược được gắn vào đó một trái tim
thổn thức tình ruột thịt, khẳng định giá trị nhân
bản sâu sắc, cao đẹp thiêng liêng !
(Sưu tầm) Hình ảnh người lính trong hai tác phẩm
"Đồng chí" và "bài thơ về tiểu đội xe không kính"
Dàn ý phần thân bài
Ý 1: Giới thiệu chung
- Về đề tài: Dân tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt chống
Pháp và chống Mỹ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba mươi năm chưa rời tay súng. Hình
ảnh anh “Bộ đội cụ Hồ” là hình ảnh “con người đẹp nhất” đáng yêu nhất trong văn thơ và
là niềm tự hào lớn của dân tộc.
- Về hai tác phẩm: Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ “Đồng chí” sáng tác vào đầu năm
1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc, bài thơ “Tiểu đội xe
không kính” sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia họat động ở tuyến
đường Trường Sơn đã khắc họa thành công về đề tài người lính.
- Về luận đề: hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong văn
chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kỳ lịch sử.
Ý 2: Phân tích lịch sử
1. Những điểm chung: Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang những vẻ đẹp
chung:
- Yêu nước, yêu quê hương yêu đồng chí:
+ Có thể phân tích các câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra trận” (Đồng chí) và “Xe
vẫn chạy vì miền nam phía trước” (Tiểu đội xe không kính).

+ Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chất chứa bao tình cảm không lời trong cả hai bài thơ
thể hiện sự gắn bó đồng chí
- Vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ:
+ Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết hết sức
thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ.
+ Thế mà, các chiến sĩ đều có một tư thế ngoan cường “chờ giặc tới”, “ung dung nhìn
thẳng”.
- Lạc quan tin tưởng: Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Từ
“miệng cười buốt giá” của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp đến “nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha” của anh lính lái xe thời chống Mỹ đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách
anh hùng.
2. Những điểm riêng khác nhau
- Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu thể hiện người lính nông dân thời kỳ đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình đồng chí thiềng
liêng hòa quyện với tình giao tiếp khi lý tưởng chiến đấu đã rực sáng trong tâm hồn.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×