Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nguy cơ do viêm mủ màng phổi pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.52 KB, 6 trang )

Nguy cơ do viêm mủ màng phổi
Viêm mủ màng phổi (VMMP) là sự tràn mủ trong
khoang màng phổi. Dịch là mủ thật sự hoặc là chất dịch
đục hay màu nâu, nhưng bao giờ cũng có xác bạch cầu
đa nhân là thành phần chính
của mủ.
Đau ngực, ho khan có lo
viêm mủ màng phổi?
Khi bị VMMP cấp tính, bệnh
nhân thường có dấu hiệu như
sau: bệnh khởi đầu đột ngột,
rầm rộ hoặc khởi đầu bằng
những triệu chứng giống như
bị cảm cúm. Nếu VMMP thứ
phát do các bệnh khác thì rất khó xác định thời gian khởi
phát của bệnh. Giai đoạn toàn phát có các triệu chứng: đau
ngực, khó thở, ho khan. Hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm
độc gồm sốt cao, đau đầu, mất ngủ, kém ăn, gầy sút, bạch
cầu trong máu tăng cao. Khám thấy hội chứng 3 giảm do

Tổn thương viêm m

màng phổi tr
ên phim
Xquang.
tràn dịch khoang màng phổi. Xquang có hình tràn dịch
màng phổi. Xét nghiệm tìm thấy vi khuẩn trong mủ.
Nếu bệnh nhân bị VMMP bán cấp và mạn tính, xuất hiện
sau khi bệnh khởi phát trên 2 tháng nếu không được điều
trị, gồm các triệu chứng: đau ngực, khó thở, ho có đờm
hoặc có mủ hôi. Hội chứng nhiễm khuẩn nhiễm độc không


rầm rộ như ở giai đoạn cấp tính, nhưng toàn trạng bệnh
nhân lại suy kiệt nặng, số lượng bạch cầu trong máu tăng
vừa, hồng cầu và huyết sắc tố giảm Khám thấy hội chứng
3 giảm do dày dính co kéo màng phổi, các xương sườn nằm
xuôi và kém di động, các khoang liên sườn hẹp lại, tạo nên
một bên ngực cứng đờ và bị kéo thấp xuống hơn so với bên
lành. Xquang thấy có khoang cặn ở vùng dưới và sau của
màng phổi, có thể thấy hình ảnh khí quản và trung thất bị
co kéo về bên tổn thương, cột sống bị vẹo với chiều lõm
hướng về bên bị mủ màng phổi.
Biến chứng do VMMP có thể nguy hiểm tính mạng
VMMP không thể tự hấp thu và khỏi nếu không được điều
trị. Trường hợp điều trị tích cực ngay từ giai đoạn cấp tính
thì bệnh có thể khỏi sau 2 - 4 tuần và ít để lại di chứng
nặng. Nhưng nếu điều trị không tốt hoặc không được điều
trị thì mủ màng phổi sẽ trở thành mạn tính và dẫn tới các
biến chứng nặng như: vỡ ra thành ngực, thường ở đường
nách sau vì là nơi thành ngực mỏng và là chỗ thấp khi bệnh
nhân nằm. Mủ từ khoang màng phổi rò qua khe liên sườn
vào dưới da rồi sau đó vỡ qua da ra ngoài, tạo thành lỗ rò
mủ kéo dài ở thành ngực. Rò phế quản: mủ từ khoang
màng phổi vỡ vào nhu mô phổi và rò vào phế quản. Bệnh
nhân đột nhiên thấy đau nhói, khạc ra ít máu, khó thở rồi ộc
ra một lượng mủ lớn. Nếu là rò phế quản lớn với lượng mủ
nhiều thì bệnh nhân có thể bị ngạt thở cấp tính và thậm chí
có thể tử vong. Nếu rò phế quản nhỏ thì bệnh nhân ho và
khạc mủ thối kéo dài. Có khi gặp trường hợp vỡ ổ mủ
màng phổi vào thực quản hoặc qua cơ hoành vào ổ bụng.
Biến chứng toàn thân có thể gặp như: thoái hoá dạng tinh
bột (amyloid) ở gan, thận, nhiễm khuẩn huyết, áp-xe các cơ

quan khác, suy tim
Vì sao bị viêm mủ m
àng
phổi?
Nhiều nghiên c
ứu cho thấy
VMMP có th
ể xuất phát
đầu tiên ở khoang m
àng
phổi hoặc thứ phát sau m
ột
số bệnh như: viêm ph
ổi,
áp-xe phổi, giãn ph
ế quản,
ung thư ph
ổi bội nhiễm, dị
vật phổi, nấm phổi, vi
êm
tắc động mạch phổi; r
ò khí
phế quản, rò thực quản, áp-
xe hạch trung thất; vi
êm
xương sườn, viêm các đ
ốt
sống lưng, áp-xe vú; áp-
xe
dưới cơ hoành, áp-

xe gan,
áp-xe quanh thận, vi
êm
phúc m
ạc; nhiễm khuẩn
huyết; vết thương và ch
ấn
thương ngực gây tràn d
ịch
máu khoang màng phổi
Vi khu
ẩn gây VMMP
thường gặp là tụ cầu v
àng,
Điều trị bảo tồn hay phẫu
thuật?
Phải điều trị sớm, tích cực,
phối hợp chặt chẽ việc dùng
kháng sinh mạnh và theo kháng sinh đồ, nâng cao thể trạng
cho bệnh nhân bằng ăn uống tốt, truyền đạm, truyền máu.
Làm sạch khoang màng phổi. Bệnh nhân cần tập thở tích
cực trong quá trình điều trị.
Điều trị bảo tồn: phải dùng kháng sinh liều cao, phối hợp
kháng sinh và dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ, kết hợp
dùng kháng sinh tại chỗ và kháng sinh toàn thân. Chọc hút
màng phổi: có tác dụng tốt khi mủ màng phổi mới xuất
hiện, dịch mủ còn loãng và số lượng không lớn, khoang
màng phổi không bị dày dính và đóng ngăn. Chọc ở chỗ gõ
đục nhất nhưng không nên thấp quá vì có thể bị tắc kim do
mủ đặc đọng ở đáy khoang mủ. Sau khi hút hết mủ có thể

bơm rửa khoang màng phổi bằng huyết thanh mặn, sau đó
có thể bơm kháng sinh vào khoang màng phổi. Phải chọc
hút mủ hằng ngày, nhưng sau 5-10 ngày không thấy có kết
quả thì phải chuyển sang dẫn lưu màng phổi. Dẫn lưu màng
liên c
ầu, phế cầu, proteus,
vi khu
ẩn lao, Bacteroides,
Salmonella
phổi: ống dẫn lưu có thể đặt ở các khoang liên sườn từ V
đến VII đường nách giữa hoặc đường nách sau. Qua ống
dẫn lưu có thể bơm rửa và đưa kháng sinh vào khoang
màng phổi. Khi khoang màng phổi hết mủ và phổi nở ra sát
thành ngực thì rút ống, nếu sau 5-7 ngày mà không đạt
được kết quả như trên thì nên rút ống dẫn lưu để đặt vào
chỗ khác vì lúc này chân ống dẫn lưu đã bị viêm và hở, làm
mất tác dụng hút âm tính của ống dẫn lưu.
Nâng cao thể trạng: cho bệnh nhân ăn uống tốt, truyền đạm,
truyền máu, các loại sinh tố Tập thở để phục hồi khả năng
đàn hồi của nhu mô phổi và làm phổi nở sát thành ngực.
Phẫu thuật: giai đoạn mạn tính, mủ màng phổi tạo thành
một khoang tàn dư có thành rất dày và không tự xẹp lại
được, khi đó phải phẫu thuật để giải quyết.
ThS. Phạm Thanh Tùng


×