Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận: Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.27 KB, 32 trang )

Trường……………….
Khoa………………….
TIỂU LUẬN
Quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa ở nước ta

1
MỤC LỤC :
Quá trình công nghi p hóa v hi n i hóa n c taệ à ệ đạ ở ướ 1
M C L C :Ụ Ụ 2
PH N I : M UẦ ỞĐẦ 4
CH NG I: C S LÝ LU NƯƠ Ở Ở Ậ 6
1. N i dung khoa h c công nghộ ọ ệ 6
2. Vai trò c a khoa h c công nghủ ọ ệ 6
CH NGII: C S TH C TI NƯƠ Ơ Ở Ự Ễ 8
1.S c n thi t ph i phát tri n KH- CNự ầ ế ả ể 8
4. Các ngu n l c phát tri n KH- CNồ ự để ể 16
a. Ch m lo phát tri n ngu n nhân l c KH- CNă ể ồ ự 16
Nhân t con ng iố ườ 16
CH NG III : TH C TR NG KH- CN VI T NAMƯƠ Ự Ạ Ệ 18
1. Th nh côngà 18
CH NG IV: M T S GI I PHÁPƯƠ Ộ Ố Ả 25
28
C- K T LU NẾ Ậ 28
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả 29
1. T P CH TRI T H CẠ Í Ế Ọ 29
2. T P CH C NG S NẠ Í Ộ Ả 29
3. GIÁO TRÌNH CNXHKH 29
4. GIÁO TRÌNH KTCT 29
5. C NG M T S TÀI LI U THAM KH O KHÁCÙ Ộ Ố Ệ Ả 29
BÁO CÔNG AN NHÂN DÂN 29


BÁO KINH T Ế 29
M C L C : TRANGỤ Ụ 30
PH N I : M U 2Ầ ỞĐẦ 30
PH N II : N I DUNG CH NH Ầ Ộ Í 30
30
Ch ng I: C s lí lu n ươ ơ ở ậ 30
1.N i dung khoa h c công ngh 4 ộ ọ ệ
30
2.Vai trò khoa h c công ngh 4ọ ệ 30
30
Ch ng II: C s th c ti nươ ơ ở ự ễ 30
1.S c n thi t ph i phát tri n KH-CN 6ự ầ ế ả ể 30
2.V h ng tác ng c a KH-CN 8ề ướ độ ủ 30
3.Vai trò c a KH-CN ôí v i m t s l nh v c 10 ủ đ ớ ộ ố ĩ ự 30
4.Các ngu n l c phát tri n KH-CN 15ồ ự để ể 30
30
Ch ng III: Th c tr ng KH-CN VI T NAMươ ự ạ Ệ 30
1. Th nh công 18à 30
2. H n ch 21 ạ ế 30
3. Nguyên nhân c a nh ng th c tr ng y 25ủ ư ự ạ ấ
30
30

2
Ch ng IV: M t s gi i pháp 27ươ ộ ố ả
30
PH N III : K T LU N 31Ầ Ế Ậ 30

3
PHẦN I : MỞ ĐẦU

Đất nước ta bước vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền sản xuất chưa vận động theo
con đường bình thường của nó. Lịch sử đã để lại cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và
lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lực lượng sản xuất rất thấp kém. Nhưng ngày nay
khi độc lập dân tộc gắn kiền với CNXH là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai cấp công
nhân đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cũng là
lúc bắt đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạnh XHCN ở nước ta là một quá trình biến đổi cách
mạng toàn điện, sâu sắc và triệt để. đó là một quá trình vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới
từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng mới, tạo ra của cải đời
sồng vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Do đó, trong quá trình đi lên CNXH
chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.theo quan điểm của ban chấp
hành trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định“Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình
chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế –xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Quan điểm này đã
gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai trò khoa học-công nghệ là then
chốt đẩy mạnh công nghiệp hoá. Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước chưa được mở
rộng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa phát triển mạnh mẽ phải”tự lực cánh
sinh” thì đó chính là một trình tự hợp lí để tiến hành công nghiệp hoá. Song hiện nay cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ đang tác động một cách sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới
khoảng thời gian để phát minh mới ra đời thay thế phát minh cũ ngày càng được rút ngắn lại, xu
hướng chuyển giao công nghệ giữa các nước ngày càng trở thành đòi hỏi cấp bách, không chỉ
đối với các nước lạc hậu, mà ngay cả đói với các nước phát triển. Thực tế cho thấy có thể
chuyển giao một cách có hiệu quả cho các nước đi sau khi mà các nước đi sau đã có sự chuẩn bị
kĩ càng để đón nhận. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau trong đó có nước ta cần phải làm ngững gì
đẻ iếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành tựu mà các nước đi trước đã đạt được. Bài
học thành công trong quá trình công nghiệp hoá của các nước NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng
một cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa với bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có chọn lọc
những thành tựu của các nước đi trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và


4
công nghệ hiện đại, đó chính là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất quyết định sự thành
công của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá.


5
CHƯƠNG I: CỞ SỞ LÝ LUẬN
1. Nội dung khoa học công nghệ
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung phong phú, trong đó có
thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau:
- Cách mạng về phương pháp sản xuất: đó là tự động hoá. Ngoài phạm vi tự động như
trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi người máy thay thế con
người trong quá trình vận hành sản xuất.
- Cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống mà con người sử
dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện thì ngày nay con người càng tạo ra nhiều năng lượng
mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời.
- Cách mạng về vật liệu mới : ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự nhiên, con
người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu tự nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân
tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng
ngày càng cạn dần .
- Cách mạng về công nghệ sinh học, các thành tựu của cuộc cách mạng này đang được áp
dụng rông rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh
thái.
- Cách mạng về điện tử và tin học : đây là lĩnh vực hiện nay loài người đang đặc biệt
quan tâm trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử.
Như vậy, khoa học công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó không chỉ là các
phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là các bí quyết biến các nguồn lực có sẵn
thành sản phẩm. Với ý nghĩ đó khi mói tới công nghệ thì sẽ cũng bao hàm cả kỹ thuật. đặc biệt
là trong giai đoạn hiện nay khoa học, kĩ thuật luôn nắn bó chặt chẽ với nhau : khoa học là tiền
đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả của khoa học.

2. Vai trò của khoa học công nghệ
Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức được rằng khoa học và
công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát triển. Khoa học và công nghệ
là cái không thể thiếu được trông đời sống kinh tế – văn hoá của một quốc gia. Vai trò này của
khoa học và công nghệ càng trở lên đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút
ngắn giai đoạn phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt đầu tiến hành

6
công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định khoa học và công nghệ là cái giữ vai trò quan
trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bản đảm chất lượng
và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh, khoa học và công nghệ phải trở thành “quốc sánh
hàng đầu”.
Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH. Nghị
quyết Trung ương hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã xác định rõ :”CNH-
HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ” “khoa học và công nghệ phải trở
thành nền tảng và động lực cho CNH- HĐH”. Chỉ bằng con đường CNH- HĐH, phát triển khoa
học và công nghệ mới có thể đưa nước ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh
văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là phổ cập những tri thức khoa học và
công nghê cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu cầu cấp thiết của xã hội ta hiện
nay. Nghị quyết trung ương II cũng đã nhấn mạnh phải thật sự coi “Sự phát triển khoa học và
công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần
chúng. Bởi lẽ dù chúng ta có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đưa trang
thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình công nghệ hiện đại nhất vào nước ta thì cũng
không có gì để có thể bảo đảm đẩy mạnh được CNH- HĐH. Nếu không có được những con
người am hiểu và sử dụng chúng. Do đó, xã hội hoá tri thức khoa học và công nghệ là một trong
những nhu cầu thiết thực và cấp bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
Phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình phát triển và nâng cao trình độ công
nghiệp. Việc nâng cao trình độ công nghệ được thực hiện trong quá trình điện khí hoá, cơ giới
hoá, tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá và sinh học hoá. Trong các ngành lĩnh vực kinh tế

quốc dân, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế của đát nước trong đó cần ưu tiên đưa ngành
công nghệ hiện đại thích hợp vào các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, các vùng lãnh
thổ mũi nhọn trọng điểm, đạt hiệu quả kinh tế cao, tích luỹ nhanh và lớn. Có như vậy mới tạo
khả năng thu hút và thúc đẩy CNH- HĐH các ngành, các lĩnh vực và các thành phần kinh tế.

7
CHƯƠNGII: CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN
Cách mạng KH- CN đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển, tức là ở những
nước đã trải qua thời kì cách mạng công nghệ, đã xác lập được nền sản xuất cơ khí hoá đã có
nền KH và CN tiên tiến. Tuy nhiên, nó không chỉ hạn chế trong ranh giới của các nước phát
triển mà ảnh hưởng của nó đang lan ra tất cả các nước trên thế giới . Có thể nói cách mạng KH-
CN là một hiện tượng toàn cầu, hiện tượng quốc tế sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả dân tộc
và các quốc gia trên trái đất
Là một hiện tượng toàn cầu, cuộc mạng KH- CN mang trong bản thân nó những qui luật
chung, phổ biến, chúng tác động vào tất cả các loại hình cách mạng KH- KT. Nhưng mặt khác,
mỗi nước tiến hành cuộc cách mạng này trong những điều kiện riêng của đất nước mình cho
nên cách mạng KH- KT ở những nước khác nhau cũng mang những màu sắc, những đặc điểm
khác nhau. Do đó, khi xem xét cuộc cách mạng KH- KT ở nước ta cần phải đặt nó trong bối
cảnh chung của cách mạng KH- KT trên thê giới.
Sau khi giành được độc lập về chính trị, nước ta có nguyện vọng sử dụng những thành
tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại, muốn tiến hành cuộc cách mạng đó để phát triển
kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật để đưa đất nước ta khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu.
Nguyện vọng đó là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, việc tiến hành cách mạng KH- CN ở nước
ta gặp phải những khó khăn lớn, do nhiều nguyên nhân
Trước hết, nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và công nghệ. Nông
nghiệp và công nghiệp chưa hết hợp thành một cơ cấu thống nhất, sự mất cân đối trong các
ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm trọng
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ thì số đông dân cư nước ta vẫn ở tình trạng mù
chữ, thiếu lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu cán bộ văn hoá và kỹ thuật.

Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh đã gây ra những khó khăn cho việc bảo đảm lương
thực, giải quyết công ăn việc làm cho những người lao động
Ngoài những khó khăn trong nước, nước ta còn phải chịu những di sản nặng nề do sự nô
dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để kại, đồng thời các cường đế quốc lại đang
thực hiện chính sách kìm hãm sự phát triển khoa học và kỹ thuật nhằm duy trì tình trạng bất
bình đẳng của họ trong sự phân công lao động quốc tế

8
Nếu nước ta sau khi đã được giải phóng khỏi sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, lại chọn
con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đứng giữa ngã ba đường trong việc lựa chọn
phương hương phát triển xã hội dù chúng ta có sự cố gắng như thế nào đi nữa trong việc sử
dụng những thành tựu KH- CN hiện đại thì chúng ta cũng không thoát khỏi địa vị phụ thuộc vào
các nước đế quốc về mặt KH- CN và do đó phụ thuộc về mặt kinh tế, không thể khắc phục được
những mâu thuẫn xã hội do tiến bộ khoa học và kỹ thuật gây ra, không thể tiến hành thành công
cuộc cách mạng KH- CN
Do đó, điều kiện kiên quyết để tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta là phải tiến hành
cải tạo xã hội sâu sắc, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân mới và các thế lực
phản động để đi lên CNXH.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ nước ta bước đầu có sự
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền khoa học và kỹ thuật nước ta vẫn đang trong
tình trạng lạc hậu, chậm phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước
Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nước tiên tiến nhất trên thế giới, chúng ta lạc
hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nước tiên tiến ở mức trung bình ta lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học – công nghệ ở nước ta không
chỉ được coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi hỏi bức xúc để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở thành
nước công nghiệp. Khác với các nước đi đàu, công nghiệp hoá nước ta đòi hỏi phải thực hiện
rút ngắn. chỉ có như thế, chúng ta mới có thể sớm rút ngắn được khoảng cách và tiến tới đuổi
kịp các nước phát triển. Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá

Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường cũng đòi hỏi chúng ta phải
phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại từ điểm xuất
phát thấp, nước ta không thể đi theo các bước tuần tự như các nước đi trước đã làm, mà phải
phát triển theo kiểu “nhảy vọt”,”rút ngắn”. Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của nước phát
triển sau, vừa là thách thức đòi hỏi phải vượt qua. Muốn phát triển nhanh kinh tế thị trường theo
cách thức như vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học- công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nước ta không chỉ bắt nguồn từ đòi
hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quá trình phát triển kinh
tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là một kiểu định hướng tổ chức

9
nền kinh tế- xã hội vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên
nguyên tắc và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định hướng này không chỉ đòi hỏi nền kinh tế
tăng trưởng ở mức cao mà còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.Ở đó, phát triển con người và phát triển xã hội bền vững được coi là trung tâm. Đâu là con
đường phát triển chưacó tiền lệ. Muốn đạt tới đó, chúng ta phải có nỗ lực và sáng tạo rất cao,
phải biết vận dụng những thành tựu mới nhất của nhân loại, tránh những sai lầm mà các nước
khác đã vấp phải. Nếu không đủ trình độ trí tuệ, không đủ năng lực nội sinh thì khó có thể thành
công. Do vậy, đẩy mạnh phát triển khoa học và kỹ thuật càng trở nên rất quan trọng và bức
thiết.
2.Về hướng tác động của KH- CN
a. Tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo, đồng bộ, hoá và hiện đại hoá có chọn lọc các cơ sở
sản xuất hiện có
Tuy cơ sở vật chất- kỹ thuật có của nước ta còn nhỏ bé, trình độ công nghệ, kỹ thuật vào
loại lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị và công suất còn thấp. Bởi vậy, nguồn dự trữ còn khá lớn và
dưới nhiều góc độ, đây thật sự đang là nguồn vốn quý của đất nước và phải bắt đầu từ đây để đi
lên
b. Chủ động sử dụng có chọn lọc một số hướng công nghệ tiên tiến phù hợp với thế mạnh
của đất nước nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển các ngành có hàm lượng công nghệ cao

Ở nước ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu quả cơ sở vật chất-
kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần tiềm lực dư lớn cho việc thử nghiệm,
lựa chọn một sồ hướng công nghệ cao phù hợp để một mặt, hỗ trợ cho việc giải quyết có hiệu
quả hơn, mặt khác thúc đẩy việc hình thành một số lĩnh vực sản xuất công nghệ cao với quy mô
phù hợp để tạo ta các sản phẩm thay thế nhập và tạo chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Trong số những hướng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu tin học hoá một số
lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong việc đầu tư phát triển một số lĩnh vực
sản xuất gắn với các hương ưu tiên của chương trình tổng hợp tiến bộ KH- CN. Đó là dịp tốt để
VN tham gia vào phân công lao động quốc tế về một số sản phẩm có hàm lượng khoa học cao
c. Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp nhỏ, của khu
vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn.
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng để có thể thực hiện có hiệu quả chiếm lược này, việc
nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu về công nghệ, sự yêú kém về năng lực quản lý, sự thiếu hụt
về lực lượng lao động có kỹ thuật là yêu cầu bức bách phải giải quyết .Bởi vậy việc giành một

10
phần nỗ lực đủ mạnh hướng vào việc giải quyết các nhu cầu khoa học và công nghệ phục vụ
phát triển công nghiệp nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt
Những phân tích nêu trên đã tới gợi ý quan trọng là chiến lược phát triển khoa học và kỹ
thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ ,cải tiến và
nên coi đây là một hướng có ý nghĩa chiến lược cả trước mắt và lâu dài .
d.Kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trước mắt và tiếp tục tăng
cường tiềm lực khoa học và kỹ thuật nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của giai đoạn phát
triển tiếp theo
3. Vai trò của KH- CN đối với một số lĩnh vực
a. Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển nông thôn
Gần 20 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt được những thành
tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế xã hội đưa nước ta bước sang giai
đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Tuy nhiên cho đến nay với gần 80%
dân số của cả nước sống ở nông thôn, trong đó tỷ lệ đói nghèo vẫn còn trên 22%, có nơi như ở

một số huyện miền núi còn trên 42%(theo chuân ngheò mơí). Mặt khác cũng do nền kinh tế
nước ta mới bước đầu chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN nên năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản,
hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Điều đó làm cho thu nhập và
tích luỹ của đại bộ phận dân cư nông thôn còn bấp bênh, sức mua có khả năng thanh toán về tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng đều rất hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu
của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời gây cản trở việc, phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa
bàn nông thôn
So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ yêu cầu vốn đầu tư
không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá chung, trong nông nghiệp ước tính 1/3
giá trị tăng của sản xuất lương thực thời gian vừa qua là do người dân tiếp thu, ứng dụng các
tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới vào sản xuất
Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nước ta chưa được phát huy đầy đủ cho sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc của sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn đặt ra đối với các lực lượng KH- CN đến nay chưa giải quyết được, trong đó đáng
lưu ý hơn cả là :
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung quan trọng trong quá
trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà sự chuyển đổi đó phụ thuộc vào việc tổ

11
chức áp dụng thành tựu KH- CN vào sản xuất và các chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất.
Chỉ trên cơ sở có đủ giống tốt và các tiến bộ kỹ thuật khác, kết hợp với việc phát triển các quan
hệ thị trường đúng hướng mới có thể chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc
canh sang đa dạng hoá cây trồng. Hiện nay việc chuyển đổi kinh tế nông thôn từ nông nghiệp
sang công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện ở một số ven vùng có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, có
trình độ dân trí cao, có khả năng tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật
-Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy chiếm gần 40% tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng nhìn chung, năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh của nông sản hàng hoá còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, khiến cho
các sản phẩm làm ra tiêu thụ khó khăn, ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập của người sản xuất. KH-

CN chưa có sự tác động cần thiết và hiệu quả bản đảm tính ổn định, bền vững của nông sản
hàng hoá khi gặp phải rủi ro của thiên tai và thị trường
- Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình thực hiện CNH-
HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhưng phát triển công nghiệp, chế biến như thế nào lại là vấn đề
bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
- Gần đây, Nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư
của nhà nước chưa được giải quyết tốt. Do đó, nông nghiệp, nông thôn đang rất cần có sự tác
động của lực lượng KH- CN
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện CNH- HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và đó cũng chính là những yêu cầu bức xúc đặt ra
đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để huy động
được các lực lượng KH- CN phục vụ nông nghiệp, nông thôn, chú ý các vấn đề về tổ chức bộ
máy, cơ chế vận hành và các chính sách tác động, trong đó cốt lõi là giải quyết hợp lý lợi ích
cho người làm nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH- CN.
Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật phục vụ
kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một việc làm hiệu quả, đã khẳng định vai trò, động lực chủ
đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, cần tổ chức, vận
động thành phong trào rộng lớn đưa KH- CN về phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
nhằm tạo ra bước chuyển biến rõ rệt về năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nông sản hàng hoá, chủ động hội nhập cới khu vực và quốc tế, góp phần chuyển đổi nhanh cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật nuôi để có cơ sở lựa

12
chọn, nhân giống các sản phẩm có ưu thế ở từng vùng, từng địa phương, phát triển công nghiệp,
công nghệ chế biến, ứng dụng các công nghệ sau thu hoạch nhằm hạn chế tổn thất, duy trì chất
lượng nông sản, khai thác các tiềm năng chưa phát huy hết, tăng cường luận cứ khoa học để bảo
đảm hiệu quả đầu tư cho khu vực nông nghiệp và nông thôn.
b. Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất
Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống thực tiễn của xã hội,

con người. Nó không phải là bản thân công cụ lao động và sức lao động, nhưng cũng không
nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực lượng sản xuất. Nó không thay thế, nhưng nó có thể
làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng tính năng hiệu lực của công cụ lao động, sức lao động và
do đó, phương thức con người tác động đến giới tự nhiên theo chiều hướng ngày càng tăng
cường sức mạnh, vai trò và tự do của con người trước thiên nhiên. Tuy nhiên, với tính cách là
sản phẩm, giá trị đã được sáng tạo ra, đã có sẵn, thì khoa học không còn là kết quả, mà lại dóng
vai trò như một trong những nguyên nhân, động lực bên trong, trực tiếp thúc đẩy mạnh nhất sự
phát triển lực lượng sản xuất
Trong điều kiện “ thông tin hoá “, “toàn cầu hoá” của đời sống xã hội và kinh tế thế giới
ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có thể được chuyển giao tiếp nhận
tương đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội khách quan thuận lợi cho sự phát triển đột biến,
nhảy vọt và bứt phá về kinh tế ở những dân tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định trong những
thời điểm, thời kỳ hay giai đoạn nhất định. Nhưng để tranh thủ tân dụng và phát huy được hết
tiềm năng của cơ hội bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu là ở bên trong phải chuẩn
bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tố con người lao động ở một nức độ
tương ứng, thích đáng. Kinh nghiệm thế giới về việc giải quyết mối quan hệ “ con người- tư
kiệu sản xuất- khoa học” một cách cân đối, hài hoà để tạo ra hiệu quả tổng hợp tối đa và tối ưu
về kỹ thuật là khá toàn diện và
phong phú
Việc xây dựng rõ vị trí tương quan vai trò và ảnh hưởng của KH- CN trong hệ thống các
thành tố lực lượng sản xuất như trên đã đồng thời làm sáng tỏ giới hạn tác động của nó về mặt
xã hội. Sự phát triển của khoa học không trực tiếp dẫn tới sự thay đổi quan hệ sản xuất và chế
độ sở hữu. Trái lại, vai trò “ cách mạng hoá “ của khoa học đối với việc thúc đẩy sự tăng trưởng
của lực lượng sản xuất lại bị chế ước bởi một quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng xã hội
nhất định. Nói cách khác, tiềm năng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển của khoa học là vô

13
tận, nhưng mức độ, giới hạn hiện thực hoá tiềm năng này lại phụ thuộc “ khuôn khổ “ của quan
hệ sản xuất thống trị
Tuy nhiên, sự phát triển như vũ bão của cách mạng KH- CN hiện đại đang diễn ra từng

ngày, từng giờ ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có tác dụng cụ thể. Sức tiến công vũ bão của
phong trào giải phong dân tộc, giai cấp tư sản đã chủ động ra sức đẩy mạnh cuộc cách mạng
KH- KT, sử dụng các thành quả của nó để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế một
cách thành công
Tuy không lạc quan đến mức vội vã và ngộ nhận mà cho rằng, cuộc cách mạng KH- CN
hiện đại sẽ tự động và trực tiếp đưa ngay đến một xã hội thực sự là “ hậu TBCN “, nhưng chúng
ta vẫn có thể ghi nhận những thành tựu lớn lao của cuộc cách mạng này và có đủ cơ sở để tin
tưởng rằng, những thành tựu ấy trong hôm qua, hôm nay và ngày mai đều góp phần thiết thực
thúc đẩy CNTB đi nhanh hơn tới điểm kết thúc không thể tránh khỏi.
c. Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở nước ta
Việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là dự đoán thiên tài của C.Mác. Dựa
trên cơ sở phân tích rõ vai trò của khoa học trong sự phát triển của công nghiêp, ông đã kết luận
: Việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội. Ngày nay dự đoán ấy đang trở thành hiện thực trong nhiều nước công nghiệp phát
triển
Khoa học là một hệ thống tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn
kiểm nghiệm, phản ánh những quy kuật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như hoạt động
tinh thần của con người, giúp con người có năng lực cải tạo thế giới
Như vậy, khoa học là” văn hoá biết”, còn sản xuất, kỹ thuật, công nghệ là “ văn hóa làm “.
Từ “biết” đến “ làm “ có một khoảng nhất định nhưng không hề có bức tường nào ngăn cản
tuyệt đối cả. Khoảng cách ấy có thể bị rút ngắn và được rút ngắn đến đâu là tuỳ thuộc ở trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, của kỹ thuật, công nghệ và khoa học
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng đến lượt mình
nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động sản xuất. Do đó con người hoàn toàn
có khả năng biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong thực tế, sự phát triển của khoa học đã giúp con người tăng cường sức mạnh trong
quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng có hiệu quả những sức mạnh của nó. Nếu không có sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học, làm sao con người có thể tạo ta năng lượng hạt nhân, phóng

14

tàu vũ trụ lên thám hiểm các hành tinh, hay sản xuất ra máy tính điện tử và người máy công
nghiệp thay thế nhiều hoạt động phức tạp của mình.
Khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất còn rất yếu, nhưng đã
phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới sản xuất. Kỹ
thuật và công nghệ là kết quả sự vận dụng những hiểu biết, tri thức khoa học của con người để
sáng tạo, cải biến các công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động sản xuất và các hoạt động
khác của xã hội. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì dứt khoát phải gắn liền với
kỹ thuật và công nghệ. Song như thế chưa đủ. Khoa học còn phải được người lai động tiếp thu
vận dụng để nâng cao kỹ năng, kỹ xảo lao động, phát triển tư duy kinh tế nhanh nhạy, trau dồi
đạo đức, lối sống, v v, mới có thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và mạnh mẽ. Người lao
động là chủ thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật. Do đó họ không thể sử dụng được các
phương tiện hiện đại để lao động tốt nếu có trình độ học vấn thấp và không được đào tạo, hay
đào tạo kém.
Có thể nói, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp vì mấy lẽ sau:
1. Nền sản xuất hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất quốc tế cao,
biến động mau lẹ, phức tạp đang đặt ra nhiều vần đề, mà thiếu khoa học thì không thể giải quyết
và phát triển nhanh chóng được. Đồng thời bản thân nền khoa học hiện đại cũng đã phát tiển
đến mức có đủ điều kiện để có thể giải quyết được những vấn đề của sản xuất.
2.Ngày nay các máy móc kỹ thuật, công nghệ ngày càng hiện đại, tinh vi và có hàm lượng
trí tuệ cao, thị trường mở rộng, phong phú, phức tạp và đầu biến động, hợp tác giao lưu nhưng
cạnh tranh giữa các quốc gia cũng gay gắt. Muốn sản xuất đạt chất lượng và hiệu quả cao,
người lao dộng không thể chỉ dừng lại ở những kinh nghiệm cảm tính, mà còn rất cần có nhiều
tri thức khoa học, kỹ thuật và kinh tế. Mặt khác, khoa học phải được con người vận dụng vào
hoạt đông thực tiễn sản xuất, hình thành nên những thao tác công nghệ, kỹ năng,… hợp thành
năng lực sáng tạo mới trở thành một lực lượng vật chất.
3. Kỹ thuật công nghệ hiện đại phải có khoa học định hướng, dẫn đường và làm cơ sở lý
thuyết mới có thể phát triển nhanh. Đồng thời các lý thuyết khoa học phải được vật chất hóa
thành các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại mới tác động trực tiếp tới lực lượng sản
xuất.
4.Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật- công nghệ hiện đại, thời gian

để một lý thuyết khoa học đi vào thực tế sản xuất, trực tiếp tạo tra sản phẩm hàng hoá đang
ngày càng được rút ngắn

15
4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN
a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN
Nhân tố con người
Nhân tố con người, đã và đang là điều kiện quyết định trong sự nghiệp phát triển KH-
CN của nước ta. Thành công của chúng ta là ở chỗ đã tạo ta một lực lượng cán bộ KH- CN ban
đầu tương đối đông đảo. Mặt khác, chính lĩnh vực này cũng là nơi đang đặt ta những vấn đề bức
thiết, mà việc giải quyết chúng, về thực chất, sẽ quyết định tính hiện thực của những bước tiếp
theo
Đối với KH- CN vấn đề không chỉ là những nhà khoa học, các kỹ sư, kỹ thuật viên với
nghề nghiệp chính thức của họ là làm công tác KH- CN, mà trước hết phải nói đến cả phong
trào quần chúng nhân dân đang tham dự vào hoạt đông công nghệ trong sản xuất xã hội. Bất cứ
hoạt động gì trong thực tiễn đời sống và sản xuất đều có quan hệ tới KH- CN.
Yếu tố quan trọng hàng đầu cho tiến bộ khoa và công nghệ là phải tạo ra một mội trường
xã hội thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển. Ở một mức độ đáng kể, môi trường đó
được tạo nên bởi nhận thức của con người ở mọi tầng lớp xã hội về vai trò của khoa học và
công nghệ
Thấy được ý nghĩa của môi trường khoa học và công nghệ dân chúng là để từ đó cần chú
trọng các biện pháp tác động về mọi mặt : giáo dục, đào tạo, tuyên truyền, phổ biến, kích thích
kinh tế và các biện pháp khác
Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
Đào tạo là khâu đầu tiên của một chu trình hình thành và sử dụng nguồn nhân lực quốc
gia về mặt khoa học và công nghệ. Nói đến đào tạo đối với nguồn nhân lực này trước hết phải
kể đến toàn bộ hệ thống giáp dục các cấp, từ phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, giáo dục
chuyên nghiệp đến đại học và trên đại học.
Tuy nhiên, so với yêu cầu chuẩn bị cán bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh công
nghệ hoá trong giai đoạn sắp tới thì đội ngũ cán bộ ấy vẫn thiếu về số lượng và yếu về chất

lượng. Không thể vì một số khó khăn trước mắt mà hạn chế qui mô và tốc độ đào tạo. Con
người luôn luôn là vốn quý nhất và đào tạo nhân lực lao động khoa học là vấn đề chiến lược
trọng yếu mà bất cứ nước nào muốn phát triển thành công cũng đều phải hết sức quan tâm
Hệ thống giáo dục phổ thông, khâu đầu của đào tạo khoa học và công nghệ của chúng ta
hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Và hệ thống giáo dục đại học và chuyên nghiệp còn nhỏ

16
bé, chưa cân đối với các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Về cơ bản, cách giáo dục
của ta còn nặng về trang bị kiến thức, nặng về lý thuyết, nhẹ về bồi dưỡng kỹ năng thực hành, ít
chú trọng phương pháp tự đào tạo trong hoạt động thực tiễn. Đó cũng là nhược điểm phổ biến
của hệ thống giáo dục của nhiển nước xã hội chủ nghĩa mà một bộ phận quan trọng cán bộ khoa
học và công nghệ của chúng ta đã được đào tạo qua .
Chúng ta không thể vừa lòng với tình trạng sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ không
bình thường như hiện nay và càng không thể định con đường phát triển của ngành đào tạo đại
học,mà không tính đến bước phát mạnh mẽ của nước ta sau này. Dù có những khó khăn tạm
thời ngày hôm nay, chúng ta vẫn phải ra sức mở rộng quy mô và tốc độ đào tạo nhân lực nhân
lực khoa học và công nghệ cho những thập kỷ sắp tới. Đào tạo con người, như kinh nghiệm cho
thấy không bao giờ là thừa đối với một nước đang phát triển như nước ta.
Vấn đề sử dụng cán bộ khoa học- công nghệ
Nếu người cán bộ được sử dụng tốt, trong quá trình làm việc sẽ diễn ra sự hiện đại
hóa,đổi mới kiến thức do đào tạo trước đó, sẽ không có sự hao mòn vô hình và cán bộ khoa học,
công nghệ đó sẽ trưởng thành, phát triển với đà tiến bộ chung.
Bức tranh sẽ hoàn toàn ngược lại khi nhân viên được đào tạo ra không được sử dụng kiến
thức nghề nghiệp của mình một cách thoả đáng. Khối lượng kiến thức ban đầu sẽ không có cơ
hội trau dồi và hiện đại hoá, không được bổ xung những nhân tố mới, giá trị sử dụng ngày càng
kém đi. Nó sẽ bị sói mòn với tốc độ cực kỳ nhanh chóng.
Từ đây phải thường xuyên đánh giá lại năng lực đã có, không thể coi năng lượng khoa
học- công nghệ là bất biến.Sử dụng là tiền đề và điều kiện tiên quyết cho phát triển nhân lực
khoa học- công nghệ. Tiềm lực cán bộ chỉ có thể phát triển trong điều kiện được phát huy năng
lực của mình một cách thoả đáng.

Không ít trường hợp sự đánh gía tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nước ta hiện nay
tỏ ra lạc quan, khi chỉ nhìn vào số lượng cơ cấu, trình độ đào tạo ban đầu của đội ngũ cán bộ.
Chúng ta hầu như đã có đủ tất cả các ngành nghề với số lượng khá đông cho một nền kinh tế
như nước ta. Song nhiều lĩnh vực chúng ta không thể huy động được lực lượng cần thiết, mặc
dù, trên danh nghĩa, chuyên ngành nào đó đã có một đội ngũ cán bộ được đào tạo không nhỏ.
Như vậy, năng lực thực tế kém xa năng lực trên danh nghĩa.
Như vậy nếu đào tạo không đi đôi với sử dụng và phát huy trình độ đã có thì không làm
tăng thêm tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nước, trái lại còn có thể giảm sút so với tích tụ
ban đầu của nguồn nhân lực.

17
b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN
Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho phát triển khoa học- công nghệ.
Muốn cho sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đai hoá được tiến hành với tốc độ nhanh cần phải có
cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn
có hiệu quả nhất.
Vấn đề huy động vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý nghĩa quan trọng
đối với nền kinh tế nước ta. Song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề sử dụng, bảo
toàn và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn được thể hiện
trước hết trong công tác tổ chức tài chính, có nghĩa là phải lựa chọn các phương án tối ưu trong
tạo nguồn tài chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn trước hết xuất phát từ
yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, phải hoạch toán kinh tế kinh doanh, xuất phát từ yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đảm bảo tính hiệu quả kinh tế cao. Vì
vậy, để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và dản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế
cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn
CHƯƠNG III : THỰC TRẠNG KH- CN VIỆT NAM
1. Thành công
KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Đã
áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến: viễn thám, địa vật lý… vào công

tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Nhiều kết quả nghiên cứu môi trường được đánh
giá cao : nghiên cứu chính sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và
xử lý ô nhiễm nước, không khí ở các khu công nghiệp tập trung, các thành phố lớn… các biện
pháp trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất…
KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ cao. Nhiều thành
tựu toán học, cơ học, vất lý của ta… được đánh giá cả ở nước ngoài. Công nghệ thông tin đã
phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống ngân hàng, quản lý hành chính, sản xuất, kinh
doanh. Đồng thời, công nghệ chế tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự động hoá… đã từng
bước được quan tâm. Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng những tiến bộ KH- CN về giống cây
trồng, quy trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã tuyển chọn, lai

18
tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan
trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn
nuôi phát triển. Hơn 20 năm qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lượng
lương thực 2004 đạt hơn 39,12 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích
thích tăng trưởng thực vật … đã được sử dụng vào sản xuất, bảo vệ, phát triển các loại cây
lương thực. Cơ cấu cây trồng đã được thay đổi cơ bản. Trước năm 1989, từ chỗ còn thiếu lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đéng thứ 2 thế giới sau Thái Lan.
Về thuỷ sản nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay năng suất cao. Tháng 5 năm 2006
sản lượng khai thác thuỷ sản ở Việt Nam đạt 166500 tấn đưa tổng sản lượng khai thác 5 tháng
đầu năm 2006 ước đạt 799.500. Trong đó sản lượng nuôi trồng tháng 5 năm 2006 đạt 135.000
tấn. Theo ước tính của Bộ Thuỷ
sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu tháng 5 năm 2006 đạt 250 triệu USD, nâng giá trị kim ngạch
xuất khẩu 5 tháng. Đặc biệt kỹ thuật nuôi tôm đã được ứg dụng khắp nơi, tạo công ăn việc làm
cho 350000 ngư dân ven biển góp phần cải thiện và tăng kim ngạch xuất khẩu các ngành thuỷ
sản.Việc nuôi trồng thuỷ sản đã có sự đầu tư khoa học thích đáng trong việc tận dụng mặt nước
ao, hồ, nước biển mà sản lượng khai thác,nuôi trồng ,xuất khẩu tăng đáng kể.
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều sản phẩm chất lượng
cao : hàng may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy, điện tử… Công nghiệp tăng trưởng

bình quân khoảng 23% năm 2004 đạt 2,1 tỷ USD, công nghiệp viễn thông đạt 200 triệu USD,
máy tính 1 triệu USD, điện tử 730 triệu USD, công nghệ phần mềm 170 triệu USD.
Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập trung vào công
tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Đổi mới CN xây dựng các nhà máy thuỷ
điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và
đổi mới CN. Hệ thống năng lượng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông
thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng.
Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát
triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây dựng một số công
trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình

19
hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào,
Campuchia… với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng và thi công mặt đường.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp
dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà nhập mạng thông tin quốc
tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp vào một trong những nước có tốc độ phát triển
nhanh nhất thế giới. Bên cạnh mạng lưới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình
dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển
mạnh, được các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài nước sử dụng. Thị trường tin học nước
ta những năm qua, có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ
quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều thông
tin, số liệu bí mật quan trọng. Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà
ấy, việc sử dụng máy vi tính ở nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình
thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng.
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch học, cắt giảm,
tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi… Kết hợp y học
truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong
phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản…
Đến nay nước ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn 800.000 người trình độ đại hoc, 8.775

phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo sư- phó giáo sư, hơn 45.000 cán bộ nghiên cứu triển khai
thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn 20.000 nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa
giảng dạy trong 105 trường đại học, cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực sự là
một vốn quý cho sự nghiệp CNH, HĐH, được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau .
2. Hạn chế
Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp
Việt Nam chưa có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện bằng hệ thống pháp
luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng tạo nguồn tài
chính để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Theo số liệu thống kê từ năm 1965 đến nay, mức đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước dành
cho hoạt đông nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10
năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng mừng, tổng kinh phí đầu tư cho
khoa học và công nghệ được nâng lên dần, nhưng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực
tế của vốn đầu tư không tăng. Theo số liệu của Bộ KH- CN và môi trường thì đầu tư tài chính

20
cho kha học công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân
hằng năm cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1.000 USD, rất
thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nước trong khu vực
châu Á . Mức đầu tư thấp nhưng lại phân tán và không ít trường hợp sử dụng lãng phí. Tuy
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa
học công nghệ và coi trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhưng mức đầu tư
cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi
vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có mang lại hiệu quả
thiết thực hay không trong khi trình độ quản lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân
sách nhà nước trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi cho nhiều ngành cũng quan trọng,
do đó mức đầu tư kinh phí cho khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của người lãnh
đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nước. Rốt cục quy định trong các văn bản và chỉ thị của
Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn không thực hiện
được.

Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng thí nghiệm và
cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt động cầm chừng, chỉ
giải quyết những vấn đề trước mắt mà không thể tạo ra được thành quả khoa học có tầm chiến
lược. Nếu không có các chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ
rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công
việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.
Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung ương cho thấy :
trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trình độ trên đại học là 2.509 người, cao
đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng là 8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ, cũng trong số
các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lượng lao động có trình độ khoa
học- kỹ thuật. Trước tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân
đã thu hút số lượng đáng kể lao động có trình độ chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công
nghệ của nhà nước. Ở tất cả các đối tượng lao động, số trường hợp ra đi nhiều hơn số trường
hợp đến, đặc biệt với số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vượt hẳn số đến.

21
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình quân chung là
57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán học vị, học
hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56 trở lên là 65,7%, riêng giáo sư chiếm
tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học công
nghệ có học hàm thì phần đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có tuổi từ 56 đến 60. Khi
một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có khả năng làm việc thì
đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi dưỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ
khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương lai rất gần.
Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực giữa
các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển, càng làm

sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển
sang kinh tế thị trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi.
Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại
nghiêm trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu không có hạ
tầng cơ sở tốt thì không thể phát triển được. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành ứng
dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến chỗ bế tắc và không
có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mới.
Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở VN
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế là cơ sở
quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, ở VN hiện nay giữa hoạt
động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế lại bộc lộ những bất cập rõ rệt
1. Mặc dù tồn tại số lượng đáng kể các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ và dưới
nhiều dạng thực phong phú, nhưng các viện nghiên cứu, các trường đại học thường mạng nặng
tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức kinh tế. Ngoài mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ
quan nghiên cứu và các đơn vị kinh tế còn một khía cạnh nữa là bản thân hệ thống cơ quan
nghiên cứu vẫn thiếu phương pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. Ở đây đòi hỏi
sự hợp tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại diện của các khu vực sản
xuất. Các hãng luôn được coi như nhân vật trung tâm của đổi mới khoa học công nghệ… Đáng
tiếc phương pháp này còn xa lạ đối với VN.

22
Thiếu những định hướng rõ ràng, cụ thể đã làm cho các chương trình nghiên cứu khoa
học công nghệ trở nên kéo hiệu quả
2. Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ hiện mất cân đối đáng kể so với cơ
cấu nền kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc khắc phục khoảng trống bằng cách
chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản sang cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi tối
thiểu.
Mặt khác, sự phân bố của lực lượng khoa học công nghệ không sát với địa bản hoạt động
kinh tế. Trên thực tế, có nhiều vùng kinh tế còn như vùng trắng của hoạt động khoa học công

nghệ
3.Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch lý và mở của mang lại sự khởi sắc cho
nền kinh tế thì nó lại làm cho vị thế của các nhà khoa học trong nước giảm xuống tương đối.
Một bộ phận không nhỏ đội ngũ các nhà khoa học công nghệ buộc phải làm thêm nghề khác
hoặc đổi hẳn nghề.
Sự lão hoá của đội ngũ khoa học cũng lý giải một phần cho hiện tượng này. Tuổi trung
bình của cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở các viện nghiên cứu là 45- 46 tuổi, tuổi trung
bình của cán bộ nghiên cứu có trình độ cao vào khoảng 55 và 60… có thể do nhiều lý do, trong
đó một lý do quan trọng là : coi giai đoạn hiện nay như là quá độ chuyển đổi từ mô hình nghiên
cứu khoa học công nghệ kiểu cũ sang mô hình nghiên cứu kiểu mới. Đối với lớp trẻ, hình mẫu
các nhà nghiên cứu thế hệ trước không còn mấy hấp dẫn, họ đang tìm kiếm những con đường
khác, những phương thức hoạt động khoa học khác
4. Chúng ta từng hy vọng có thể thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài vào VN để nhận
được những công nghệ cần thiết tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên thực tế diễn ra không như
mong muốn. Trước hết, luồng đầu tư nước ngoài đang có xu hướng chững lại sẽ hạn chế khuôn
khổ chuyển giao công nghệ. Thứ hai, cơ cấu đầu tư với 18,7% vào khách sạn dụ lịch… là một
nhân tố góp phần hạn chế quy mô chuyển giao công nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản thân
lĩnh vực công nghiệp, các chủ đầu tư nước ngoài dường như chẳng hề sốt sắng du nhập các
công nghệ tiên tiến vào VN, thay vào đó, họ chú ý nhiều đến các công nghệ thế hệ cũ cho phép
thu lại lợi nhuận tức thì từ lao động rẻ, môi trường đầu tư dễ dãi và miền đất đầu tư mới mẻ.
3. Nguyên nhân của những thực trạng ấy
Do tỷ lệ cán bộ KH- CN trong các doanh nghiệp còn thấp ; cấu trúc và phân bố đội ngũ
chưa hợp lý ; số cán bộ được đào tạo về các ngành KH và KT chỉ chiếm 15,4% trong tổng số

23
đội ngũ cán bộ KH- CN ; sự phân bố cán bộ KH- CN theo vùng lãnh thổ còn mất cân đối lớn.
Đội ngũ cán bộ KH đông nhưng chưa mạnh
Chất lượng đào tạo cán bộ KH- CN thấp. Về trình độ, chưa cập nhật CN và tri thức hiện
đại của thế giới, bị hổng nhiều về CN cao, quản tri kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ… Đội ngũ
cán bộ KH- CN nước ta có tiềm năng trí tuệ đáng kể, tiếp thu nhanh tri thức mới, nhưng còn

thiếu tính liên kết cộng đồng, khó hợp tác giữa cơ quan và cá nhân, thiếu cán bộ đầu đàn có khả
năng tổ chức và thực hiện những chương trình nghiên cứu mang tính đột phá cao. Lực lượng
chuyên gia giỏi ở các ngành hiện nay rất mỏng, phần lớn chỉ nắm lý thuyết, thiếu thực hành.
Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh thổ mạng lưới các cơ quan nghiên
cứu- triển khai. Nhiều cơ quan nghiên cứu có chức năng trùng lắp, không đồng bộ. Việc sắp xếp
và đầu tư cho các cơ quan này không theo các hướng ưu tiên trọng điểm. Cơ sở vật chất của cơ
quan nghiên cứu- triển khai các trường đại học, nghèo nàn, lạc hậu : phần lớn được xây dựng và
trang bị đã trên 30 năm trình độ thiếu bị thua kém ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nước.
Đầu tư tài chính cho KH- CN từ ngân sách, nhà nước ở nước ta, hiện còn thấp. Do vậy,
nền khoa học của ta chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt, chưa tạo được kết quả KH lớn, tầm
cỡ chiến lược. Việc sử dụng tài chính cho KH- CN hiện nay với một cơ chế thường thúc ép
chúng ta rơi vào thế phả chi, chia bị động,. Số chương trình và đề tà cấp nhà nước, cấp bộ còn
nhiều và dàn trải so với khả năng kinh phí hiện có. Nguồn ngoại tệ viện trợ không điều chỉnh
được trong phạm vi quản lý nguồn vốn KH- CN, nên hiệu quả còn thấp. Việc huy động các
nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho hoạt động nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, chưa có
cơ chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức tư nhân tự nguyện
đầu tư. Nhiều cơ quan nghiên cứu- triển khai, hoạt đông KH- CN còn dựa chủ yếu vào ngân
sách Nhà nước. Thực tế trên đã dẫn đến một nghịch lý: vốn cho KH-CN gần như duy nhất từ
nhà nước lại bị phân chia dàn trải.Trong khi đó, một số lĩnh vực cần đầu tư thích đáng :giáo dục
y tế bảo vệ môi trường hoặc những hướng nghiên cứu triển khách quan trọng mang ý nghĩa
chiến lược lại bị hạn chế do thiếu vốn .Việc thực hiện một phần vốn trong tổng giá trị dự án đầu
tư cho công tác nghiên cứu triển khai vẫn chưa được thực hiện, do nghiên cứu khoa học công
nghệ chưa được coi là một nội dung chỉ trong cơ chế quản lý đầu tư.Vai trò của khoa học công
nghệ chưa thể hiện bằng biện pháp cụ thể về mức đầu tư tài chính,chế độ cán bộ, chưa tạo lập
được hệ thống chính sách thích hợp để thúc đẩy các nhà hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
phảI dựa trên KH- CN và hướng theo nhu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội.

24
Sau khi được chuyển thành cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động KH- CN, Bộ KH-
CN và môI trường đã từng bước phát huy vai trò quản lý nhà nước trong việc giám sát, kiểm tra

các hoạt động KH- CN, quản lý nhà nước về chuyển giao CN, trình độ CN trong sản xuất và
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, công tác quản lý chưa thể hiện được tính đồng bộ, chưa gắn kết
chặt chẽ với quản lý kinh tế và xã hội, chưa tạo lập thị trường rộng rãi cho KH- CN. Nhiều công
trình KH khi áp dụng vào sản xuất, còn gặp trở ngại. Bởi sản xuất chưa thực sự có nhu cầu KH.
Cạnh đó, nhiều viện nghiên cứu có khả năng đáp ứng nhu cầu của sản xuất, lại không có đơn
đặt hàng. Hiện tượng tách rời gữa KH và sản xuất còn phổ biến.
Thành tựu KH, các tiến bộ CN, chưa được áp dụng rộng rãi nên chưa tạo chuyển biến rõ
nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Chưa tạo được
những ngành nghề mới xuất phát từ kết quả của hoạt động KH- CN. Thị trường cho KH- CN
chưa được hình thành. Trình độ CN nói chung còn ở mức thấp. Trong các ngành công nghiệp,
hệ thống máy móc thiết bị hiện tại lạc hậu so với thế giới và hình thành từ nhiều nguồn chắp vá.
Mẫu mã hàng hoá đơn điệu, chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh, xuất khẩu kém.
Quy mô dự án còn nhỏ, chưa tương xứng với tầm nhiệm vụ cấp nhà nước, phần lớn chỉ dừng ở
quy mô ngành, địa phương, hoặc cấp cơ sở, ít có tác dụng thúc đẩu sản xuất.
Công tác quản lý KH- CN tuy đã được đổi mới, nhưng chưa đồng bộ và hoàn chỉnh. Cơ
chế quản lý các chương trình trọng đIúm cấp nhà nước còn nhiều thủ tục rườm ràc không chặt
chẽ, chưa bảo đảm tập trung các nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu. Cơ chế chính sách hiện
hành không khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu triển khai hoặc có
chiến lược lâu dàI về đổi mới CN, đổi mới sản phẩm.

CHƯƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Khoa học có tính độc lập tương đối trong sự phát triển của nó, luôn được tích luỹ, có tính
kế thừa, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nước này qua nước khác. Nhờ thế một
nước lạc hậu đI sau có thể đuổi kịp các nước phát triển nếu có những chính sách khôn ngoan,
biết tiếp thu thành tựu khoa học của nước khác và biết vận dụng phù hợp với điều kiện nước
mình. Chúng ta cần biết tranh thủ tiếp thu những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ
hiện đại của các nước phát triển bằng mọi cách có thể được, nếu việc làm ấy có hiệu quả cao
hơn, dỡ tốn kém hơn đầu tư nghiên cứu trong nước.

25

×